09/01/2010 -

Tài liệu

1103

 


Những Bài Giáo Huấn Về Đức Maria


BÀI 7


ĐỨC MARIA VÀ  GIÁ TRỊ CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ


 


Bên cạnh những nhân tố cổ truyền đóng góp vào sự tiến triển của Thánh mẫu học (Thánh kinh, thánh truyền, thần học, lòng đạo đức), cần phải thêm một nhân tố văn hóa của thời đại, đó là phong trào nữ quyền. Đức Maria là điển hình của người nữ can đảm chấp nhận một vai trò có ảnh hưởng đến số phận của nhân loại. Trước đó, Đức Maria là biểu hiện của sự quý trọng mà Thiên Chúa dành cho phụ nữ, khi mời gọi họ tham gia vào kế hoạch cứu độ của Người.


 


1.- Trong thế kỷ thứ XX,  Thánh mẫu học đã tiến triển dưới khía cạnh thần học và tu đức, gần đây đã tăng thêm tầm quan trọng dưới khía cạnh xã hội và mục vụ, kể cả trong việc hiểu biết thêm vai trò của người phụ nữ trong cộng đoàn Kitô hữu và trong xã hội,  như  đã được nêu bật trong vài văn kiện đầy ý nghĩa của Huấn quyền Hội thánh. 


Vào lúc kết thúc Công đồng Vaticano II  ngày 08.12.1965,  các nghị phụ đã nói như sau trong sứ điệp gửi cho tất cả các phụ nữ trên thế giới: “Giờ đã đến, khi mà ơn gọi của phụ nữ đã được  diễn tả trọn vẹn, giờ mà người phụ nữ đã chiếm được trong xã hội một tầm ảnh hưởng,  một địa bàn và một thế lực chưa từng thấy xưa nay”.


Vài năm sau đó, tôi đã lặp lại những lời khẳng định đó  trong Tông thư Phẩm giá người phụ nữ: “Trong những năm gần đây, phẩm giá và thiên chức của người phụ nữ, - đề tài  tư  duy của lý trí và của Kitô giáo -, đã mặc lấy một tầm quan trọng đặc biệt” (số 1).


Trong thế kỷ này, vai trò và phẩm giá người phụ nữ là đối tượng tranh đấu của phong trào nữ quyền. Phong trào này đã muốn phản đối, đôi khi với hình thức sôi nổi, chống lại những gì, trong quá khứ cũng như hiện tại, đã làm ngăn trở việc đánh giá cao và phát triển nhân cách của phụ nữ, cũng như  việc tham gia của họ vào đời sống xã hội và chính trị. Những sự đòi hỏi này,  phần nhiều là chính đáng, đã mang lại một cái nhìn  quân bình hơn về vấn đề phụ nữ trong thế giới hiện đại. Trước những yêu sách đó, Hội thánh, nhất là trong thời gian gần đây, đã tỏ ra sự quan tâm  đặc biệt, và cũng được thúc đẩy do sự kiện là nếu biết nhận ra chân dung đích thực  của Đức Maria thì sẽ tìm gặp  một lời giải đáp hữu hiệu cho khát vọng giải phóng phụ nữ. Đức Maria là người duy nhất đã thể hiện được cách tuyệt diệu chương trình yêu thương mà Thiên Chúa dành cho nhân loại.


2.- Kế hoạch của Thiên Chúa đã được biểu lộ ngay từ trong Cựu ước, với trình thuật của sự tạo dựng trình bày một cặp nam nữ  đầu tiên được tạo dựng theo giống hình ảnh Thiên Chúa: “Thiên Chúa đã dựng con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa dựa theo hình ảnh mình mà dựng nên con người có nam có nữ” (St 1,27). Như vậy người nữ không thua kém người nam, bởi cũng mang trong mình sự “tương tự” với Thiên Chúa. Đối với người phụ nữ, do việc xuất hiện trên mặt đất như là hiệu quả của công trình Thiên Chúa, như lời đánh giá sau đây cũng được ứng dụng: “ Thiên Chúa nhìn thấy những gì mình đã làm, và quả thật là một điều rất tốt đẹp” (St 1,31). Trong viễn ảnh đó, sự khác biệt giữa người nam và người nữ không hề bao hàm sự thấp kém của người phụ nữ  hoặc  sự  bất bình đẳng, nhưng tạo thành một yếu tố mới mẻ tăng sự phong phú cho kế hoạch của Thiên Chúa,  được biểu lộ như là một điều “rất tốt”.


Thế nhưng kế hoạch  của Thiên Chúa còn đi xa hơn sự mặc khải của sách Sáng thế nữa. Thực vậy nơi Đức Maria, Thiên Chúa đã gợi lên một phụ nữ vượt xa hoàn cảnh bình thường của người phụ nữ được biểu lộ nơi sự tạo dựng bà Eva. Sự  siêu việt độc đáo của Đức Maria trong thế giới ân sủng và sự hoàn thiện của Người là kết quả của lòng ưu ái đặc biệt của Thiên Chúa, Đấng đã muốn nâng hết mọi người, nam cũng như nữ, lên tới cấp hoàn hảo và thánh thiện  của hàng thiên tử.  Đức Maria là kẻ “được chúc phúc hơn các phụ nữ”; tuy vậy, có thể nói được rằng mỗi người  phụ nữ cũng được tham dự cách nào đó vào phẩm giá siêu việt của Đức Maria trong chương trình của Thiên Chúa.


3. Hồng ân đặc biệt dành cho Thân mẫu của Chúa không những  cho thấy điều mà chúng ta nói được là sự kính trọng mà Thiên Chúa dành cho phụ nữ, mà còn làm sáng tỏ vai trò không thể thay thế được của người phụ nữ trong lịch sử của nhân loại dựa theo ý định  của Thiên Chúa.


Các phụ nữ cần phải khám phá sự quý trọng mà Thiên Chúa dành cho mình ngõ hầu ý thức hơn về phẩm giá cao quý của họ. Phong trào nữ quyền đã nổi lên để phản ứng lại một tình trạng  lịch sử và xã hội không biết  tôn trọng các giá trị của phụ nữ, những kẻ thường bị gạt vào vai trò thứ yếu  và đôi khi bị gạt ra  bên lề xã hội. Tình trạng này đã không cho phép người phụ nữ biểu lộ toàn vẹn  những sự phong phú của mình về trí năng và khôn ngoan của nữ tính.  Thực vậy, trải qua dòng lịch sử, nhiều lần các phụ nữ đã đau khổ vì tài năng của họ đã bị coi rẻ  và đôi khi còn bị hạ thấp và gánh chịu  những thiên kiến bất công. Đây là một tình trạng mà tiếc thay, mặc dù đã có một vài cải tiến,  nhưng vẫn còn tồn tại ngày nay ở nhiều nước và không ít lãnh vực trên thế giới này.


4.- Dung nhan của Đức Maria  đã bày tỏ sự quý trọng của Thiên Chúa dành cho người phụ nữ,  chặt đứt hết mọi cơ sở lý thuyết cho mọi hình thức  kỳ thị phụ nữ.


Công trình tuyệt diệu mà Đấng Tạo hóa đã thực hiện nơi Đức Maria cung cấp cho hết mọi người nam nữ một cơ hội để khám phá một vài chiều kích mà trước đây chúng ta chưa đánh giá đúng mức. Khi nhìn lên  người Thân mẫu của Chúa, các phụ nữ có thể hiểu biết hơn về phẩm giá và thiên chức  cao quý của mình. Kể cả người nam nữa, dưới ánh sáng của Đức Trinh nữ Maria, cũng có thể có một cái nhìn toàn diện và quân bình hơn về bản sắc của người phụ nữ, về gia đình và về xã hội.


Việc nghiên cứu kỹ lưỡng khuôn mặt của Đức Maria, theo như Kinh Thánh trình bày và Hội thánh giải thich, cũng cần thiết để sửa chữa một vài lối giải thích của một vài trào lưu nữ quyền, khi họ hạ giá Người. Vài tác giả trình bày Đức Trinh nữ Nazarét  như một biểu tượng của một người nữ  khép kín giữa bốn bức tường chật hẹp của gia thất.


Trái lại, Đức Maria thật là  khuôn mẫu của sự phát triển sung mãn của thiên chức phụ nữ,  bởi vì, bất chấp những giới hạn khách thể áp đặt lên điều kiện xã hội của mình, Đức Maria đã gây được một ảnh hưởng vô biên  đối với thân phận của nhân loại và đối với sự biến đổi  xã hội.


5.- Ngoài ra, đạo lý về Đức Maria còn nêu bật  những cách thức khác nhau mà đời sống ân sủng có thể cổ võ nơi vẻ đẹp tinh thần của người phụ nữ.


Đứng trước sự khai thác bỉ ổi của những kẻ muốn biến phụ nữ thành một đối tượng không còn phẩm giá,  chỉ dành cho sự thỏa mãn đam mê dục tính, thì Đức Maria tái khẳng định giá trị cao vời của nét đẹp phụ nữ, một  hồng ân và phản ánh vẻ đẹp của Thiên Chúa.


Thoạt tiên xem ra sự hoàn hảo của người nữ  được thực hiện ở nơi Đức Maria là một trường hợp ngoại lệ, không tài nào bắt chước được, một mẫu gương quá cao xa không thể  họa lại được. Thực vậy, sự thánh thiện độc nhất vô nhị của Đấng nhận được đặc ân thụ thai trinh khiết đã thường được coi như là dấu hiệu của một khoảng cách không vượt qua được. Tuy nhiên, sự thánh thiện tuyệt vời của Đức Maria, thay vì trở thành một sự ngăn cản trên con đường đi theo Chúa, thì theo chương trình của Chúa, phải trở nên dấu chỉ khuyến khích hết mọi Kitô hữu  hãy cởi mở cho quyền năng thánh hóa của ơn Chúa:  đối với Chúa không có chi mà không thể làm được. Vì thế nơi Đức Maria, hết mọi người được  kêu gọi hãy tín thác hoàn toàn nơi Thiên Chúa toàn năng,  Đấng có thể thay đổi  con tim, dìu dắt nó tới chỗ hoàn toàn thuận nhận tiếp đón kế hoạch yêu thương quan phòng của Người.


 


***


 


 


BÀI 8


VAI TRÒ NGƯỜI PHỤ NỮ


DƯỚI ÁNH SÁNG CỦA ĐỨC MARIA


 


Tiếp nối tư tưởng của bài trước, Đức Thánh Cha trình bày ba đặc điểm mà Đức Maria làm nêu bật đối với thiên chức của phụ nữ: sự hợp tác tránh nhiệm vào vận mạng nhân loại; chức  làm mẹ;  đức trinh khiết do động lực trao hiến bản thân. Những đề tài này đã được quảng diễn trong tông thư Mulieris dignitatem .


 


1.- Như tôi đã có dịp trình bày trong những bài huấn giáo trước đây, vai trò mà Thiên Chúa ủy thác cho Đức Maria trong công trình cứu chuộc đã làm sáng tỏ thiên chức của người phụ nữ ở trong đời sống của Hội thánh và của xã hội, khi xác định sự khác biệt của người nữ so với người nam. Thực vậy, khuôn mẫu đã được thiết định nơi Đức Maria đã cho thấy rõ đâu là đặc trưng của nhân cách phụ nữ.


Trong thời gian gần đây, một vài trào lưu của phong trào nữ quyền, nhằm đẩy mạnh sự giải phóng người phụ nữ, đã muốn  đồng hóa hoàn toàn người nữ với người nam. Tuy nhiên, ý định của Thiên Chúa được tỏ ra qua việc tạo dựng, tuy  muốn người phụ nữ bình đẳng như người nam về phẩm chức và giá trị, nhưng cũng đồng thời khẳng định một cách rõ rệt về sự khác biệt và về đặc trưng của phụ nữ. Căn tính của người phụ nữ không thể nào nằm ở chỗ là một bản sao chép của người nam, bởi vì người nữ có những đức tính và yêu sách đặc hữu,  mang lại cho họ một sự khác biệt cần phải được cổ võ và tán trợ.


Những yêu sách và đặc trưng của nhân cách phụ nữ đã đạt tới mức phát triển toàn vẹn nơi Đức Maria. Ơn sủng tràn trề của Chúa đã giúp cho mọi khả năng đặc hữu người phụ nữ được phát triển toàn diện ở nơi Người.


Vai trò của Đức Maria trong công trình cứu chuộc hoàn toàn tùy thuộc vào Đức Kitô. Đây là một chức vụ duy nhất, nằm trong kế hoạch hoàn tất mầu nhiệm Nhập thể: chức làm mẹ của Đức Maria cần thiết để trao ban cho thế giới Đấng Cứu chuộc, Con của Thiên Chúa thật, nhưng cũng hoàn toàn là con người.


Sự  hợp tác cần thiết của một người nữ để cho Đức Kitô đến với trần gian đã được sáng tỏ trong sáng kiến của Thiên Chúa khi mà, qua trung gian của thiên sứ, Ngài đã thông báo cho trinh nữ Nazarét ý định cứu rỗi của Ngài, ngõ hầu Đức Trinh nữ  có thể hợp tác một cách ý thức và tự do, bằng cách  biểu lộ sự ưng thuận của mình một cách quảng đại.


Ở  đây chúng ta thấy thể hiện khuôn mẫu cao cả nhất của sự hợp tác một cách có trách nhiệm của người phụ nữ vào việc cứu độ của con người, - của toàn thể con người-. Khuôn mẫu này tạo thành một điểm quy chiếu cho hết mọi khẳng định  về vai trò và chức phân của người phụ nữ trong lịch sử.


2.- Khi thực hiện hình thức hợp tác cao cả đó, Đức Maria cũng tỏ cho chúng ta thấy một phong thái, nhờ đó mà người phụ nữ cần phải  diễn tả sứ mạng của mình ra cụ thể.


Đứng trước lời loan báo của thiên sứ, Đức Trinh nữ đã không tỏ lộ một thái độ đấu tranh kiêu hùng, cũng không đòi đáp ứng những tham vọng cá nhân. Thánh Luca đã trình bày cho chúng ta thấy là Đức Trinh nữ  chỉ ước mong cống hiến sự phục vụ khiêm tốn của mình trong tâm tình tín thác hoàn toàn vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Đây là ý nghĩa của lời đáp của Người: “Này đây tôi là nữ tỳ của Chúa, xin hãy xảy ra nơi tôi điều mà Ngài đã nói” (Lc 1,38).


Thực vậy, đây không phải là một sự đón nhận hoàn toàn thụ động, bởi vì sự ưng thuận của Người đã được bộc lộ sau khi đã trình bày nỗi khó khăn gây ra bởi quyết định giữ mình trinh khiết, mà Người đã ôm ấp vì  muốn thuộc trọn về Chúa.


Sau khi đã nhận được lời giải đáp của thiên sứ, Đức Maria đã lập tức bày tỏ thái độ sẵn sàng của mình,  qua sự phục vụ khiêm tốn.


Chính sự phục vụ khiêm tốn quý giá mà biết bao nhiêu phụ nữ, dõi theo gương của Đức Maria đã và đang cống hiến cho Hội thánh nhằm mở rộng Nước Chúa.


3.- Hình ảnh của Đức Maria nhắc nhở cho các phụ nữ ngày nay giá trị của chức làm mẹ. Trong thế giới hôm nay, không phải lúc nào người ta cũng nhìn nhận giá trị đó một chỗ đứng quân bình. Tại một vài nơi, hiện tượng các phụ nữ phải đi kiếm việc làm để trám vào những yêu sách không ngừng gia tăng của gia đình và quan niệm sai lầm về tự do đã coi việc săn sóc con cái như là một trở ngại cho sự tự lập và những khả năng khẳng định của phụ nữ; não trạng đó đã làm lu mờ ý nghĩa của chức làm mẹ đối với sự phát triển nhân cách phụ nữ. Ngược lại, trong một vài trường hợp khác,  người ta đề cao quá đáng khía cạnh sinh đẻ về thể chất  đến nỗi đã làm mờ nhạt những khả năng khác mà người phụ nữ có thể biểu lộ  chức năng thiên phú làm mẹ.


Nơi Đức Maria, chúng ta có thể hiểu được ý nghĩa đích đáng của thiên chức làm mẹ, được đạt tới cao điểm  trong ý định  cứu rỗi của Thiên Chúa. Đối với Người, việc làm mẹ không  những mang lại sự phát triển trọn vẹn cho nhân cách phụ nữ,  bởi vì người nữ đã được hướng tới việc trao ban sự sống, nhưng mà đồng thời nó còn tạo nên một sự đáp ứng trong đức tin cho thiên chức đặc hữu của người phụ nữ; thiên chức này chỉ đạt được  giá trị chân chính trong ánh sáng của  giao ước với Thiên Chúa (tông huấn Mulieris dignitatem, số 19).


4.- Khi chú ý ngắm nhìn Đức Maria, chúng ta khám phá nơi Người khuôn mẫu của sự trinh khiết vì Nước Trời.


Là Trinh nữ điển hình, Người  đã nuôi dưỡng trong tâm hồn lòng ước ao muốn sống hoàn cảnh  đó ngõ hầu  có thể đạt tới sự thân mật khắng khít mãi mãi  với Thiên Chúa.


Đối với những người nữ  được gọi vào sự khiết tịnh đồng trinh, Đức Maria khi bày tỏ ý nghĩa cao cả của ơn gọi đặc biệt này, đã lôi kéo chú ý đến sự phong nhiêu tinh thần mà sự trinh khiết bao hàm ở trong  chương trình của Thiên Chúa: một tình mẹ ở vào hệ trật cao cấp hơn, tình mẹ trong Chúa Thánh Thần (tông huấn Mulieris dignitatem, số 21).


Trái tim hiền mẫu của Đức Maria, được mở rộng tới hết mọi nỗi khổ đau của nhân loại, cũng nhắc nhở các phụ nữ rằng sự phát triển nhân cách phụ nữ đòi hỏi sự xả thân cho tình bác ái. Rất bén  nhạy với những giá trị của con tim, người phụ nữ tỏ ra một khả năng cao cả biết trao hiến bản thân.


Đối lại với những ai vào thời đại hôm nay chỉ muốn trưng bày những khuôn mẫu ích kỷ để khẳng định nhân cách phụ nữ,  thì khuôn mặt sáng ngời và thánh thiện của người Thân mẫu của Chúa cho thấy rằng chỉ có trong việc trao hiến bản thân và quên mình đi vì tha nhân thì mới có thể thực hiện cách  chân chính kế hoạch Thiên Chúa dành cho  cuộc đời của mỗi người.


Vì thế, sự hiện diện của Đức Maria khuyến khích các người phụ nữ nuôi dưỡng những tâm tình trắc ẩn và liên  đới đối với những hoàn cảnh đau thương của nhân loại, và gợi lên những ý định muốn xoa dịu những nỗi khổ cực của những người đang đau khổ: những người nghèo, những người bệnh  và những người hoạn nạn đang cần được cứu giúp.


Nhờ  mối dây liên kết đặc biệt với Đức Maria, người phụ nữ trải qua dòng lịch sử thường thể hiện việc Thiên Chúa gần gũi với nỗi mong chờ tình nhân ái âu yếm của nhân loại  bị thương tổn do sự  căm thù và do tội lỗi. Họ gieo vào thế giới những mầm mống của một nền văn minh lấy tình thương đáp lại hận thù.


 


***


 


 


 


 


 


 


 


 


 


 


 


 


BÀI 9


SỰ HIỆN DIỆN CỦA ĐỨC MARIA


TẠI CÔNG ĐỒNG VATICANO II


 


Đức Gioan Phaolô II ôn lại vài điểm chính của đạo lý công đồng Vaticanô II về Đức Maria. Trước hết, công đồng đã bàn về Đức Maria trong văn kiện về Hội thánh, thay vì soạn một văn kiện riêng biệt. Đức Maria được nhìn trong mối tương quan với Chúa Kitô và với Hội thánh. Dưới một viễn ảnh mới, Người được nhìn nhận như là “Mẹ của Hội thánh”, cũng như là “điển hình” và “mẫu gương” cho Hội thánh.


 


1.- Hôm nay tôi muốn dừng lại để suy nghĩ về sự hiện diện đặc biệt của “Mẹ của Hội thánh” tại một biến cố chắc hẳn là quan trọng nhất trong thế kỷ chúng ta: công đồng Vaticano II được khai mạc do Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII vào sáng ngày 11 tháng10 năm1962 và kết thúc do Đức Phaolô VI, ngày 8 tháng 12 năm 1965.


Một sắc thái Maria đã được ghi nhận nơi Công đồng này ngay từ khi triệu tập. Trong tông thư “Celebrandi Concilii Oecumenici” (11.4.1962), vị tiền nhiệm đáng kính của tôi, Đức Gioan XXIII, đã muốn ký thác công đồng cho sự chuyển cầu quyền năng của Đức Maria, “Người mẹ của ơn thánh và vị bảo trợ  trên trời của Công đồng”.


Kế đó, năm 1962, nhân dịp lễ Đức Maria chịu thanh tẩy,  Đức Gioan XXIII đã ấn định khai mạc Công đồng vào ngày 11 tháng 10, và giải thích sự chọn lựa này là  để nhớ đến công đồng Êphêsô vào ngày hôm đó đã công bố Đức Maria là “Theotokos”, Thân mẫu Thiên Chúa. Rồi  trong bài diễn văn khai mạc, Đức Thánh Cha đã ký thác cho Đức Maria dưới tước hiệu “Kẻ Cứu giúp các Kitô hữu, Kẻ Cứu giúp  các Giám mục” để xin  Người cầu bầu với tình mẹ để cho công tác của Công đồng được kết thúc mỹ mãn.


Các Nghị phụ của Công đồng cũng hướng tới Đức Maria một cách minh thị trong sứ điệp gởi cho thế giới vào ngày khai mạc Công đồng, khi viết như sau: “Chúng tôi, những kẻ thừa kế các tông đồ, đang kết hiệp trong kinh nguyện cùng với Đức Maria, Thân mẫu Đức Giêsu, họp thành một đoàn tông đồ duy nhất”; như thế các nghị phụ đã muốn nối kết, trong sự thông hiệp với Đức Maria, với Hội Thánh nguyên thủy đón chờ Chúa Thánh Thần (xc. Cv1,14).


2. Trong khóa họp thứ  hai của Công đồng, người ta đã muốn du nhập thiên bàn về Đức Trinh nữ Maria vào trong Hiến chế về Hội thánh. Sáng kiến này, tuy đã được Ủy  ban thần học giới thiệu rõ ràng,  nhưng đã gợi lên nhiều ý kiến tương phản.


Một vài người nghĩ rằng việc lồng trong Hiến chế về Hội Thánh thì sẽ không nêu bật đủ sứ mạng rất  đặc biệt của Thân mẫu Đức Giêsu ở trong Hội thánh; vì thế, họ đã chủ trương soạn ra một văn kiện riêng biệt thì mới có thể diễn tả được chức phẩm cao quý, sự thánh thiện tuyệt vời,  vai trò vô song của Đức Maria trong cuộc cứu chuộc mà Con của Người đã thực hiện. Thêm vào đó, họ cho rằng Đức Maria phần nào ở trên Hội thánh, vì thế họ bày tỏ sự lo ngại rằng  việc gắn liền đạo lý Đức Maria trong chương bàn về Hội Thánh thì sẽ không làm nổi bật xứng đáng những đặc ân của Đức Maria, vì sẽ thu gọn  chức vụ của Người ngang  với những phần tử khác của Hội thánh (Acta Synodalia, II, III, 338-342).


Đối lại, một vài người khác đã ủng hộ  đề nghị của Ủy ban thần học, muốn trình bày đạo lý Đức Maria và về Hội Thánh trong một văn kiện duy nhất. Theo họ, hai thực thể này không thể được tách rời ra tại một công đồng chủ trương tái khám phá bản chất và sứ mạng của dân Thiên Chúa. Vì thế, cần phải bày tỏ sự gắn bó sâu xa với Đấng đã trở thành điển hình và mẫu gương của Hội thánh về đức trinh khiết và về chức làm mẹ. Thực vậy Đức Trinh Nữ Maria, trong tư cách là phần tử ưu việt của cộng đoàn Hội thánh, đã chiếm một chỗ đứng đặc biệt trong đạo lývề Hội thánh. Ngoài ra khi nêu bật sự liên kết giữa Đức Maria  và Hội Thánh, đạo lý của Công đồng về Đức Maria sẽ trở nên dễ hiểu hơn đối với  các Kitô hữu thuộc phái Tin Lành (Acta Synodalia, II, III, 343-345).


Như vậy, các Nghị phụ, tuy được thúc đẩy do cùng một lòng yêu mến Đức Maria, nhưng đã muốn nêu bật những khía cạnh khác nhau của khuôn mặt của Người, nên đã đi đến những chủ trương đạo lý khác nhau. Một vài người muốn chiêm ngưỡng Đức Maria cách đặc biệt trong mối tương quan với Chúa Kitô; một số người khác thì muốn nhìn ngắm Người như là một phần tử của Hội Thánh.


3.- Sau khi cân nhắc thâm sâu về đạo lý và bàn xét về thiên chức của Đức Maria Thân Mẫu Thiên Chúa cũng như  về sự hiện diện đặc biệt của Người trong đời sống Hội thánh, các nghị phụ đã quyết định xen khảo luận về Đức Maria vào trong văn kiện của Công đồng bàn về Hội thánh (Acta Synodalia II, III, 627).


Bản lược đồ mới về Đức Trinh Nữ Maria, được soạn ra để được xen vào Hiến chế Tín lý về Hội thánh, đã cho thấy một sự tiến triển thần học quan trọng. Việc nhấn mạnh đến đức tin của Đức Maria cũng như việc đặt đạo lý của Đức Maria trên nền tảng Kinh Thánh đã trở thành những yếu tố quan trọng và hữu ích để làm giàu cho lòng sùng kính và sự học hỏi của các Kitô hữu về  Đức Thánh Mẫu. Với dòng thời gian, những nguy cơ về sự “hạ bệ” mà một vài nghị phụ lo ngại  đã không xảy ra : sứ mạng và những đặc ân của Đức Maria đã được khẳng định một cách rộng rãi; sự cộng tác của Người vào công trình cứu rỗi của Thiên Chúa đã được nêu bật; việc dung hợp giữa sự cộng  tác của Đức Maria với đạo lý về Đức Kitô Đấng Trung gian duy nhất  đã thành sáng tỏ hơn.


Hơn nữa, lần đầu tiên, huấn quyền của Công đồng đã trình bày cho Hội thánh một học thuyết về vai trò của Đức Maria trong chương trình cứu chuộc của Đức Kitô và trong đời sống của Hội thánh.


Vì thế chúng ta phải nhìn nhận rằng sự lựa chọn của các nghị phụ thực là một quyết định do Chúa quan phòng, bởi vì nó đã mang nhiều hậu quả phong phú cho công cuộc nghiên cứu đạo lý sau này.


4.- Trong các khóa họp Công đồng, đã có một thỉnh nguyện của nhiều nghị phụ muốn tăng gia đạo lý về Đức Maria  với những định tín về vai trò của Đức Maria  vào công trình cứu chuộc[1]. Khung cảnh đặc biệt của các cuộc tranh luận về Đức Maria tại công đồng Vatican II đã không cho phép chấp nhận những ước nguyện đó, dù khá phổ biến.  Dù sao thì toàn bộ những học thuyết của Công đồng về Đức Maria  vẫn được vững chắc và quân bình, và những đề tài nói trên tuy không được định tín, nhưng đã được bàn giải sâu xa trong toàn bộ  khảo luận về Đức Maria.


Vì thế những dè dặt của một vài nghị phụ đối với tước hiệu “Mẹ Trung gian” đã không ngăn trở Công đồng một lần sử dụng nó, và khẳng định, - cùng với vài từ ngữ khác-, vai trò trung gian của Đức Maria qua việc chấp thuận lời thiên sứ truyền tin để trở thành người mẹ trong hệ trật ân sủng (xc. HT 62)[2]. Ngoài ra, Công đồng đã khẳng định sự hợp tác của Người “một cách hết sức đặc biệt” vào công trình tái tạo đời sống siêu nhiên trong các linh hồn (xc. HT 61). Sau cùng dù tránh sử dụng tước hiệu “Mẹ của Hội thánh”, bản văn của Hiến chế đã nhấn mạnh rõ ràng rằng Hội thánh đã tôn kính Đức Maria như là người mẹ rất đáng yêu mến[3].


Đọc suốt khảo luận của chương 8 của Hiến chế Tín lý về Hội thánh, chúng ta thấy rằng những sự dè dặt về từ ngữ đã không ngăn trở việc trình bày một đạo lý với nội dung sâu sắc tích cực, biểu hiện của niềm tin và lòng yêu mến đối với Đấng mà Hội thánh nhận là mẹ và mẫu gương cho đời sống của mình.


Mặt khác, những quan điểm khác nhau của các nghị phụ, nảy lên trong các cuộc tranh luận tại Công đồng, quả là nằm trong chương trình của Chúa quan phòng, bởi vì khi đối chiếu và hòa hợp với nhau, các ý kiến đó giúp cho lòng tin và thảo hiếu của dân Chúa một sự trình bày hoàn bị và quân bình hơn về thiên chức  của Thân mẫu Chúa Giêsu và về vai trò của Người trong công trình cứu chuộc.


 


BÀI 10

MỤC TIÊU VÀ PHƯƠNG PHÁP

TRÌNH BÀY ĐẠO LÝ VỀ ĐỨC MARIA

 


Những bài huấn giáo về Đức Maria sẽ chú trọng vào hai phần chính: 1/ Phần đạo lý, bàn đến chức vụ của Đức Maria trong Mầu nhiệm Nhập thể và Nhiệm thể (tức là Hội thánh). 2/ Phần thực hành, sau khi ý thức vai trò của Đức Maria trong đời sống của Hội thánh và của từng tín hữu, chúng ta cảm thấy sự cần thiết phải bắt chước các mẫu gương nhân đức và tín thác nơi tình hiền mẫu của Người.


 


1.- Trong chương 8 của Hiến chế tín lý về Hội thánh, công đồng Vat. II đã muốn trình bày “chức vụ của Đức Maria trong mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể và Nhiệm Thể của Chúa Kitô, cũng như những nghĩa vụ của những con người đã được cứu chuộc đối với Thân Mẫu Thiên Chúa”[4], tôi cũng muốn họa theo Công đồng để trình bày, trong những bài huấn  giáo sau đây, một  toát lược căn bản đức tin của Hội thánh về Đức Maria, tuy phải khẳng định - giống như Công đồng - là không muốn trình bày “toàn bộ đạo lý đầy đủ”  cũng như không muốn “giải quyết những vấn đề mà các nhà thần học còn đang tranh luận” (xc. HT 54)[5].


Trước hết, tôi muốn trình bày “chức vụ của Đức Trinh nữ trong mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể và Nhiệm Thể”,  dựa trên những dữ kiện của Kinh thánh và truyền thống của các Tông đồ cũng như lưu ý tới sự  tiến triển đạo lý  trong Hội thánh cho tới ngày hôm nay.


Ngoài ra, xét vì vai trò của Đức Maria trong lịch sử cứu độ được liên kết chặt chẽ với mầu nhiệm của Đức Kitô và của Hội Thánh, cho nên tôi sẽ không bỏ qua việc quy chiếu vào hai mầu nhiệm đó, vì khi đặt đạo lý của Đức Maria vào đúng vị trí thì sẽ khám phá ra sự phong phú dồi dào của nó.


Việc tìm hiểu mầu nhiệm củaThân mẫu Chúa Cứu Thế thật bao la và trải qua giòng lịch sử đã thu hút  nhiều vị mục tử và nhiều nhà thần học. Có tác giả muốn nêu bật những khía cạnh cơ bản của Thánh mẫu học, nên đã bàn tới Đức Maria  trong thiên khảo luận về Đức Kitô hoặc về Hội thánh. Tuy nhiên, dù vẫn duy trì mối tương quan với hết tất cả mầu nhiệm đức tin, Đức Maria đáng được dành một thiên khảo luận riêng biệt, nhằm làm sáng tỏ thân thế và chức vụ của Người trong lịch sử cứu rỗi dựa trên Kinh thánh và truyền thống Hội thánh.


2.- Ngoài ra, theo hướng đi của Công đồng, xem ra cũng cần phải trình bày “những nghĩa vụ của những người đã được cứu chuộc đối với Thân mẫu Thiên Chúa, Thân mẫu Đức Kitô, Mẹ  của loài người, đặc biệt là của các tín hữu”.


Thực vậy, vai trò mà Thiên Chúa đã muốn dành cho Đức Maria trong công trình cứu chuộc đòi hỏi các Kitô hữu không những là đón tiếp và lắng nghe Mẹ, mà còn là các hành động cụ thể diễn tả ra cuộc sống những tâm tình Phúc âm của Đấng đã đi tiên phong trước Hội thánh về đức tin và sự thánh thiện. Như thế Đức Maria đã được dành một chỗ đứng có tác dụng  đặc biệt về cách thức cầu nguyện của các tín hữu. Chính Phụng vụ của Hội thánh đã nhìn nhận một vị trí đặc biệt dành cho Mẹ trong việc đạo đức  và trong cuộc sống của người tín hữu.


Cần phải nhấn mạnh rằng đạo lý về lòng tôn kính Đức Maria không phải là hậu quả của cảm tình ướt át. Mầu nhiệm Đức Maria là một chân lý mạc khải hướng tới trí năng của các tín hữu và đòi hỏi những người giữ vai trò nghiên cứu và dạy dỗ trong Hội thánh phải có một phương pháp suy tư đạo lý không kém nghiêm túc so với phương pháp được áp dụng trong toàn bộ môn thần học.


Mặt khác, chính Đức Giêsu đã mời các người đương thời không nên bị lôi cuốn bởi sự phấn khởi khi trông thấy  Thân mẫu của Người: bà Maria được tuyên dương là có phúc nhất là vì đã lắng nghe Lời của Chúa và đem ra thực hành (xc. Lc 11,28).


Chúng ta không nên chỉ chiều theo tâm tình nhưng phải để cho  ánh sáng của Chúa Thánh Thần  dìu dắt  khi tìm hiểu Thân mẫu Đức Giêsu và cách Người đóng góp  vào chương trình cứu độ.


3.- Bàn về sự chừng mực và quân bình cần duy trì trong đạo lý cũng như là trong lòng sùng kính Đức Maria, Công đồng đã khuyên nhủ các nhà thần học và các nhà giảng thuyết Lời Chúa rằng “cần phải tránh hết mọi sự thái quá ngang trái …”(xc. HT 67).


Những sự thái quá này xảy ra nơi  luồng  “phóng đại”, khi họ muốn áp dụng cho Đức Maria  những ưu phẩm của Đức Kitô và hết mọi  đặc sủng của Hội thánh[6].


Không,  khi trình bày về Đức Maria, cần phải duy trì sự khác biệt vô song giữa bản thể con người của Đức Maria và bản thể thiên tính của Đức Giêsu. Không thể lấy sự “tối đa” làm tiêu chuẩn cho Thánh mẫu học,  bởi vì môn này phải luôn luôn quy chiếu về những gì mà mặc khải đã làm chứng về các  hồng ân mà Thiên Chúa đã ban cho Đức Trinh nữ  chiếu theo sứ mạng  cao cả của Người.


Một cách tương tự như vậy, Công đồng cũng khuyến khích các nhà thần học và các nhà giảng thuyết hãy “tránh não trạng chât hẹp”, nghĩa là tránh cái nguy cơ “giảm thiểu”[7] được biểu lộ qua các chủ trương đạo lý hoặc chú giải Kinh thánh hoặc những việc đạo đức; khuynh hướng này  ra như là dẹp bỏ tầm quan trọng của Đức Maria trong lịch sử cứu rỗi, sự trọn đời đồng trinh và sự thánh thiện của Người.


Chúng ta nên luôn luôn tránh những chủ trương cực đoan bởi vì chúng ta cần phải dựa vào chân lý mặc khải, được diễn tả trong Thánh kinh và truyền thống các thánh tông đồ.


4.- Chính Công đồng đã cống hiến cho chúng ta một tiêu chuẩn để phân định đạo lý chân chính về Đức Maria: “trong Hội thánh, Đức Maria chiếm một chỗ cao nhất và gần nhất với chúng ta sau Chúa Kitô” (HT 54).


Chỗ đứng cao nhất: chúng ta cần phải khám phá tầm quan trọng của Đức Maria trong mầu nhiệm cứu chuộc. Tuy nhiên, đó là một sứ mạng luôn luôn quy chiếu về Đức Kitô.


Chỗ đứng gần nhất với chúng ta: cuộc sống của chúng ta được thấm nhuần sâu đậm do mẫu gương và lời chuyển cầu của Đức Maria. Tuy nhiên, chúng ta cần phải tự vấn về phần cố gắng của chúng ta để được  gần gũi với Người. Toàn thể môn sư phạm của lịch sử cứu rỗi đều mời gọi chúng ta hãy nhìn ngắm Đức Trinh nữ. Khoa tu đức Kitô giáo ở hết mọi thời đại đều mời gọi chúng ta hãy nghĩ đến Người như  một gương mẫu của việc thuận theo ý Chúa. Là khuôn mẫu của sự thánh thiện, Đức Maria dìu dắt những bước đi của các tín hữu  trên con đường về thiên quốc.


Vì gần gũi với những biến cố trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta, Đức Maria nâng đỡ chúng ta trong lúc thử thách, phấn chấn chúng ta những lúc khó khăn, luôn luôn chỉ tỏ cho chúng ta  tiêu điểm của ơn cứu rỗi đời đời. Như vậy, vai trò làm mẹ của Người càng ngày càng nổi bật: Người là Thân mẫu của Thánh tử Giêsu,  Người là bà mẹ âu yếm, tỉnh thức đối với mỗi người chúng ta, bà mẹ mà từ thập giá Chúa Cứu chuộc đã ký thác để chúng ta đón nhận như là những người con trong đức tin.


 


***

 

BÀI 11

ĐỨC MARIA

TRONG MỐI TƯƠNG QUAN VỚI CHÚA BA NGÔI

 


Từ bài này, Đức Thánh Cha bắt đầu bình giảng chương VIII của Hiến chế Ánh sáng muôn dân, với những lời dẫn nhập đề cao mối tương quan với Thiên Chúa Ba Ngôi: “Thân mẫu của Con, ái nữ của Chúa Cha, đền thờ Thánh Thần”. Chính mối tương quan này là nguồn gốc sự cao sang của Đức Maria. Tuy nhiên, những tước vị ấy nằm trong kế  hoạch mặc khải tình thương của Thiên Chúa đối với loài người, vì thế nên cũng đặt Đức Maria gần gũi với chúng ta.


 


1.- Chương VIII của Hiến chế về Hội thánh đã chỉ mầu nhiệm Đức Kitô như là điểm quy chiếu cần thiết cho Thánh-mẫu-học. Những lời mở đầu của chương này thật là đầy ý nghĩa: “Vì Thiên Chúa rất mực khoan dung và thượng trí đã muốn thực hiện việc cứu chuộc nhân loại, nên vào thời viên mãn Ngài đã sai Con Mình đến, sinh bởi người nữ…ngõ hầu chúng ta lãnh nhận ơn làm nghĩa tử” (Gl 4, 4-5)(HT 52). Con của Chúa chính là Đấng Mêsia mà dân Cựu ước ngóng trông, được Chúa Cha sai đến vào lúc quyết liệt của lịch sử, tức là “tới thời viên mãn” (Gl 4,4), trùng với việc Con Chúa giáng sinh vào thế giới chúng ta do một người phụ nữ. Đấng đã đưa Con hằng hữu của Thiên Chúa vào thế giới loài người không thể nào tách rời khỏi Vị được đặt vào trung tâm của kế hoạch mà Thiên Chúa thực hiện trong lịch sử.


Chức thủ lãnh của Đức Kitô  đã được biểu lộ trong Hội thánh, nhiệm thể của Người: thực vậy trong Hội thánh  “các tín hữu gắn bó với Đức Kitô  là nguyên thủ và hiệp thông với tất cả các thánh của Người”(xc. HT 52). Chính Đức Kitô đã thu hút hết mọi người đến với mình. Do chức phận làm mẹ hằng kết hiệp khắng khít với Con mình, Đức Maria đã đóng góp phần vào việc quy hướng cặp mắt và con tim của các tín hữu tới Đức Kitô.


Đức Maria là con đường dẫn tới Đức Kitô: thực vậy, Đấng mà lúc thiên sứ Truyền tin “đã đón nhận Lời của Thiên Chúa vào  con tim và thân thể của mình” (HT 53) thì cũng chỉ tỏ cho chúng ta thấy cách đón nhận vào cuộc đời chúng ta Chúa Con từ trời xuống, dạy cho chúng ta biết đặt Chúa Giêsu làm trung tâm và là “quy luật” tối cao trong cuộc sống của chúng ta.


2.- Đồng thời Đức Maria cũng giúp cho chúng ta khám phá ra ở cội nguồn của toàn thể công trình cứu độ là tác động chủ tể của Chúa Cha, Đấng đã kêu gọi tất cả mọi người trở thành  dưỡng tử trong Con Một của Người. Khi nhắc đến những lời tuyệt tác của thư gởi Êphêsô: “Thiên Chúa giàu lòng lân tuất, do tình yêu vô biên mà Người đã yêu chúng ta, đang lúc chúng ta còn chết cho tội lỗi, thì Người đã cho chúng ta sống lại với Đức Kitô”(Ep 2,4),  Công đồng  đã gán cho Thiên Chúa tước hiệu là “Đấng rất mực khoan dung”: như vậy Người Con “được sinh bởi người nữ” đã xuất hiện như là hoa trái của lòng khoan dung của Chúa Cha và cho hiểu rõ hơn rằng người Nữ đó là “mẹ của lòng khoan dung”.


Cùng trong mạch văn đó, Công đồng đã gọi Thiên Chúa là Đấng “rất mực  thượng trí”, ra như gợi lên cho chúng ta mối dây khắng khít giữa Đức Maria và sự cao minh của Thiên Chúa đã muốn cho Đức Trinh nữ làm mẹ theo chương trình huyền diệu của Người.


3.- Bản văn  của Công đồng cũng nhắc tới mối dây đặc biệt liên kết Đức Maria và Chúa Thánh Thần, khi dùng những lời của tín biểu Nixêa Constantinôpôlis mà chúng ta đọc trong phụng vụ Thánh lễ: “vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế; bởi phép Đức Chúa Thánh Thần Người đã nhập thể trong lòng Đức Trinh nữ Maria”.


Khi phát biểu đức tin hằng cửu của Hội thánh, Công đồng nhắc nhở cho chúng ta biết cuộc Nhập thể kỳ diệu của Chúa Con đã diễn ra trong cung lòng của  Trinh nữ Maria không do sự hợp tác của người nam nhưng là do quyền năng của Chúa Thánh Thần.


Như vậy, những lời mở đầu của chương VIII Hiến chế về Hội thánh  đã cho thấy chiều kích Chúa Ba Ngôi là một nét căn bản  của Thánh mẫu học. Thực vậy, tất cả đã diễn ra do ý định của Chúa Cha, Đấng đã sai Con mình vào thế gian, bày tỏ Người cho nhân loại và đặt Người làm đầu của Hội thánh và trung tâm của lịch sử. Đây là một kế hoạch được hoàn tất trong cuộc Nhập thể, công trình của Chúa Thánh Thần, nhưng cũng do sự cộng tác tất yếu của một người nữ, Đức Trinh nữ Maria, và như thế Người đã trở nên một thành phần của kế hoạch thông ban Chúa Ba Ngôi cho nhân loại.


4.- Tương quan của Đức Maria với Ba Ngôi còn được lặp lại qua những lời chính xác khi mô tả mối tương quan của Thân mẫu Chúa với Hội thánh: “Người đã được trao tặng chức vụ và phẩm giá là Thân mẫu của Con Thiên Chúa, và vì thế trở thành ái nữ của Chúa Cha và Đền thờ của Chúa Thánh Thần” (HT 53).


Tước phẩm căn bản của Đức Maria là “Thân mẫu Con Thiên Chúa”, được đạo lý và phụng tự Kitô giáo diễn đạt với  tước hiệu là “Thân mẫu Thiên Chúa”.


Đây là một tước hiệu phi thường, bày tỏ sự hạ mình của Con một Thiên Chúa  trong cuộc Nhập thể của Người, và gắn liền với sự  tự hạ là đặc ân cao quý trao tặng cho một  thụ tạo được gọi sinh ra Ngôi Lời về xác thịt.


Là Mẹ của Chúa Con, Đức Maria là “ái nữ của Chúa Cha” một cách độc nhất vô nhị. Mối tình mẹ của Người có thể so sánh phần nào với tình Cha của Thiên Chúa.


Ngoài ra, tuy dù mỗi Kitô hữu là “Đền thờ Chúa Thánh Thần”  theo như lời tông đồ Phaolô đã nói (1Cr 6, 19) ,  nhưng lời khẳng định đó mang một ý nghĩa khác thường nơi Đức Maria: thực  vậy, ở nơi Người mối tương quan với Chúa Thánh Thần  đã được tô điểm với chiều kích hôn ước. Tôi đã nhắc lại điểm này trong thông điệp Thân mẫu Đấng Cứu thế: “Chúa Thánh Thần đã ngự xuống ở trên Người, và Người đã trở thành hiền thê trung tín vào lúc truyền tin, khi đón tiếp Lời của Thiên Chúa thật” (số26)[8].


5.- Mối tương quan đặc biệt của Đức Maria với Chúa Ba Ngôi đã mang lại cho Người một tước phẩm vượt xa trên mối tương quan của các thụ tạo khác. Công đồng đã nói tới điều đó một cách minh thị như sau: do “hồng ân siêu việt” Đức Maria đã vượt xa hết mọi loài thụ tạo” (HT 53). Tuy vậy, phẩm tước cao vời đã không ngăn cản Đức Maria trở thành liên đới với từng người chúng ta, thực vậy, Hiến chế Ánh sáng muôn dân nói tiếp như sau: “Người đã liên kết, trong dòng dõi Ađam, với tất cả những người cần được ơn cứu rỗi” và Người “đã được cứu chuộc một cách tuyệt  vời nhờ vào công trạng  của Con mình”.           


Chúng ta thấy rõ ý nghĩa chính xác của những đặc ân ban cho Đức Maria và của những mối tương quan đặc biệt với Chúa Ba Ngôi: những đặc ân đó nhằm biến Người trở nên xứng đáng cộng tác vào việc cứu rỗi nhân loại. Vì thế sự cao cả vô biên của Thân mẫu Chúa là một hồng ân của tình thương mà Chúa dành cho tất cả mọi người. Khi tuyên xưng Người là “kẻ có phúc” (Lc 1,48}, mọi thế hệ tuyên dương những “kỳ công” (Lc 1, 49) mà Đấng Toàn năng đã thực hiện nơi Người nhằm tới toàn thể nhân loại khi Chúa “nhớ lại lòng khoan dung” (Lc 1,54).




[1] Một số nghị phụ đã yêu cầu công đồng định tín đạo lý Đức Mẹ “Đồng công cứu chuộc” và “Trung gian các ơn”.


[2] Xc. bài 64-65 dưới đây.


[3] Xc. bài 63 dưới đây.


[4] Bố cục chương 8 của Hiến chế Ánh sáng muôn dân, gồm 3 phần. I. Nhập đề (số 52-54). II  Chức vụ Đức Maria trong kế  hoạch cứu độ (số 55-59). III. Đức Maria với Hội thánh (số 60-68).


[5]  Nói cách khác, những bài huấn giáo không giống như các lớp thần học! Đức Thánh Cha không muốn đi sâu vào chi tiết các vấn đề còn tranh luận. Dù vậy, cũng có thể ghi nhận rằng trong loạt bài huấn giáo này, Đức Gioan Phaolô II không chỉ dừng lại ở các tín điều liên quan đến Đức Maria (các bài 23;  26;  37; 54), hoặc những gì đã được Huấn quyền nhìn nhận (chẳng hạn tước hiệu Mẹ của Hội thánh, bài 63), nhưng ngài cũng trình bày quan điểm đối với một vài vấn đề thần học, chẳng hạn: Đức Maria không hề phạm tội, dù chỉ là tội nhẹ (bài 24); Đức Maria đã trải qua cái chết trước khi được sống lại (bài 53); Người là “môi giới” theo nghĩa là hợp tác với Đức Kitô trong tư cách làm mẹ (bài 65; xc bài 48). Không thể áp dụng cho thánh Giuse đặc ân vô nhiễm nguyên tội (bài 23).


[6]  Khuynh hướng “phóng đại” (maximalismus)  muốn gán cho Đức Maria tất cả mọi ưu phẩm như Chúa Kitô (thí dụ: trung gian của hết mọi ơn lành), hay tất cả mọi đặc sủng của Hội thánh (thí dụ: tông đồ, tử đạo, truyền giáo).


[7] Khuynh hướng “giảm thiểu” (minimalismus) muốn cho Đức Maria cũng chia sẻ những khiếm khuyết giống như bao nhiêu thụ tạo khác, thí dụ những nghi nan do dự đứng trước mầu nhiệm đức tin, đời sống vợ chồng thường tình, vv.


[8] Mối liên hệ của  Đức Maria với Chúa Thánh Thần được bàn rộng ở Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo, số  721-726.


 

114.864864865135.135135135250