Ngày 27/04/2014, Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ chủ sự đại lễ tuyên thánh cho hai vị tiền nhiệm là Chân phước Giáo Hoàng Gioan XXIII và Gioan Phaolô II. Nhân dịp này, chúng ta cùng điểm lại một số điểm nổi bật của hai vị Giáo Hoàng này, trước hết là tiểu sử của hai vị:
***
Chân Phước Giáo Hoàng Gioan 23, tên thật là Angelo Giuseppe Roncalli, sinh tại Sotto il Monte, Ý, thuộc giáo phận Bergamo, vào ngày 25.11.1881.
Năm 1892, ngài gia nhập chủng viện Bergamo.
Năm 1896, ngài được chấp thuận cho gia nhập Dòng Ba và tuyên khấn giữ các quy luật của Dòng Ba này vào 23.5.1897
Từ 1901 đến 1905, ngài học tại Chủng Viện Giáo Hoàng Rôma.
Tháng 10 năm 1904, ngài chịu chức linh mục tại nhà thờ Thánh Maria tại Monte Santo ở Quảng Trường Popolo ở Rôma.
Năm 1905, ngài được chỉ định làm thư ký cho vị tân Giám Mục của Bergamo, Đức Cha Giacomo Maria Radini Tedeschi.
Năm 1915, chiến tranh nổ ra ở Ý, ngài trở thành tuyên úy trong quân đội.
Năm 1919, ngài làm linh hướng cho chủng viện.
Năm 1921, ngài được Đức Giáo Hoàng Biển đức 15 triệu về Tòa Thánh để làm việc.
Ngày 19.3.1925, ngài thụ phong Giám Mục và làm Sứ Thần Tòa Thánh tại Bulgaria.
Năm 1935, ngài được chỉ định làm Sứ Thần Tòa Thánh tại Thổ Nhĩ Kỳ và Hy Lạp.
Tháng 12.1944, Đức Pio XII chỉ định ngài làm Sứ Thần Tòa Thánh ở Pháp.
Năm 1953, ngài được thăng Hồng Y.
Ngày 28.10.1958, ngài được bầu làm Giáo Hoàng với tước hiệu là Gioan 23.
Ngày 3.6.1963, ngài qua đời, thọ 82 tuổi, khi Công Đồng Vatican II đang diễn ra.
*****
Chân Phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tên thật là Karol Jósef Wojtila, sinh tại Wadowice, một thành phố nhỏ cách Kraków khoảng 50 km, Ba Lan, vào ngày 18 tháng 5 năm 1920. Ngài là con thứ hai trong gia đình có hai người con. Cha của ngài là Karol Wojtyla và mẹ của ngài là bà Emilia Kaczorowska, từ trần năm 1929 khi Karol Jósef Wojtila mới được 9 tuổi. Anh Edmund Wojtila của ngài là một bác sĩ, từ trần năm vào năm 1932. Bố của ngài qua đời vào năm 1941.
Karol Jósef Wojtila được rửa tội vào ngày 20 tháng 6 năm 1920 và rước lễ lần đầu lúc 9 tuổi. Năm 18 tuổi, ngài được lãnh nhận bí tích Thêm Sức.
Karol Jósef Wojtila được huấn luyện quân sự ở Hermanice vào năm 1935. Vào tháng bảy năm 1939, các sinh viên Ba Lan và Ukraine phải vào trung tâm huấn luyện quân sự ở Ozomla, gần Sadowa Wiszna. Thế chiến II bùng nổ vào tháng 9 năm 1939. Đức quốc xã chiếm đóng Ba Lan. Để tránh bị trục xuất sang Đức, Karol Jósef Wojtila phải làm việc cắt đá ở hầm mỏ gần Kraków.
Năm 1942, nhận ra tiếng gọi của Chúa, ngài gia nhập chủng viện thầm lặng ở Kraków trong khi vẫn tiếp tục lao động ở xưởng hóa chất Solvay. Lực Lượng Quân Sự Nga giải phóng Ba Lan năm 1945 và biến Ba Lan thành quốc gia theo chế độ cộng sản.
Sau chiến tranh thế giới thứ 2, ngài tiếp tục việc học tại chủng viện. Năm 1946, ngài thụ phong linh mục lúc 26 tuổi. Sau đó, Đức hồng Y Sapieha đã gửi ngài du học tại Roma. Năm 1948 ngài hoàn thành luận án tiến sĩ triết học. Sau đó ngài trở về Ba Lan lấy tiến sĩ thần học tại Đại Học Jagellonian ở Kraków.
Năm 1958, khi mới 38 tuổi, ngài được tấn phong giám mục ở Vương Cung Thánh Đường Wawel. Năm 1964, ngài được chọn làm Tổng Giám Mục của Kraków khi 44 tuổi. Năm 1967, ngài được đặt làm hồng y khi mới 47 tuổi.
Vào ngày 16 tháng 10 năm 1978, Karol Jósef Wojtila được chọn làm giáo hoàng khi 58 tuổi, với danh hiệu là Giáo Hoàng Gioan Phaolô II.
Từ trần ngày 2 tháng 4 năm 2005.
MỘT VÀI CHI TIẾT QUAN TRỌNG
ĐGH Gioan Phaolô II đã để lại một di sản quý giá cho Giáo hội về mặt giáo huấn. Ngài đã viết 14 thông điệp, 14 huấn dụ tòa thánh, 11 tông hiến, 42 tông thư và 28 lá thư được công bố dưới dạng tự sắc (motu proprio), không kể hàng trăm các lá thư khác.
Ngài cũng được biết đến với các cuộc tông du khắp năm châu. Trong suốt thời gian làm Giáo hoàng, ngài đã thực hiện 104 cuộc viếng thăm mục vụ bên ngoài nước Ý và 146 chuyến đi trong nước Ý. Thêm vào đó ngài đã thực hiện trên 700 cuộc viếng thăm mục vụ bên trong thành phố cũng như Giáo Phận Rôma, bao gồm 317 trong 333 giáo xứ của giáo phận, cũng như các tu viện, đại học, chủng viện, nhà thương, nhà hưu dưỡng, nhà tù và trường học. Trong các cuộc tông du, Đức Gioan Phaolô II đã du hành trên 698,310 dặm, bằng 28 lần bay chung quanh trái đất hoặc 3 lần khoảng cách từ trái đất lên mặt trăng.