DẪN NHẬP
Tỉnh Hội năm 2015 sắp tới sẽ diễn ra trong khung cảnh đặc biệt của Giáo Hội, của Dòng và Tỉnh Dòng. Trong Giáo Hội, chúng ta đang sống tinh thần của Năm Đời Sống Thánh Hiến; Trong Dòng, chúng ta đang hướng về năm kỷ niệm 800 năm Dòng được thành lập; trong Tỉnh Dòng, chúng ta đang hướng đến kỷ niệm 50 năm Tỉnh Dòng được thành lập. Những yếu tố chung và riêng này mời gọi mỗi anh em chúng ta suy nghĩ và đào sâu căn tính Đời Tu Đa Minh trong những môi trường chúng ta sống và phục vụ Lời Chúa, nơi mà, từ khi Dòng được thành lập, đã được gọi là biên cương của Giáo Hội, nơi Giáo Hội cần hiện diện để bảo vệ Đức Tin Công Giáo.
Bài viết về đời sống thánh hiến, mở đầu cho chương trình thảo luận và học hỏi trước Tỉnh Hội, mong được gửi đến anh em đôi dòng suy tư về hai chiều kích trong đời tu Đa Minh: Chiêm Niệm và Giảng Thuyết. Những suy tư này, chắc chắn còn nhiều giới hạn nơi bản thân người viết, không thể khai triển cô đọng những điểm cần thiết, dựa trên những định hướng trong Tông Thư về Năm Đời Sống Thánh Hiến mà Đức Thánh Cha Phanxicô vừa ban hành, để khai triển ba điểm ưu tiên: 1/ Đào sâu căn tính đời tu, 2/ Lòng say mê sống và loan báo Tin Mừng, và 3/ Sống chứng tá của niềm hy vọng.
Nhưng trước khi nói đến ba điểm nêu trên, thiết nghĩ cần lược qua một vài thách đố của một thực tại xung quanh, với những yếu tố khách quan và chủ quan ảnh hưởng ít nhiều đến nếp sống tu trì của anh em chúng ta. Những điểm được phân tích này, dựa trên bối cảnh của Tỉnh Dòng chúng ta hiện nay, có thể đụng chạm ít nhiều đến thực tại của Tỉnh Dòng, và có khi làm chúng ta thấy phải suy nghĩ nhiều; nhưng như lời Đức Thánh Cha Phanxicô, chúng ta nhìn lại lịch sử đến cảm tạ và tri ân, đồng thời cũng để ý thức cách thức mà tiền nhân đã sống đặc sủng Đa Minh, những bước đột phá, những khó khăn đã đương đầu và vượt qua:
Thuật lại lịch sử của mình là điều cần thiết để duy trì căn tính cũng như để siết chặt mối hợp nhất của gia đình và tăng thêm cho các phần tử ý thức mình thuộc về một nhà. Ðây không phải là chuyện khảo cổ hoặc luyến tiếc dĩ vãng, nhưng là đi lại con đường của các thế hệ qúa khứ để nắm bắt được tia sáng gợi hứng, những lý tưởng, những dự phóng, những giá trị đã thúc đẩy họ, bắt đầu từ các vị sáng lập và các cộng đoàn tiên khởi. Ðó cũng là một cách để ý thức được cách thức mà tiền nhân đã sống đặc sủng, những bước đột phá, những khó khăn đã đương đầu và vượt qua. Ta cũng có thể nhận ra những sự bất nhất do tính yếu đuối của con người, thậm chí kể cả có lúc quên mất những khía cạnh cốt yếu của đặc sủng. Tất cả các khía cạnh ấy đều là những bài học, và đồng thời kêu gọi hoán cải. Thuật lại lịch sử của mình là một cách để chúc tụng Thiên Chúa và tạ ơn vì những ân huệ mà Ngài đã ban. (NTH, I.1.)
I. BỐI CẢNH HIỆN TẠI VÀ NHỮNG THÁCH ĐỐ
A. Thuận lợi
Khi nói đến bối cảnh, chúng ta cũng nên nhắc đến những điểm được Đức Thánh Cha nhấn mạnh trong Tông Thư về Năm Đời Sống Thánh Hiến: Bối cảnh kỷ niệm 50 năm Hiến Chế Lumen Gentium (ch. VI về đời sống thánh hiến); tinh thần tu trì mà Sắc lệnh Perfectae Caritatis nói đến (về canh tân đời sống tu trì); đồng thời tiếp nối linh đạo đời tu mà Tông Huấn Vita Consecrata của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolo II đã khai triển. Những bản văn này cho chúng ta những định hướng quý giá về căn tính đời tu trì.
Từ đó, mục tiêu của Năm Đời Sống Thánh Hiến có thể tóm tắt trong ba ý tưởng: Căn Tính, Tin Mừng và sống niềm Hy Vọng. Tri ân qúa khứ để đào sâu căn tính và thắt chặt tình huynh đệ bởi mỗi thành viên ý thức mình sống cùng một nhà (x. NTH, I.1.); sống Tin Mừng trong hiện tại cách say mê để nói lên lòng say mê một tình yêu cho Tin Mừng và sống tình hiệp thông (x. NTH, I.2.); nhắm đến tương lai để vượt qua những khó khăn dưới mọi hình thức: vấn đề ơn gọi, ảnh hưởng của kinh tế trên đời sống tu trì, các chủ thuyết (tương đối hóa, …)
B. Thánh đố về tự do
Thực tế cho thấy, những biểu hiện trong nếp sống đời tu phản ánh phong cách sống của mỗi cộng đoàn tu trì. Và trong bối cảnh hiện nay, những thách đố vẫn còn đó. Đức Thánh Cha Phanxicô đã đề cập đến trong phần thứ ba của Tông Thư, về chủ nghĩa tương đối hóa, về khủng hoảng ơn gọi, về những ảnh hưởng của thế giới đối với đời tu của chúng ta... Trong phạm vi của Tỉnh Dòng, thiết nghĩ cần nói đến những khó khăn mà chúng ta đang thực sự quan tâm. Vấn đề tự do có lẽ là một trong những điều gây ảnh hưởng đến nếp sống của chúng ta.
Khi nói đến điều này, cha F. D. Martinez đã đặt vấn nạn: Liệu đời tu có là một nếp sống giúp con người giải thoát bằng sự tự do tự nguyện mà mỗi tu sĩ dám dấn thân đáp trả cách quảng đại lời mời gọi của Chúa? Hay đời tu lại là một dạng thức nô lệ, mất tự do? Cha Martinez nhận định: Thực tế cho thấy có ít là hai khuynh hướng liên quan đến vấn đề tự do trong đời tu. Khuynh hướng thứ nhất gắn với truyền thống cổ kính, chú trọng việc thực hành khổ chế và coi đó là nô lệ của Đức Kitô (tù nhân của Đức Kitô, theo cách nói của thánh Phaolô); kiểu mẫu này cho thấy những chiến thắng lớn lao trên đường nhân đức, ca ngợi sự tự do nội tâm bằng việc từ bỏ cao độ những gì cản bước tiến trên đường theo Chúa; nhưng kiểu mẫu này xem ra “qúa nệ cổ” dưới cái nhìn của người trẻ hiện nay, như một kiểu “xưa như trái đất”. Khuynh hướng khác chú trọng đến tự do cá nhân, đề cao giá trị nhân vị theo kiểu hiện đại (phải tôn trọng nhân vị của từng người, phải dành quyền cho một thứ tự do cá nhân, phải có quyền lên tiếng nói, phải đấu tranh cho một lý tưởng, và có thể nói, hễ ai đề cập đến chuyện hy sinh, hãm mình, từ bỏ, thì có thể bị quy kết ngay là lạc hậu); kiểu mẫu này có được những thành quả đáng kể là tôn trọng nhân phẩm hơn, để ý đến quyền tự do của từng cá thể, vvv, nhưng nó cũng để lại những dấu vết lệch lạc của chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa quy ngã. Vậy, kiểu mẫu nào phù hợp cho sự tự do đích thực của người tu sĩ ngày nay?[1]
Ý tưởng trong đoạn thư thánh Phaolô gửi giáo đoàn Galát cho thấy tinh thần của tự do Kitô giáo, một sự tự do vượt trên Luật Lệ (cho dù thánh Phaolô vẫn tôn trọng những gì là tinh tuý của Luật Lệ khi nói rằng bất cứ ai chịu phép cắt bì đều buộc phải giữ trọn vẹn Lề Luật, xc. Gl 5,3). Thánh nhân kêu gọi các tín hữu Galát biết vượt trên cả những quy định của luật lệ để đạt đến độ trưởng thành của Đức Mến (cách nói của thần học đời tu ngày nay gọi là đi trước luật, hoặc sống trên luật với sự tự do và trưởng thành nhân cách cao độ). Ngài nhấn mạnh đến sự công chính vốn đến từ Đức Kitô, nhờ Thần Khí và trong đức tin, chứ không phải nhờ sức riêng của con người. Để nhờ ơn thánh hoá, người Kitô hữu có được hoa trái của Thần Khí: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ (5,22).
Đời người Kitô hữu được xem là cuộc lữ hành, tuy có liên hệ với trần gian này, nhưng là cuộc lữ hành đức tin hướng về bến Bình An. Trên hành trình đó, người Kitô hữu có những hành trang căn bản, có những hành vi nhân linh luôn hướng về cứu cánh của đời mình. Thực vậy, “công trình tạo dựng của Thiên Chúa là toàn bộ lịch sử tình yêu giữa Thiên Chúa và thụ tạo của Ngài.” (Verbum Domini, số 9). Trong dòng lịch sử cứu độ, con người có một vị trí trung tâm: Được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa, được đặt vào trung tâm điểm của công trình tạo dựng. Đây là hồng ân cao quý mà Thiên Chúa ban cho con người, với những giá trị mà con người có được: lý trí, tự do, lương tâm. Tình yêu tạo dựng như một sự tràn đầy xuất phát tự cung lòng Ba Ngôi Thiên Chúa: Người tạo dựng vì tình yêu, và cứu chuộc con người cũng vì tình yêu. Thiên Chúa đã truyền thông cho con người tình yêu mà Người có, để họ thông phần vào tình yêu của Thiên Chúa.
1. Lý trí và tự do
Sáng kiến của Thiên Chúa trong công trình tạo dựng là sáng kiến của tình yêu. Ngay khi con người chưa phạm tội, tình yêu của Thiên Chúa đã thể hiện rõ ràng trong công trình Sáng Tạo của Người. Rồi đến khi con người trót phạm tội vì sử dụng tự do Chúa ban một cách không đúng, Thiên Chúa vẫn có sáng kiến để cứu chuộc con người qua nhiệm cục cứu độ đã được thực hiện cách viên mãn trong Đức Giêsu Kitô. Mầu Nhiệm Thập giá, nhìn dưới góc độ con người, là nỗi ô nhục đối với người Do Thái, là sự điên rồ đối với dân ngoại (1Cr 1,23); nhưng với Thiên Chúa, đây lại là cả một mầu nhiệm khôn dò khôn thấu của một tình yêu Người dành cho nhân loại, một sức mạnh quyền năng mà trí hiểu của con người không đạt thấu. Sự điên rồ đó được Đức Giêsu cho các môn đệ biết: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người thí mạng sống vì bạn hữu.”
Người tu sĩ được mời gọi chiêm ngắm mầu nhiệm này cách đặc biệt, để sống, cảm nhận và phục vụ tha nhân.
Đứng trước mặc khải và lời mời gọi sống ơn gọi của mình, con người sử dụng tự do trong quyết định và hành xử, như một lời khẳng định ý thức và sự tự nguyện của mình. Hành xử với tự do, điều này làm cho hành vi của con người mang tính luân lý. Nhưng sự tự do cần có định hướng, bởi tự do đó phải hướng con người đến chiều sâu của phẩm giá con người, và có khả năng đạt đến sự thánh thiêng trong ơn gọi làm người, là Kitô hữu và là tu sĩ. Trong đó, căn bản của tự do là ý thức về ân sủng của Thiên Chúa, hồng ân tự do là một món quà vô giá Thiên Chúa ban, điều này không do cá nhân thủ đắc được, mà là do ơn ban nhưng không của Thiên Chúa. Đời tu của chúng ta là một trải nghiệm về hoán cải và là tiến trình giải phóng, để sống tự do theo Tin Mừng.
2. Lương tâm và cùng đích
Mọi hữu thể con người có lương tâm và trách nhiệm đều cảm nhận từ nội tâm tiếng mời gọi làm điều tốt. Là thụ tạo, với tính ưu việt Thiên Chúa ban, con người có một ơn gọi cao quý là sống xứng với phẩm giá của mình. Luật định hướng cho hành vi nhân linh của con người chính là “luật tự nhiên” (tiếng Pháp: la Loi naturelle), được khắc ghi trong tâm khảm của từng người, nhắc họ làm điều tốt và tránh điều xấu. Hướng về cứu cánh của đời mình là sự thiện hảo nơi Thiên Chúa, con người định hướng hành vi và lẽ sống của mình.
Người Kitô hữu ý thức hơn nữa phẩm giá của mình, cũng như ơn ban nhưng không của Thiên Chúa trong cuộc đời mình, họ được mời gọi cách mãnh liệt sống theo tiếng mời gọi của Thiên Chúa: nên thánh. Sự thánh thiện này, phát xuất từ Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô, ghi dấu ơn gọi của người Kitô hữu; và cần phải tiến triển không ngừng trong đời sống đức tin. Đã là một điều thuộc ơn gọi, thì sự thánh thiện cũng nói lên căn tính của người Kitô hữu. Nên thánh không còn là điều xa lạ với họ, nhưng là căn tính và bổn phận phải kiện toàn. Không phải là điều ngạo mạn khi nói đến sự thánh thiện này, vì cội nguồn của sự thánh thiện đến từ Thiên Chúa. Mỗi Kitô hữu được mời gọi cảm nhận sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời mình, và sống cho đúng sự thánh thiện như Người muốn, bởi Thiên Chúa là Đấng Thánh.
Đời tu, được đặt nền trên sự thánh hiến trong Bí Tích Rửa Tội, là một cuộc đời thánh hiến sâu sắc cách đặc biệt. Đó là ơn gọi nên thánh theo cách thức riêng mà Đức Giêsu đã mời gọi các môn đệ; Cũng từ nền tảng này, những người sống đời thánh hiến đáp lại tiếng Chúa mời gọi: “Hãy theo Ta!”. Và với tất cả tự do, các Tông Đồ đã từ bỏ mọi sự để đi theo Chúa, được mời gọi cảm nhận về Người và chung chia sứ mạng loan báo Tin Mừng Nước Trời với Người. Hai đặc tính này trở nên thiết thân với người môn đệ của Đức Kitô. Các Tông Đồ đã can đảm làm chứng về Người sau biến cố Chúa Phục Sinh, bằng những lời chứng mạnh mẽ, và bằng cả cuộc đời của các ngài nữa.
Đời người tu sĩ cũng được mời gọi để sống và cảm nhận sự hiện diện của Đức Kitô trong cuộc đời mình, trước khi nói đến việc làm chứng về Nước Trời cho thế gian. Chúng ta làm chứng cho thế gian biết sự hiện diện của Chúa giữa lòng đời, một Thiên Chúa giàu lòng thương xót, giàu ân sủng. Xét theo chiều sâu của ơn gọi này, đó chính là cách thức để đạt đến sự thiện toàn của đức mến. Nếu như lương tâm ngay thẳng hướng con người làm điều thiện, thì đức Tin và đức Mến hướng con người đến đỉnh thiện toàn trong Đức Giêsu Kitô.
3. Lịch sử cứu độ là lịch sử Thiên Chúa thông ban Lời của Ngài cho con người
Trong Cựu Ước, Thiên Chúa “dựng lều” giữa dân Người. Hình ảnh rất đẹp mang nét du mục là Lều Hội Ngộ, điểm quy chiếu của toàn dân Israel. Thiên Chúa hiện diện giữa dân người qua dấu chỉ Lều Tạm, và lòng dân hướng về Lều Hội Ngộ này với tất cả sự tôn kính và cậy trông. Họ hướng về nơi đó chờ đợi mệnh lệnh, chờ đợi Thánh Ý; họ quy tụ nơi đó như điểm hội tụ để dâng lễ tế lên Thiên Chúa. Nói cách khác, Lều Hội Ngộ là điểm quy tụ của toàn dân Israel.
Đấng Cứu Độ ở giữa chúng ta. Khi thời gian đến hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con Một đến trần gian. Theo ngôn từ của Tin Mừng Gioan, “Ngôi Lời đã mặc lấy xác phàm, và cư ngụ giữa chúng ta.” (Ga 1,14). Trong Cựu Ước, Thiên Chúa phán dạy qua các vị trung gian; trong Tân Ước, Thiên Chúa phán dạy chúng ta qua chính Thánh Tử (Dt 1,1). Biến cố nhập thể là dấu chỉ bình an và niềm vui cho toàn thế giới, như lời thiên sứ loan báo cho các mục đồng: Hôm nay, Đấng Cứu Độ đã được sinh ra cho anh em. Cách diễn tả của hai tác giả Tin Mừng Nhất Lãm cho chúng ta thấy sự hiện diện của Thiên Chúa giữa con người cách êm đềm, ẩn dật; Người xuất hiện giữa những con người chất phác, đơn sơ. Cuộc hạ mình cách khiêm hạ của Ngôi Lời mang lại cho con người bình an, niềm vui, niềm hy vọng. Xét tỉ mỉ sứ điệp Nước Trời, chúng ta sẽ thấy mầu nhiệm Con Thiên Chúa nhập thể khởi đầu cho hai chữ “bình an” trên trần thế, và mở ra một thời đại mới, thời đại của “bình an” mà Đức Giêsu Phục Sinh, bằng lời chào thân ái, đã ban lại cho các Môn Đệ: “Bình an cho anh em.” (Lc 24,36).
Với nét chiêm niêm trong Linh Đạo Đa Minh, chúng ta thử đặt câu hỏi về sự bình an này như thế nào. Chữ Pax trong tiếng Latinh được khắc ghi nơi các đan viện muốn nói lên điều này: Bình an của khung cảnh bên ngoài, tĩnh mịch, thinh lặng mà người đời hằng cảm mến và tìm kiếm, là điều kiện và cũng là hoa trái của nếp sống cầu nguyện: Là điều kiện, vì sự thinh lặng bên ngoài đưa con người dễ bước vào đời sống cầu nguyện với Chúa; là hoa trái, vì chính nếp sống cầu nguyện, chiêm niệm phát sinh thái độ bình an này, một sự bình an xuất phát từ tâm hồn người tu sĩ. Như vậy, đây vừa là lời mời gọi, và cũng là thách đố cho mỗi chúng ta trên hành trình theo Chúa trong ơn gọi chiêm niệm.
Thiên Chúa cho nhân loại cảm nhận một cách cụ thể và sâu xa sự hiện diện của Người qua Đức Giêsu; chính trong Người, chúng ta được mời gọi sống và cảm nhận chiều kích thẳm sâu của mầu nhiệm tình thương. Ngôn từ không thể diễn tả hết kho tàng vô tận của tình thương hải hà nơi Thiên Chúa. Đời tu trì, đặc biệt đời đan tu (nếu chúng ta muốn nói đến nét thẳm sâu của đời chiêm niệm), mang nét ẩn dật như Ngôi Lời giáng trần chốn khiêm hạ. Có thể trong một nền văn hoá nào đó còn chuyện đề cao đời tu, coi trọng đời tu, còn chuyện “vinh quy bái tổ” mỗi khi một tu sĩ nào đó đạt được một chặng đường trong đời tu, đó cũng chỉ là những hình thái biểu hiện, cung cách trọng vọng. Trong khi đó, căn tính của đời tu hệ tại ở điểm khác, mà ở mọi nơi mọi thời đều như nhau: Theo Chúa Kitô sống khiêm nhường phục vụ. Chính đây là sức mạnh của đời tu trì dâng hiến cho Chúa, vì nó bén rẽ tận căn nơi suối nguồn sống động của đời tu trì: Sequella Christi.
Chúng ta đã nói đến con người và tự do. Chúng ta biết mình được sống một cách thăng hoa sự tự do đến mức độ tự do của con Thiên Chúa. Bởi chính sự tự do làm cho hành vi của con người mang giá trị luân lý, thì chính sự tự do này góp phần vào hy lễ cuộc đời người dâng hiến cho Chúa: từ bỏ với trọn tự do và ý thức đòi hỏi cả một qúa trình cảm nhận sâu xa trong đời tu trì dâng hiến. Theo cái nhìn của triết lý, sự tự do của con người nói lên tính ưu việt của họ; theo hướng thần học, đặc biệt thần học Kinh Viện, sự tự do của con người phải có định hướng theo nguyên lý cấp độ: thân xác phải tuân phục lý trí, lý trí tuân phục tâm hồn, tâm hồn tuân phục Thiên Chúa. Sự tự do phải có định hướng để có thể thể hiện đúng mức nhất cứu cánh của hành vi nhân linh.
II. TRUY TÌM CĂN TÍNH ĐỜI TU ĐA MINH
Trong Tông Thư, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhắc chúng ta lưu ý đến “cái chất” của đời tu:
Anh chị em đừng chiều theo chước cám dỗ về số lượng và hiệu quả, lại càng không nên tín thác vào sức riêng của mình. Hãy lục lọi những chân trời của cuộc đời anh chị em và của thời buổi hiện tại với sự tỉnh thức. Cùng với đức Bênêđictô XVI, tôi xin lặp lại: ‘Anh chị em đừng liên minh với những ngôn sứ yếm thế dự đoán sự chấm dứt đời sống thánh hiến vì mất ý nghĩa ở thời đại này. Trái lại, anh chị em hãy mặc lấy Ðức Giêsu Kitô và khoác vào binh giáp của ánh sáng - như thánh Phaolô đã khuyên nhủ - trong thái độ tỉnh thức mong chờ.’ (NTH, I.3).
A. Đời tu, dấu chứng của tình yêu
Việc dấn thân của nhiều người nam nữ trong nếp sống tu trì diễn tả một sự quảng đại dấn thân cho Chúa để phục vụ Giáo Hội và tha nhân. Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã cảm kích diễn tả sự ngưỡng mộ và tình liên đới với các tu sĩ trong lời cầu nguyện của ngài: “Chúng con tạ ơn Cha vì món quà đời sống thánh hiến: họ hằng tìm kiếm Cha trong đức tin và qua sứ mạng trên khắp hoàn vũ, mời gọi mọi người đến gần Cha.” (VC 111).
Đời sống của các tu sĩ làm chứng cho một tình yêu dành cho Đức Kitô khi họ bước trên hành trình theo lời khuyên Tin Mừng, và trong niềm hân hoan sâu xa, dấn thân trong cùng một lối sống mà Đức Kitô đã chọn cho họ (Lumen Gentium, 44). Chính nếp sống này giữa lòng đời trở thành lời chứng đích thực cho một nếp sống khác với lối sống của thế gian, với nền văn hoá văn minh đương đại, vốn yêu chuộng hiệu quả của công việc, của tiền tài, danh vọng, quyền bính. Căn cứ vào nếp sống này, đời sống thánh hiến giúp người tu sĩ tìm kiếm Đấng Tuyệt Đối, đồng thời cũng đề nghị một phương dược thiêng liêng nhằm chữa trị các điều ác hại trong thời đại.
Một tình yêu dành cho Đức Kitô được thể hiện trong chính đời sống này. Sự hiện diện năng động của các thế hệ, của các hình thức tu trì trong Giáo Hội hiện nay diễn tả nét phong phú trong phục vụ của đời tu trì, làm cho sự hiện diện của Đức Kitô rực sáng lên trong thế giới, cũng như làm rõ nét hơn sự hiện diện của Giáo Hội giữa lòng đời (x. XPL 6). Trong những năm gần đây, nhiều nơi và nhiều đấng bản quyền địa phương chú trọng đến chiều kích hiệp thông và truyền giáo, một dấu chỉ khả giác của tình yêu dành cho Chúa và tha nhân. Bên cạnh đó, nỗ lực đào sâu chiều kích đời tu và thanh luyện cũng không kém phần quan trọng (x. XPL 6) nhằm đào tạo cho Giáo Hội “những thợ gặt lành nghề”. Đối diện với nhu cầu này, các hội dòng đang phải tăng cường và củng cố để phát huy tính năng động của mình trong Giáo Hội và xã hội. “Người ta đánh giá cao nỗ lực đáng khen nhằm tìm kiếm một cách thức thực thi quyền bính và vâng phục qua việc khẳng định, soi sáng, hợp nhất, hoà nhập và hoà giải, được gợi hứng từ Tin Mừng hơn” (x. XPL 6). Những cách thức phục vụ này là hoa trái của một lòng mến: từ bỏ mọi sự để đi theo Đức Kitô.
B. Nhận biết và phục vụ Đức Kitô
Được kêu gọi đi theo Đức Giêsu, người tu sĩ bước theo Người trong cuộc đời thánh hiến để tiếp tục sứ mạng của Người trên trần gian. Chính đời sống thánh hiến, dưới tác động của Chúa Thánh Thần, trở thành một sứ vụ (với Đa Minh, sứ vụ này là Giảng Lời Chúa). Người tu sĩ càng để cho mình trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, thì Đức Kitô càng hiện diện và sống động trong lịch sử vì phần rỗi mọi người. Nét chiêm niệm đóng góp cho Giáo Hội và làm chứng cho thế giới về một đời sống trong thinh lặng, cầu nguyện và làm việc, nhấn mạnh giá trị của đời sống chiêm niệm trong đời sống thường ngày, đặc biệt là trong thế giới hôm nay vốn ồn ào và hướng ngoại. Đây cũng là một trong hai yếu tố của căn tính Đa Minh, và được đặt là thiết yếu trong tương quan với sứ vụ giảng thuyết.
Nhiệt tâm xây dựng Nước Thiên Chúa và mang ơn cứu độ đến cho anh chị em là một bằng chứng cho thấy các người thánh hiến thật sự dâng hiến bản thân. Do vậy, mọi nỗ lực canh tân được xem là động lực thúc đẩy cho sứ vụ phúc âm hoá (x. XPL 9). Về điểm này, Huấn Thị Xuất Phát Lại Từ Đức Kitô đánh giá cao việc thường huấn trong đời tu mà qua đó, với những kinh nghiệm mà các tu sĩ có được trong khi phục vụ, họ có thể chọn lựa trong số những kinh nghiệm thiêng liêng để can đảm quyết định dấn thân phục vụ. Việc gia tăng lòng yêu mến phục vụ Đức Kitô sẽ giúp các tu sĩ biết dấn thân vì Tin Mừng. Trong nhiều hoàn cảnh khó khăn, nhiều tu sĩ đã không ngần ngại dấn thân trong việc phục vụ, truyền giáo, và ngay cả dám hy sinh, với những khó khăn, để trung thành trong phục vụ (x. XPL 9). Về điểm này, môi trường đào tạo đời tu của chúng ta cần hướng dẫn và khơi lên lửa nhiệt thành nơi các huấn sinh, giúp các tu sĩ trẻ định hướng và chuẩn bị cho việc là chứng tá Tin Mừng.
C. Linh đạo hiệp thông
Đời tu ngày nay, với nhiều mối tương quan và hiệp thông, đặt người tu sĩ trong tinh thần hiệp thông trong tình yêu. Tông Huấn Vita Consecrata, số 46, nói đến sự hiệp thông như dấu chỉ của nếp sống thánh hiến: “Những người thánh hiến được yêu cầu trở nên những chuyên viên thực sự về hiệp thông và thực hành linh đạo hiệp thông như những chứng nhân và những người kiến tạo kế hoạch hiệp thông, đỉnh cao của lịch sử nhân loại theo ý muốn của Thiên Chúa.” Sự hiệp thông này trước tiên là trong cộng đoàn tu trì, sau đó là mở rộng ra trong Giáo Hội, và còn rộng hơn nữa: “đến với những nơi hiện đang bị xâu xé bởi sự hận thù chủng tộc, hoặc bởi bạo lực điên rồ” (x. XPL 28).
Linh đạo hiệp thông này trước hết là hướng về Thiên Chúa Ba Ngôi, hồn sống của đời sống cộng đoàn. Kế đó, là để ý đến khả năng của anh chị em trong đức tin, trong hiệp nhất của một thân thể nhiệm mầu. Từ nguyên tắc này, những hiệu quả có thể có được trong mối dây hiệp thông: chia sẻ niềm vui và những đau khổ của anh chị em chúng ta, nhạy cảm trước những ước muốn và chú ý đến các nhu cầu của họ, tặng ban cho họ tình bạn sâu sắc và chân chính, thấy những gì tích cực nơi người khác, đón nhận và khen ngợi điều đó như hồng ân Thiên Chúa ban, biết dành một chỗ cho người khác bằng cách mang gánh nặng cho nhau. (x. XPL 29).
Từ những nguyên lý nói trên, chúng ta thử khai triển linh đạo hiệp thông trong Tỉnh Dòng, đặc biệt qua nét chiêm niệm và cộng đoàn. Trước hết, phải nói đến tính thống nhất trong một cộng đoàn Đa Minh: Đức ái huynh đệ là trên hết. Lời khấn Dòng diễn tả sự đáp trả của tu sĩ bằng lòng mến đi theo tiếng Chúa gọi. Đây chính là lòng mến, vốn được nhen nhóm trong tâm khảm của mỗi người tu sĩ, được thể hiện qua lời khấn dòng, và được nuôi dưỡng cho lớn lên trong cầu nguyện và Giảng Thuyết. Mến Chúa, yêu người, và quý trọng ơn gọi của bản thân được diễn tả trong nếp sống âm thầm phục vụ. Ba lời khấn đưa người tu sĩ vào mối dây thân tình với Thiên Chúa; việc tuân giữ kỷ luật đời tu, một khi được thực hiện với ý thức và lòng mến, trở nên hy lễ liên lỉ dâng lên Thiên Chúa. Một tu sĩ cao niên tận tụy chỉ với một việc nho nhỏ trong cộng đoàn cũng có thể diễn tả lòng trung tín, và nhiệt thành trong đời tu.
Nếu có thể dùng một ví dụ minh họa, thì trong Linh Đạo Biển Đức, lao động trở thành lời cầu nguyện khi lòng mến thôi thúc người tu sĩ làm với trọn tâm tình, mà câu nói của Cha Thánh Biển Đức là bằng chứng hùng hồn: “in primis diligere” (tiên vàn, là yêu thương). Đây là nguyên tắc giúp cho mọi hành vi trong đời sống người tu sĩ trở nên ý nghĩa. “Quantitas animae aestimatur de mensura caritatis quam habet.” (giá trị của một tâm hồn được lượng định theo cấp độ lòng mến của người đó). Cũng chính từ nguyên lý này, người ta không còn phân biệt việc lớn với việc bé nữa.[2] Nói một cách mạnh mẽ, người ta không tìm kiếm điều thánh thiện của sự việc cho bằng tìm kiếm sự thánh thiện trong các việc làm.[3] Nói như thế, chúng ta không có ý cổ võ một “chủ nghĩa duy hoạt động”, nghĩa là kêu gọi mọi đan sĩ lao vào công việc mà quên đi những bổn phận đạo đức: Cung Nguyện, suy gẫm, đời sống chung. Thêm vào đó, đời sống đạo đức và việc gia tăng đời sống tâm linh giúp người tu sĩ mỗi ngày hoán cải, để nên “bí tích của Đức Kitô.” Linh đạo Đa Minh đưa người tu sĩ nhiệt thành trong giảng thuyết, nhưng không quên chu toàn những yếu tố của chiêm niệm.
Trong Tông Thư, Đức Thánh Cha Phanxicô nhấn mạnh tình hiệp thông này:
Các tu sĩ và những người tận hiến được mời gọi trở nên những “chuyên viên hiệp thông.” Vì thế tôi mong rằng “linh đạo hiệp thông” mà thánh Gioan Phaolô II đã chỉ ra, sẽ trở thành thực tại, và anh chị em sẽ là những người đầu tiên đón nhận “sự thách đố lớn lao ở trước mặt" trong ngàn năm mới: "làm cho Giáo hội là ngôi nhà và trường học của hiệp thông.” Tôi chắc rằng trong Năm nay, anh chị em cố gắng để cho lý tưởng huynh đệ mà các vị sáng lập theo đuổi sẽ tăng trưởng ở nhiều cấp độ, tựa hồ những vòng tròn đồng tâm. Tiên vàn sự hiệp thông được thực hành ngay tại các cộng đoàn trong dòng. Tôi mời anh chị em hãy đọc lại điều mà tôi không ngừng lặp đi lặp lại nhiều lần rằng những lời chỉ trích, đàm tiếu, ghen tương, tị hiềm, đố kỵ không được phép cư ngụ ở trong nhà của anh chị em. Sau tiền đề ấy, con đường bác ái còn lại hầu như là vô tận, bởi vì bao gồm việc đón tiếp và quan tâm lẫn nhau, thực hành sự chia sẻ những tài nguyện vật chất và tinh thần, sửa bảo huynh đệ, tôn trọng những người yếu đuối,... Chính "huyền nhiệm chung sống với nhau" làm cho cuộc đời trở nên một cuộc “lữ hành thánh thiện.” Chúng ta cũng phải tự vấn về tương quan giữa những người thuộc về những nền văn hóa khác nhau, xét vì các cộng đoàn của chúng ta càng ngày càng trở thành quốc tế. Làm cách nào để cho mỗi người có thể biểu lộ chính mình, được đón nhận với những ân ban đặc thù, được hoàn toàn đồng trách nhiệm? (NTH, II.3).
III. SỐNG VÀ LOAN BÁO TIN MỪNG THEO PHONG CÁCH ĐA MINH
A. Bối cảnh xã hội
Trong Tông Huấn Evangelii Gaudium, Đức Thánh Cha Phanxicô có những phân tích hay về bối cảnh xã hội ngày nay, và qua đó nó cũng có gây ảnh hưởng đến đời sống Giáo Hội Công Giáo, cách riêng là đời tu:
Nguy cơ lớn nhất trong thế giới ngày nay, với những cung cấp tràn ngập và đa dạng của chủ nghĩa tiêu thụ, là một nỗi buồn cá nhân đến từ tâm hồn tự mãn và tham lam, từ cơn sốt tìm kiếm những thú vui phù phiếm, và một lương tâm bị cô lập. Khi đời sống nội tâm bị đóng kín với những tư lợi, thì không có chỗ cho người khác nữa, những người nghèo không thể vào được nữa, người ta không còn nghe được tiếng Chúa, không còn được hưởng niềm vui ngọt ngào của tình yêu Ngài, tim họ không còn đập những nhịp nhiệt thành để làm việc thiện nữa. (EG 2).
Thiết nghĩ, đôi dòng đơn cử trên đây mời gọi từng tu sĩ chúng ta suy nghĩ về những thách đố cho việc sống Ba Lời Khuyên Tin Mừng trong thế giới ngày nay.
B. Nguyên lý Tin Mừng: Tình yêu trọn hảo và Ba Lời Khấn
“Nếu anh muốn nên hoàn thiện, thì hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi.” (Mt 19, 21)
Đoạn Tin Mừng cho thấy khát vọng đi tìm kiếm sự thiện hảo nơi người thanh niên là một điều cao đẹp. Câu hỏi đặt ra là hành vi nào cần phải có để hưởng sự sống đời đời. Đức Giêsu gợi ý cho chàng thanh niên con đường cụ thể và căn bản nhất của Do Thái Giáo: Giữ các điều răn. Chàng thanh niên đã giữ trọn vẹn những khoản quy định của luật; nhưng anh vẫn khao khát một điều gì đó cao đẹp hơn. Câu hỏi giúp anh tiến xa hơn nữa là tìm xem còn thiếu điều gì nữa không ngoài việc giữ luật lệ như thế. Cách dẫn nhập của Đức Kitô có nét lạ, đó là Người đưa anh đến một quyết định mang tính dứt khoát, được thể hiện qua chính hành vi từ bỏ: “Nếu anh muốn nên hoàn thiện, thì hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi.” Đây là một lời mời gọi từ bỏ mạnh mẽ, hoàn toàn để “trở nên không” với Đấng mà anh đang gặp gỡ. Giữ các điều răn đã là việc tốt đẹp, vì trong đó có chứa đựng lòng yêu mến: “Ngươi phải yêu thương đồng loại như yêu chính mình.” Nhưng lòng mến đó còn có cấp độ cao hơn, được thể hiện trước tiên qua hành vi, và sau đó là sự từ bỏ: Qua hành vi, đó là bán mọi sự mình có để chia sẻ với người nghèo, để trở nên nghèo hoàn toàn như Đức Kitô; và từ bỏ, đó là sẵn sàng để theo Thầy Giêsu trên con đường hẹp: Chim có tổ, chồn có hang, Con Người không có nơi gối đầu. Anh thanh niên đã tìm đúng người để hỏi, đã đặt đúng câu hỏi để tìm câu trả lời, nhưng cuối cùng lại không tiếp tục hành trình tìm kiếm, bởi anh bị ngăn trở bởi lòng quyến luyến tài sản.
Trong Huấn Thị Xuất phát lại từ Đức Kitô, việc tuân giữ các Lời Khuyên Phúc Âm được nói đến như một phương thế để diễn tả lòng mến mà người tu sĩ dành cho Thiên Chúa:
Các lời khuyên phúc âm như khiết tịnh, nghèo khó và vâng phục mà đức Ki-tô sống trong nhân tính trọn vẹn của người với tư cách là Con Thiên Chúa và được ôm ấp vì yêu mến Thiên Chúa, tỏ lộ như một con đường thực hiện nhân vị cách viên mãn ngược lại sự phi nhân hoá. Chúng là những thần dược chữa trị sự sa đoạ của tinh thần, đời sống và văn hoá, chúng công bố sự tự do của con cái Thiên Chúa và niềm vui sống theo các mối phúc lộc Tin Mừng. (XPL 13).
Như vậy, mẫu mực của các lời khuyên Phúc Âm tìm thấy nguồn cội nơi chính Đấng mà mỗi tu sĩ quyết tâm theo đổi, khi đã can đảm từ bỏ những điều có nguy cơ ngăn cản họ trên con đường nên hoàn thiện. Đức Giêsu đã sống và đã thực hiện một cách vẹn toàn giá trị của điều mà ba lời khấn muốn diễn tả: Ngài mời gọi một số người nam, nữ đi theo Người, cảm nhận và chia sẻ kinh nghiệm về lối sống theo các lời khuyên Phúc Âm, để nên hoàn toàn đồng hình đồng dạng với Người, bởi chính Người đã sống và sống trọn vẹn ý nghĩa của các lời khuyên Phúc Âm trong tưong quan của Người Con với Chúa Cha và trong liên kết với Chúa Thánh Thần. (x. VC 18).
C. Lòng mến và nhiệt tâm xây dựng Nước Chúa
Cũng trong Tông Huấn Vita Consecrata, nếp sống theo các lời khuyên Phúc Âm thiết lập một cách thức sống đặc biệt thân tình và phong phú với Đức Kitô, cũng như theo đổi sứ vụ của Người. Đức Maria được nhắc đến như mẫu gương tiên khởi về việc từ bỏ chính mình để thi hành kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Vào lúc Thiên Sứ truyền tin cho Mẹ, Mẹ đã thưa với tất cả lòng thành: “Này tôi là tôi tá Chúa, xin hãy thực hiện nơi tôi như lời Sứ Thần truyền.” (Lc 1,38).
Trong hy lễ đền tội mà Đức Giêsu đã dâng lên Thiên Chúa Cha, sự tuân phục của Người là một lễ hy sinh cao độ. Xét theo chiều kích tư tế, lễ vật dâng lên Chúa được gọi là của thánh. Sự thánh thiêng được tập trung trong cuộc đời Đức Giêsu: hy lễ toàn thiêu, hy lễ đền tội Người đã dâng lên Thiên Chúa trên thập giá. Chính hy lễ này được thực hiện trong tuân phục và yêu thương. Người vừa là tư tế, vừa là bàn thờ, vừa là của lễ. Hy lễ Người dâng một lần là đủ. Đây cũng chính là tuân phục và phụng tự đích thực của những ai theo Đức Giêsu.
Thánh hiến đời tu nằm ở chính cuộc đời người đi theo Chúa. Nghi thức tuyên khấn có một giá trị quan trọng. Việc thánh hiến diễn ra nhờ việc chu toàn trung tín dự phóng cuộc đời mà chúng ta tuyên khấn vào một thời điểm nhất định. Từ đó, việc thánh hiến cho Thiên Chúa cuộc đời mình là cho sứ vụ. Đức vâng phục không thể được coi là nằm bên lề sứ vụ, nhưng phải thể hiện cụ thể giá trị của lời khấn trong sứ vụ mình thực hiện. Sứ vụ đó là xây dựng Nước Chúa ngay trong cuộc đời trần thế này. Các tu sĩ trở nên dấu chỉ của một Nước Trời mai hậu.
Đời sống thánh hiến không nhằm tìm kiếm sự tôn vinh và tán thưởng của con người, nhưng được đền đáp bằng niềm vui khi được tiếp tục làm việc không mệt mỏi vì Nước Thiên Chúa, được trở nên hạt giống đang âm thầm lớn lên, không chờ đợi bất cứ phần thưởng nào khác ngoài phần thưởng Thiên Chúa sẽ ban trong ngày sau hết. (XPL 13).
D. Về Ba Lời Khuyên Phúc Âm
Khi nói đến đời sống thánh hiến, chúng ta đề cập ngay đến các Lời Khuyên Phúc Âm: Khó nghèo, Vâng phục, Khiết tịnh. Ba lời khấn này là căn bản cho mọi nếp sống tu trì trong Giáo Hội, và mỗi Hội Dòng có thể kèm thêm những lời khấn riêng. Xét tận căn, Ba Lời Khuyên Phúc Âm giúp người tu sĩ đạt đến sự tự do và trưởng thành trong đời sống đức Tin và Đức Mến mỗi ngày một sâu sắc hơn. Tuân Phục đụng chạm đến tự do của con người; Khó nghèo đụng chạm đến vật chất vốn đối với con người là một điều gì đó đảm bảo cho đời sống; Khiết tịnh đụng chạm đến tình cảm của con người là điều gần với bản tính nhân loại: biết yêu và muốn được yêu mến.
Ở một số thời kỳ trong Lịch Sử Giáo Hội, đời tu được nhấn mạnh ở điểm này hay điểm khác, có khi nhấn mạnh đến những điều ngoài Ba Lời Khuyên Tin Mừng, như việc từ bỏ, khổ chế, đời tu đồng nghĩa với “cái chết”: chết cho thế gian, chết cho tính xác thịt của con người. Không ít người nhìn nhận rằng nếu không cảnh giác, đời tu sẽ thành nơi củng cố điều mình muốn từ bỏ.
Theo dòng lịch sử phát triển của Ba Lời Khấn, nếp sống tu trì được thể hiện trước, sau đó mới có các định luật, quy tắc để quy định cho nếp sống này. Nếu các Lời khuyên Tin Mừng chỉ được xét về tính pháp lý và khổ chế, thì chúng không nói lên được toàn bộ đời sống Tin Mừng, không bao hàm hết những đòi hỏi của việc làm môn của Đức Giêsu một cách triệt để. Chìa khoá nối kết Ba Lời Khấn là Đức Ái, mối dây trọn lành ảnh hưởng đến mọi hành vi của người tu sĩ. Nếu nhân cách của con người bị chi phối bởi ba giá trị cơ bản: chiếm hữu, quyền bính và tình cảm, thì Ba Lời Khấn tạo nên dấu chỉ đối kháng trong ba giá trị cơ bản nói trên. Tuân phục, xét như việc làm trọn ý Thiên Chúa và phục vụ huynh đệ, chính là đối kháng với ước muốn quyền bính; Khiết tịnh, xét như việc từ bỏ mọi sự để trọn vẹn dâng hiến cho Thiên Chúa bản thân trong việc thờ phượng Người, đối kháng với khuynh hướng tình cảm chấp hữu, vốn quy chiếu tiến trình sinh nở và trao truyền sự sống; Khó nghèo, xét như việc từ bỏ mọi ràng buộc vật chất, để thanh thoát cho cuộc đời tu trì và sứ vụ, trở thành đối kháng với tiền tài. Tất cả những yếu tố của các Lời Khấn này kín múc từ Tin Mừng, trở thành phương thế giải thoát người tu sĩ khỏi những ràng buộc, để thanh thoát đi theo Đức Kitô.
Sống trong một xã hội như Việt Nam ngày nay, đang mở ra với thế giới văn minh văn hoá, giá trị của Ba Lời Khấn càng trở nên khẩn thiết hơn bao giờ hết. Những thách đố đến từ những trào lưu sống, từ những ảnh hưởng của xã hội đương đại nhắc người tu sĩ ý thức cảnh tỉnh trong việc giữ các lời Khuyên Tin Mừng. Những việc khổ chế trong đời tu có giá trị khi phát xuất từ hứng khởi Tin Mừng, diễn tả giá trị của đời thánh hiến.
1. Vâng phục, tự do và hy tế
Trong cuốn Refounding Religious Life, cha F. D. Martinez đã trích một câu nói khá nổi tiếng: “Khi bề trên truyền lệnh, thì tôi là một thuộc nhân; còn bây giờ các thuộc nhân truyền lệnh, tôi được làm bề trên” (F. D. Martinez, tr.257). Dù thành ngữ trên không tìm được xuất xứ chính xác, cũng không có tính thần học chặt chẽ, nhưng một cách nào đó nó nói lên một điều là quyền bính và tuân phục đã thay đổi nhiều trong các cộng đoàn tu trì. Trong thay đổi này, hai chiều kích được xét đến: Liệu tuân phục tìm được mẫu gương từ sự tuân phục của Đức Kitô? Hay hành vi tuân phục chỉ dừng lại ở tương quan ngôi vị giữa bề trên và thuộc nhân? Nếu có chăng một khủng hoảng trong đời sống cộng đoàn tu trì, thì liệu khủng hoảng này đến từ khủng hoảng về quyền bính, hay là về thái độ tuân phục của tu sĩ?
Để trả lời cho những vấn nạn nói trên, tác giả đã đưa ra những quan điểm lý giải: Về điểm thứ nhất, khủng hoảng quyền bính cho thấy một thái độ tiêu cực có thể đến từ phía người lãnh đạo hoặc từ bề dưới, dựa trên tương quan quyền bính và tuân phục; chẳng hạn như, đứng trước bề trên tôi tuân phục hoặc chống đối bởi người đó làm tôi phục hoặc làm tôi chán ngấy (kiểu vâng phục này là kiểu vâng phục nô lệ, tuỳ theo người mình tùng phục, và thường làm cho người tu sĩ đánh mất căn tính của mình; bởi nếu bề trên là người mình không phục, thì hoặc là phản ứng nhẹ nhàng bằng cách bất cộng tác, nín thở qua sông đợi hết nhiệm kỳ của vị bề trên đó; hoặc là chống đối). Có thể có hình thức bề trên dùng quyền phán quyết để cai trị cộng đoàn, nhằm trả đũa những xung khắc của qúa khứ. Về điểm thứ hai, hành vi tuân phục mang chiều kích tâm linh, bởi chưng sự tuân phục có căn nguyên nền tảng từ Đức Kitô, Đấng đã học biết thế nào là tuân phục Thiên Ý đến cùng.
a. Kiểu mẫu tuân phục: Đức Giêsu Kitô đã tuân phục Chúa Cha cho đến nỗi bằng lòng chịu chết
Việc từ bỏ của Chúa Giêsu là chiếu theo việc Người tuân phục Chúa Cha, thi hành Thánh Ý, một sự vâng phục liên kết chặt chẽ với sứ vụ Chúa Cha trao phó. Người không làm theo ý riêng. Trong Vườn Ghếtsêmani, Đức Giêsu đã phải đối diện với đau khổ cùng cực của kiếp nhân sinh, và tình huống này đặt Người đối diện với thái độ yêu mến và tuân phục. Khi nỗi đau khổ trở nên cao độ bởi nỗi đau thể xác, bởi sự sợ hãi, bởi cảm nhận cô đơn, Đức Giêsu đã thốt ra lời thân thương với Chúa cha, và cũng qua đó thể hiện rất thật thân phận con người: “Lạy Cha, nếu có thể, xin cất chén này; Nhưng đừng theo ý con, một theo ý Cha.” Hành vi vâng phục này mang giá trị siêu việt; Đức Giêsu có thể dùng tự do của mình để tránh né đau khổ đó. Nhưng sự vâng phục đặt nền trên lòng mến đã đưa Đức Giêsu đến đích của lễ hy sinh tuyệt vời: Chịu chết trên thập giá.
b. Tuân phục và bác ái
Thời của thánh Pacôme, đời tu đã thành hình đời sống cộng đoàn bên Đông Phương. Trong cấu trúc đời tu này, người ta thấy đã có việc tuân phục kỷ luật và trật tự của cộng đoàn đưa ra (kế đó, có Tu Luật thánh Basiliô, và bên Tây Phương có thánh Augustinô; và sau này thánh Đa Minh, thánh Phanxicô khai triển khá sâu sắc nếp sống cộng đoàn tu trì). Việc tuân phục đánh dấu bước tiến trong lịch sử của đời tu. Cộng đoàn tu trì hình thành với những quy tắc, kỷ luật nền tảng cho đời sống cộng đoàn, giúp cộng đoàn ổn định và giữ được nếp sống hài hoà nhất có thể. Danh từ được dùng để nói đến cộng đoàn tu trì này là conventus, trong đó tình huynh đệ, mối liên hệ thân thiết được chú trọng, theo ánh sáng của Tin Mừng.
c. Tuân phục và đức tin
Sau thời ẩn tu, đời sống đan tu phát triển dần. Truyền thống Biển Đức coi tuân phục như thái độ của đức Tin. Từ ngữ vâng phục nói lên điều này, ob-auditio fidei: vâng phục trong niềm tin, lắng nghe Ý Thiên Chúa qua bề trên. Trách nhiệm của Viện Phụ là dạy dỗ, chỉ bảo, quyết định, điều hành, nhất là lo đời sống tâm linh. Vâng lời viện phụ là vâng lời Ý Chúa. Nếu được dùng hình ảnh để diễn tả thái độ vâng phục này, chúng ta có thể dùng hình tháp để nói đến điểm quy chiếu của lời khấn: Tu sĩ vâng phục đan viện trưởng, bởi đan sĩ đọc ra Thánh Ý Chúa qua lời giảng dạy, quyết định, điều hành, những chỉ dạy thiêng liêng. Rõ ràng rằng việc vâng phục trong nếp sống tu này diễn tả thái độ của niềm tin, trong khiêm tốn, lắng nghe. Đây là yếu tố chủ lực của việc làm môn đệ Đức Kitô (F. D. Martinez, tr.260). Bề trên được gọi là Abba (cha), vì ngài là cha tinh thần của một gia đình đan viện.
d. Tuân phục vì sứ vụ
Sau đó, vào thời Trung Cổ, khi các dòng hành khất ra đời, lịch sử dòng tu cho thấy đã xuất hiện dạng thức tuân phục vì sứ vụ, đặt nền trên những yếu tố thần học về đời tu đã có sẵn trong truyền thống lịch sử đời tu của Giáo Hội. Sự vâng phục, ngoài chiều kích siêu nhiên là để lắng nghe ý Chúa, còn diễn tả tính tuân phục hướng đến sứ vụ. Bề trên được gọi bằng một danh xưng khác: prior (anh trưởng/chị trưởng, hay là người đứng đầu trong những anh em). Prior chịu trách nhiệm phối hợp, làm cho cộng đoàn được linh hoạt dưới ánh sáng của Tin Mừng, và phối hợp sức mạnh của từng cá nhân cũng như cộng đoàn để thi hành sứ vụ.
Kiểu mẫu truyền thống của đời tu xuất hiện và được duy trì trong Giáo Hội dưới nhiều hình thức, nếp sống tu trì khác nhau tuỳ theo đoàn sủng của mỗi Dòng. Xét trong bối cảnh tiền Công Đồng Vaticanô II, lời khấn vâng phục thuộc về kỷ luật đời tu: Dù rằng chiều kích thiêng liêng và thần bí vẫn có trong việc giữ Ba Lời Khấn, nhưng quyền lực pháp lý và kỷ luật lại là những căn nguyên buộc người tu sĩ tuân phục. Việc cải tổ hậu Công Đồng cho thấy hình thái này bớt dần tính pháp lý, kỷ luật, và nhấn mạnh đến khía cạnh thần học.
Thực trạng đời tu cho thấy yếu tố cần được nhấn mạnh trong lời khấn vâng phục mang chiều kích cá nhân: từng cá nhân tu sĩ và cả bề trên. Cả hai đều được mời gọi lắng nghe Thánh Ý, cả trong việc vâng phục (cá nhân tu sĩ) và trong lệnh truyền nếu có (phía bề trên). Chính thái độ và ý thức của từng tu sĩ đánh giá mức độ trưởng thành trong lời khấn này, và nói rộng hơn, là trong đời sống đức tin. Thời trước, trong truyền thống cổ kính, việc vâng phục xem ra rất dễ dàng, vì cả hai đều đặt Thánh Ý là trên hết, và cả hai đều chú trọng đến việc rèn nhân đức. Chuyện đối thoại xem chừng không cần thiết, vấn đề nhân quyền cũng không phải cần xem xét lại, vì việc thực thi trách nhiệm và quyền hạn trong lời khấn này được duy trì trong một môi trường trật tự, an bình, hài hoà. Hình thức này có nét hay, nhưng cũng có thể phô diễn phần nào nhược điểm của cách sống này, chẳng hạn như: vâng phục không suy xét.
Thời nay, kiểu mẫu đời tu tự do du nhập những yếu tố mới trong việc thực thi quyền bính: Tôn trọng quyền cá nhân và đối thoại. Với việc tôn trọng quyền cá nhân, kinh nghiệm Kitô giáo và đời tu cho thấy đời tu không làm mất giá trị này nơi con người. Mỗi cá nhân đều có tự do, lương tâm và lý trí để hiểu biết về sự vâng phục. Vâng phục vì biết rằng lệnh truyền của bề trên là không sai, cho dù có thể hơi …kém so với điều mình hiểu sâu biết rộng. Nhưng nguyên tắc “vâng phục thì không sai lầm” có giá trị trong trường hợp này. Thần học kinh viện cho việc tuân phục này mang giá trị luân lý, bởi nó nói lên sự từ bỏ của bản thân tu sĩ. Nhưng nếu biết quyết định của bề trên là sai lầm, gây đến tội lỗi, mà còn làm theo, thì không thể tha thứ được.
Kiểu mẫu vâng phục trong đối thoại được khai triển ngày càng rộng, vì xét một khiá cạnh nào đó, kiểu mẫu này phản ánh tính Tin Mừng nhiều hơn, và cũng nói lên được việc lắng nghe Chúa Thánh Thần hướng dẫn qua trao đổi. Tuy nhiên, với kiểu mẫu này, chúng ta phải lưu ý đến điểm yếu của nó: Sự bộc phát của thái độ tự do qúa trớn. Ngày nay, thế giới chịu ảnh hưởng của nhiều trào lưu triết lý và phong cách sống, con người (đặc biệt là người trẻ) muốn có ý kiến, muốn tự khẳng định mình. Chủ nghĩa cá nhân đã làm chậm trễ hoặc hỏng những chương trình của cộng đoàn, tu sĩ đòi phải đối thoại hoặc biết trước những điều mà lẽ ra bề trên không thể nói ra hết được trong sứ vụ người tu sĩ đó được sai đi. Cha Martinez nhận định:
Cũng không hiếm khi trong khung cảnh đó người về trên bị ngăn cản việc thực thi quyền bính, và như vậy mở đường cho cung cách dễ dãi. Đôi khi muốn làm hài lòng hoặc sợ đối đầu với những “thành phần nổi loạn” trong cộng đoàn mà không thực thi quyền bính đến cùng của trách nhiệm được trao; hoặc phải dành nhiều thời gian cho việc thuyết phục. (F. D. Martinez, tr…)
Với hai khuynh hướng tân cổ đó, mỗi kiểu đều có nét đẹp và khuyết điểm. Điều quan trọng là phải tìm lại hứng khởi Tin Mừng của lời khấn này. Thần học đời tu cần hơn là kỷ luật bó buộc.
e. Chiều kích cộng đoàn và sứ vụ
Đặc điểm tuân phục trong đời tu, một khi được đặt trong bối cảnh cộng đoàn, giúp chúng ta phân biệt và chu toàn Thánh Ý Thiên Chúa, qua trung gian lề luật, sứ vụ, dự phóng cộng đoàn, những tước hiệu quyền bính, v.v..
Việc từ bỏ ý riêng, xét theo tính con người, dường như là điều gì đó bất bình thường. Con người thường yêu chính mình, và thích hành xử cách tự do. Nhưng trong chiều kích cộng đoàn và sứ vụ, tự do của tu sĩ được nhắc đến, vì có liên quan thiết thân đến tuân phục. Xét theo nguyên nhân, thì tuân phục theo tinh thần Tin Mừng là trở nên dễ bảo trước tác động của Chúa Thánh Thần, Đấng hoạt động trong cộng đoàn và qua các vị linh hướng, và qua ý trên (hiểu theo ý của bề trên, quyết định của công hội, tu viện hội,…). Thiết nghĩ kiểu mẫu vâng phục này không phản ánh linh đạo đan tu, nhưng được đưa ra để lý giải khuynh hướng tự do mà dường như đời tu nói chung đang gặp phải. Vấn đề là chúng ta tìm cách lý giải và tìm hướng tốt đẹp cho một cung cách sống vâng phục theo Tin Mừng, vốn là điều rất quan trọng trong đời tu ngày nay.
f. Quyền bính[4] và tự do trong đời tu
Từ Công Đồng Vaticanô II, quyền bính trong cộng đoàn tu trì được nhấn mạnh với nền tảng Tin Mừng, phục vụ cộng đoàn và vì sứ vụ. Vai trò của người lãnh đạo là làm cho đời sống cộng đoàn đượm tính chất của Tin Mừng, vừa xét theo cá nhân từng tu sĩ, vừa theo cộng đoàn. Có thể người có trách nhiệm phải gợi lại cho từng cá nhân và cộng đoàn những yêu sách của Tin Mừng, và nhắc nhở mọi người phải dám đối diện với những yêu sách đó (F. D. Martinez, tr.291). Do vậy, vai trò này không chỉ là tài quản trị (vốn là yếu tố thường được quan tâm hàng đầu khi cộng đoàn chọn bề trên cho mình), nhưng còn cần lưu ý đến chiều sâu về đặc sủng, về tính sẵn sàng của Tin Mừng. Chức năng này trở nên dễ dàng một khi bề trên là chứng nhân cho sự trung thành với Tin Mừng. Chức năng ngày càng trở nên quan trọng trong cộng đoàn khi ngày càng có thêm thành viên, và ngày càng có thêm sứ vụ mới. Những quyết định liên quan đến việc phục vụ và những định chế trong cộng đoàn đặt cả bề trên và các tu sĩ trước thách đố chọn lựa.
Trong đời tu, thực hiện tuân phục không làm mất tự do cá nhân. Trái lại, thực hiện đúng hành vi tuân phục sẽ giúp tu sĩ lớn lên trong tự do đích thực và trong Thần Khí. Ngay cả khi tu sĩ thực hiện quyền và nghĩa vụ trong việc đưa ra quyết định theo trách nhiệm (công hội, tu viện hội), họ cũng không chối từ tính trách nhiệm của người lãnh đạo, nhưng là thể hiện trách nhiệm với cộng đoàn. Việc cá nhân lớn lên trong bước đường làm môn đệ Đức Kitô là thước đo sự thành công của việc thực thi quyền bính và thực hành đức tuân phục.
Quyền bính và tuân phục được thực hiện trong cộng đoàn. Chính cộng đoàn là nơi phân biện thánh ý Thiên Chúa, và khám phá ra sự chỉ dẫn của Thần Khí, Đấng khiến bất kỳ hoàn cảnh cụ thể nào đều là cơ hội để tu sĩ thể hiện lòng trung tín hơn nữa. Cộng đoàn cầu nguyện, lắng nghe Lời Chúa, suy xét và chọn lựa quyết định theo điều thiện, … đó là môi trường tốt để biện phân Thánh Ý. Tuy nhiên, cần phân biệt trường hợp cộng đoàn biện phân Thánh Ý và kiểu dân chủ phe nhóm. Đa số ý kiến được thể hiện trong cộng đoàn (qua công hội, tu viện hội, tổng hội) trong tinh thần biện phân, cầu nguyện, trong niềm tin và tín thác vào Chúa Quan Phòng, là cách thể hiện ý chung trong một quyết định mà tự bản chất là đúng đắn. Cha Martinez nhận định: Thực tế cho thấy, đôi khi những thành viên nhiệt thành, kể cả từng tu sĩ lẫn bề trên, phải công nhận rằng có khi đã dốc hết mọi phương cách để thuyết phục, thì họ không thể làm gì hơn nữa, vì không thể dựa trên những luật lệ, quy tắc để điều chỉnh những sai trái, hoặc những tính bất toàn của tu sĩ. Nếu căng qúa thì chỉ làm cho càng thêm căng thẳng mà thôi, dù biết rằng người tu sĩ đó đang có hành vi sai trái nào đó sẽ gặp những khó khăn, thử thách trong đời tu (chẳng hạn như bất an, cảm thấy cô đơn, cảm thấy đời tu mất ý nghĩa, khi họ chỉ muốn chạy theo những công việc, hành xử theo cách rất đời của họ) (F. D. Martinez, tr.267).
g. Tuân phục và hy tế
Khi xét tuân phục trong chiều kích thánh hiến, chúng ta muốn xét trong ý nghĩa của đời tu trì: người tu sĩ thánh hiến toàn bộ cuộc đời để phục vụ Thiên Chúa và tha nhân. Cũng có thể xét theo khía cạnh thờ phượng, lời khấn này nói lên hy lễ cuộc đời của người tu sĩ, như một hy lễ dâng trọn vẹn lên Chúa, và không dành lại cho mình một điều gì cả.
Trong hy lễ đền tội mà Đức Giêsu đã dâng lên Thiên Chúa Cha, sự tuân phục của Người là một lễ hy sinh cao độ. Xét theo chiều kích tư tế, lễ vật dâng lên Chúa được gọi là của thánh. Sự thánh thiêng được tập trung trong cuộc đời Đức Giêsu: hy lễ toàn thiêu, hy lễ đền tội Người đã dâng lên Thiên Chúa trên thập giá. Chính hy lễ này được thực hiện trong tuân phục và yêu thương. Người vừa là tư tế, vừa là bàn thờ, vừa là của lễ. Hy lễ Người dâng một lần là đủ. Đây cũng chính là tuân phục và phụng tự đích thực của những ai theo Đức Giêsu.
Việc thánh hiến diễn ra nhờ việc chu toàn trung tín dự phóng cuộc đời mà chúng ta tuyên khấn vào một thời điểm nhất định (F. D. Martinez, tr.273). Hy lễ đẹp lòng Chúa là tấm lòng nhân từ (Mt 12,6-7; Hs 6,6). Hành vi thánh thiêng đích thực chính là dâng đời mình để phục vụ Chúa và tha nhân. Đức Giêsu và các môn đệ đã thực hiện được điều đó, và cuối cuộc đời tại thế, Người đã dâng hy lễ lên Chúa Cha qua hành vi tuân phục và yêu mến.
Như vậy, xét theo lối nhìn về hồng ân, đời thánh hiến không chỉ dừng lại ở nghi thức khấn, mà là cả cuộc đời người tu sĩ. Hoạt động phụng tự thường ngày của tu sĩ nói lên nhiệm vụ của đời thánh hiến, nhưng hơn cả nhiệm vụ nữa, đó chính là cuộc đời của những kẻ đi theo Đức Giêsu. Từ đó, việc thánh hiến cho Thiên Chúa cuộc đời mình là cho sứ vụ. Đức vâng phục không thể được coi là nằm bên lề sứ vụ, nhưng phải thể hiện cụ thể giá trị của lời khấn trong sứ vụ mình thực hiện.
Tuân phục, xét như phục tùng Thiên Chúa, không chỉ dành riêng cho đời tu, mà còn cho mọi người. Nhưng trong đời tu, từ bỏ mọi sự để đi theo Chúa, vác thập giá mình mà theo Người, là muốn hoạ lại trong đời mình con đường thập giá. Cấp độ vâng phục bắt đầu từ vâng phục Thiên Chúa, tuân phục là tiến bước trong đức tin, trong sự trung tín trên con đường Chúa đi, theo mệnh lệnh Chúa truyền làm việc thiện. Từ bỏ không phải là mục tiêu cuối cùng của tuân phục, nhưng là điều kiện để đi theo Chúa. Câu chuyện chàng thanh niên giàu có trong Tin Mừng là một điển hình (Mt 19,16-22). Từ bỏ trong đời tu bao gồm sự từ bỏ như các môn đệ của Chúa: từ bỏ sở hữu, nghề nghiệp, gia đình (Mt 4,22). Kế đó là tuân phục Hiến Pháp, Luật lệ Dòng; cụ thể hơn, đó là tuân phục bề trên hợp pháp trong chân lý và điều thiện hảo. Người tu sĩ, khi tuân phục theo gương Đức Giêsu, không chỉ thu gọn vào việc chu toàn những lệnh truyền bên ngoài, nhưng còn nhắm đến sự tự do cao hơn (F. D. Martinez, tr.281).
Đức Giêsu muốn làm sáng tỏ tuyệt đối thánh ý của Thiên Chúa: Những quy định, luật lệ do con người đặt ra phải thể hiện luật lệ của Thiên Chúa. Từ đó, chúng ta thấy rằng hành vi và cách sống của Đức Giêsu phản chiếu thái độ tuân phục Thánh Ý, dẫn đến hành vi tế tự cao cả nhất, đó là tự hiến trên Thập Giá để chu toàn Thánh Ý Chúa Cha, qua sứ vụ cứu độ. Thư gửi tín hữu Hípri cho thấy chiều kích sâu sắc của bài học vâng phục nơi Đức Giêsu:
Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giêsu đã lớn tiếng kên van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết. Người đã được nhậm lời, vì có lòng tôn kính. Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục, và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người, vì Người đã được Thiên Chúa tôn xưng là Thượng Tế theo phẩm trật Menkixêđê. (Dt 5,7-10).
Tác giả thư Hípri trình bày Đức Giêsu là mẫu gương đích thực của đức tin, lòng trung thành và đức tuân phục. Và sự tuân phục này được hoàn tất trong chính hy lễ hiến dâng chính mạng sống Người.
Trở lại với vấn đề vâng phục và hy lễ, chúng ta cũng biết điều này đụng đến tự do của con người. Dùng tự do Chúa ban để tự đứng vững và thăng tiến trên đường nhân đức là điều quan trọng của hành trình người môn đệ Đức Kitô. Nhưng tính ích kỷ, tự ái, … là những khuynh hướng của con người đối lại với cách sống của “con người mới” trong Đức Kitô. Cảm nghiệm gánh nặng xác thịt, khuynh hướng khép kín nơi bản thân, lợi ích riêng,… là chuyện con người. Thường những tính xấu này là vô thức, hoặc ẩn dấu dưới dạng biện minh, hoặc nhân danh công lý, nhân danh những điều thiện, vvv để hành xử. Tuân phục sẽ giúp người tu sĩ biết mở ra với Lời Chúa, trở nên “ngoan ngoãn” trước sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Việc biện phân ý Chúa có thể thực hiện qua vị linh hướng.
Hướng tới sự hoàn thiện của đời thánh hiến, đức vâng phục giúp chúng ta theo Đức Giêsu ngày một sát hơn. Sự lớn mạnh của một nhân đức hệ tại việc người tu sĩ dám từ bỏ vì lòng mến để đi theo Chúa. Đức vâng phục được xem là nhân đức cao nhất, vì nó liên quan mật thiết đến lòng mến.
2. Khó nghèo và giàu sang vì Nước Trời
a. Từ bỏ để thanh thoát đi theo Đức Giêsu (Mt 19,16-26)
Khó nghèo luôn là một thành tố chủ yếu trong đời tu. Nếp sống nghèo khó trong đời tu hoạ lại nếp sống của các Tông Đồ (Vita apostolica). Thực hành khó nghèo là tinh thần chính yếu trong việc loan báo Tin Mừng: Đức khó nghèo trong đời tu là bằng chứng sống động trong lời giảng về Đức Giêsu như một người nghèo khó. Như chúng ta sẽ nói đến sau này, đức khó nghèo không phải thuần tuý nhắm đến mục tiêu luân lý là làm gương sáng; nhưng tiên vàn mang tính thần học về nếp sống của các Tông Đồ: loan báo Tin Mừng bằng chính cuộc sống của người tu sĩ. Khó nghèo tinh thần phải là kết quả của việc cảm nghiệm Thiên Chúa và mở ra con đường hướng tới cảm nghiệm về tình thương của Người. Đức Giêsu, người nghèo của Đức Chúa, đã chọn con đường khiêm hạ và khó nghèo: sinh ra nơi máng cỏ bò lừa, ẩn dật ở Nazaréth, và cuối cùng là cái chết trên thập giá.
Con đường theo Đức Kitô làm môn đệ của Người dẫn người tu sĩ đạt dần đến cấp độ cao, giúp họ thoát ra khỏi những hạn chế của bản thân, khỏi những ràng buộc của qúa khứ và truyền thống, những định chế, quan tâm, dự phóng của cá nhân, những an toàn định chế (nghề nghiệp, gia đình, dự trữ, vvv), và ngay cả những quan tâm và dự phóng của bản thân, để đạt đến tinh tần từ bỏ như Đức Giêsu, Đấng đã tự hạ (kenosis) đến nỗi bằng lòng hy sinh cho chương trình của Chúa Cha được thực hiện. Vì vậy, việc giữ Ba Lời Khuyên Tin Mừng liên quan đến đức tin hơn là chỉ nhấn mạnh vào việc từ bỏ.
b. Dấu chỉ của người môn đệ Đức Kitô (dấu chỉ mâu thuẫn)
Đời tu là một dấu chỉ về Nước Trời đang hiện diện; nó diễn tả căn tính của người môn đệ Đức Kitô. Trong xã hội văn minh, hiện đại, dấu chỉ này càng trở nên khẩn thiết hơn bao giờ hết. Vào đầu thời Trung Cổ, Giáo Hội được nhìn là giàu sang bởi những cơ ngơi của mình. Nhưng tự bản chất, Giáo Hội vẫn luôn muốn thi hành sứ vụ bên cạnh những người nghèo, nghèo vật chất lẫn nghèo tinh thần. Vấn đề nghèo khó ảnh hưởng đến mọi khía cạnh của đời tu: con người, công việc, đời sống cộng đoàn, sứ vụ, nếp sống, việc quản trị, vvv. Chắc chắn không ai trong chúng ta tránh được những câu hỏi nhức nhối liên quan đến vấn đề này. Nhưng đâu là điều giúp chúng ta định hướng công việc, hành vi, đời sống của mình xét như môn đệ Đức Kitô? Điều đầu tiên cần nhấn mạnh: dấu chỉ Tin Mừng về sự nghèo khó vẫn luôn cần thiết, nhất là trong một thời đại mà xã hội văn minh hiện đại phát triển tính theo ngày, theo tháng. Mọi canh tân trong Giáo Hội đều khởi sự bằng việc kêu gọi trở về với đức khó nghèo Tin Mừng. Cuộc canh tân Thời Trung Cổ với hai Dòng Hành Khất là điển hình cho dòng chảy suy tư và canh tân về nguồn này. Khái niệm khó nghèo trong Cựu Ước nói đến nghĩa tiêu cực: là sự bất hạnh (trái với giàu có, con đông là ân lộc Chúa ban). Nhưng với Đức Kitô, tinh thần khó nghèo là điều kiện để người môn đệ có thể đi theo Thầy cách triệt để, cống hiến trọn vẹn cho sứ vụ loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa.
c. Môn đệ và sự từ bỏ (locus incertus: một nơi ở bất định)
Từ bỏ vật chất để theo Chúa không phải là cùng đích của đời tu, nhưng là điều kiện để theo Chúa. Người môn đệ đặt hết tin tưởng và phó thác sự an toàn của mình nơi Thiên Chúa. Hoa trái của việc từ bỏ thực sự giúp người tu sĩ đụng chạm đến ý nghĩa của sự từ bỏ theo Tin Mừng: Ý thức được sứ vụ mình phải đảm nhận, và học biết cảm nhận về Đức Kitô, cũng như khám phá ra giá trị của Nước Trời trong nếp sống tu trì; như lời Đức Giêsu nói với anh nhà giàu về những gì anh cần phải làm: Theo Chúa để được sự sống vĩnh cửu trong Nước Trời. Nói cách khác, tinh thần khó nghèo qua lời khấn có liên quan đến ơn cứu độ: Khó nghèo để trở nên tự do đi theo Thầy Giêsu, để được sự sống đời đời.
d. Khó nghèo và giàu sang vì Nước Trời
Lời khấn khó nghèo trong đời tu liên quan đến hai yếu tố tìm thấy trong Tin Mừng: Tin tưởng vào sự Quan Phòng của Thiên Chúa và tránh thờ ngẫu tượng là tiền tài danh vọng. Khi biết từ bỏ sự an toàn vật chất qua lời khấn khó nghèo, người tu sĩ trở nên thanh thoát cho việc đi theo Chúa. Trong thực tế, ngoài giá trị của từ bỏ để thanh thoát theo Chúa, lời khấn này còn hướng người tu sĩ đến tha nhân, theo trật tự của Đức Ái (Đức Ái cận thân): Cộng đoàn, anh em trong cộng đoàn, gia đình người thân, người nghèo.
Tương quan với cộng đoàn: Thái độ tin tưởng này cần phải được các cộng đoàn tu trì lưu tâm để ý, nhất là những ai giữ việc quản trị và quản lý tài sản chung. Trước hết, một khi tu sĩ tín thác cho Chúa tương lai của mình, thì một cách gián tiếp, họ tín thác cuộc đời trong Hội Dòng. Do vậy, cộng đoàn có bổn phận lo cho thành viên của mình cách đầy đủ nhất có thể: cả về vật chất lẫn tinh thần. Nếu cộng đoàn chu cấp đủ cho thành viên của mình những nhu cầu cần thiết, theo khả năng thực tế của cộng đoàn, thì các thành viên sẽ tránh được những cám dỗ khác liên quan đến vật chất. Nếu so với việc thực hành nhân đức, sống khó nghèo không xa với tinh thần khiêm nhường. Điều này giúp tu sĩ tránh sở hữu tài sản, và cả những ước muốn tài sản một cách hợp pháp nữa (phải xét trong từng bối cảnh). Từ bỏ sở hữu những vật dụng được coi là “xa sỉ” trong đời sống thường ngày là điều không thể thiếu để thực hiện tinh thần chung, đồng thời cũng giúp người tu sĩ loại trừ tận căn những tật xấu có liên quan. Trong truyền thống tu trì cổ kính, từ khi khấn trọn, người tu sĩ không còn dùng đến “quyền sở hữu”. Mọi sự được phép sử dụng (quyền sử dụng, ad usum) là để phục vụ cho công việc và sứ vụ. (ở đây phát sinh vấn đề lương tâm liên quan đến tài sản chung, chẳng hạn như: liệu tu sĩ có quyền tự tiện mang đồ dư của cộng đoàn phân phát cho người nghèo một cách tuỳ tiện hay không?)
Tuy nhiên, về phía cá nhân trong cộng đoàn, họ cũng ý thức về giá trị tinh thần của lời khấn này. Cả cộng đoàn và cá nhân đều cùng chung nỗ lực sống tinh thần khó nghèo trong đời tu. Các thánh nhân đã sống và sống cách triệt để tinh thần này. Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu sống tinh thần từ bỏ, không chỉ là hài lòng với việc chấp nhận thiếu những vật chất mình thích có, mà còn dám chấp nhận thiếu điều gì mà có thể là cần thiết cho cuộc sống thường ngày. Chị thánh không chỉ hài lòng với việc tặng cho người khác điều họ xin, mà còn đi trước cả những ước mong của họ nữa, cụ thể là nếu ai đó muốn xin cả vật dụng mà thánh nữ đang cần dùng, ngài cũng vui lòng cho luôn. (x. Nhật ký một tâm hồn, ch. 7 và 9).
Trong Huấn Thị “Xuất Phát Lại từ Đức Kitô”, Thánh Bộ về Đời Sống Thánh Hiến và Tu Đoàn Tông Đồ nhắc lại rằng: Những người thánh hiến có thể và phải xuất phát lại từ Đức Ki-tô bởi vì chính Người đã đến với họ trước và đồng hành với họ trên đường (x. Lc 24,13-22). Cuộc sống của họ là lời loan báo chỗ đứng ưu việt của ân sủng. Không có Đức Ki-tô, họ không thể làm được gì (x. Ga 15,5); trong Người là Đấng ban sức mạnh, họ có thể làm mọi sự (x. Pl 4,13).
Xuất phát lại từ Đức Ki-tô có nghĩa là loan báo rằng đời sống thánh hiến là một cách đặc biệt đi theo Đức Ki-tô, “một ký ức sống động về lối sống và hành động của Đức Giê-su, Ngôi Lời nhập thể trong tương quan với Chúa Cha và với anh em Người”. Điều đó bao hàm một sự hiệp thông tình yêu đặc biệt với Đức Ki-tô, Đấng đã trở nên trung tâm của đời sống họ và nguồn mạch liên tục của mọi sáng kiến. Như tông huấn Đời sống thánh hiến nhắc nhở chúng ta, đó là một kinh nghiệm chia sẻ, “một ơn đặc biệt là sống trong tình thân thiết”. Đó là “trở nên một với Người, mang cùng những tâm tình, cùng một lối sống”, và đó là một cuộc sống “bị Đức Ki-tô chiếm hữu”, “được bàn tay Đức Ki-tô chạm đến, được tiếng nói của Người nhắn nhủ, được ân sủng của Người nâng đỡ”. (Nhật ký một tâm hồn, số 21-22).
Toàn thể đời sống thánh hiến chỉ có thể hiểu được từ khởi điểm này: Các lời khuyên phúc âm có một ý nghĩa trong mức độ chúng giúp gìn giữ và tạo thuận lợi cho tình yêu đối với Chúa trong sự ngoan ngoãn hoàn toàn đối với thánh ý Người. Xuất phát lại từ Đức Ki-tô có nghĩa tìm lại một lần nữa tình yêu ban đầu của ta, tia sáng lôi cuốn làm ta đứng lên đi theo Người. Bước đầu là tình yêu của Thiên Chúa; bước kế tiếp mới là sự đáp trả đầy lòng yêu mến đối với tình yêu Thiên Chúa. Nếu “chúng ta yêu mến” đó là vì “Người đã yêu chúng ta trước” (1Ga 4,10.19). Điều đó có nghĩa là nhìn nhận Người yêu ta với cái ý thức sâu đậm đã làm cho thánh Phao-lô thốt lên: “Đức Ki-tô đã yêu tôi và đã hiến mạng sống cho tôi.” (Gl 2,20). (x. Nhật ký một tâm hồn, số 22).
Chỉ khi ý thức mình được Thiên Chúa yêu thương vô cùng mới có thể giúp chúng ta vượt thắng mọi khó khăn riêng tư hay do cơ cấu. Người thánh hiến không thể có tính sáng tạo, có khả năng canh tân tu hội và mở ra những con đường mục vụ mới nếu họ không cảm thấy được yêu mến với tình yêu ấy. Chính tình yêu ấy làm cho họ trở nên mạnh mẽ, có thể dám làm mọi sự. Các lời khấn mà ta đã tuyên hứa để sống các lời khuyên phúc âm đem lại cho lời đáp trả tình yêu tất cả tính triệt để của nó. Lời khấn nghèo khó giải thoát ta khỏi nô lệ các sự vật và các nhu cầu giả tạo đang lôi cuốn xã hội tiêu dùng và dẫn ta đến việc tái khám phá Đức Ki-tô, kho tàng duy nhất đáng để ta tìm kiếm.[5] Tuy nhiên, ngay cả trong việc luyện nhân đức, cũng luôn lưu tâm đến đức Ái (đặc biệt quan tâm đến tu sĩ bệnh và cao niên).
Liên đới huynh đệ: Một khía cạnh khác cần được lưu ý trong cộng đoàn: tình liên đới, chia sẻ huynh đệ. Những biến chứng có thể có trong cộng đoàn là hiện tượng cái tôi, quy ngã. Tích lũy của cải cho cá nhân, chia rẽ, xung đột có thể thấy trong các gia đình, bởi vật chất gây ảnh hưởng; nhưng trong đời tu, cần phải tránh hết sức những thái độ hoặc khuynh hướng xấu đó.
Với tha nhân: Vấn đề còn lại cần bàn ở đây liên quan đến vật chất là chuyện chia sẻ của cải cho người nghèo. Cơ bản là cộng đoàn nghèo của Tin Mừng. Người nghèo thì đáng thương trước nhan Thiên Chúa. Ở một góc độ nào đó, sự liên đới và chia sẻ của cải liên quan đến ơn cứu độ. Dĩ nhiên là người ta không thể dùng tiền của để mua ơn cứu độ, nhưng việc chia sẻ liên đới giúp con người mở ra với tha nhân: Giakêu là một điển hình; ông tìm lại được sự công chính, mở ra với tha nhân, và Chúa Giêsu nói cho ông biết nhà ông được ơn cứu độ.
Tinh thần Tin Mừng cho thấy Đức Giêsu chọn nghèo khó bởi “lương thực nuôi sống Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai thầy, và hoàn tất công việc của Người.” (Ga 4,34). Nước Trời luôn là trọng tâm, và người nghèo luôn là đối tượng của Nước Trời. Hơn nữa, tín thác vào sự Quan Phòng của Thiên Chúa mời gọi tu sĩ dấn thân vào trong đời sống thiêng liêng, điều này giúp chúng ta vượt qua những hình thức qúa lo lắng về vật chất.
3. Khiết tịnh và tự do vì Nước Trời
Nói về lời khấn khiết tịnh, quả là vấn đề. Một cha cao niên, rất giàu kinh nghiệm đào tạo, đã chia sẻ thế này: Khi dạy giáo lý cho trẻ em, người ta thường lật nhanh những trang nói về Điều Răn Thứ Sáu. Quan niệm này ngày nay đã lỗi thời, vì cách hiểu về lời khấn khiết tịnh tìm được chỗ đứng trong đời tu, và chỗ đứng rất quan trọng, bởi điều này liên quan đến tình cảm và bản tính của con người nói chung. Trong ánh sáng Tin Mừng, người ta nhìn vấn đề này không chỉ là những chuyện “cấm kỵ”, nhưng còn hướng đến giá trị của sự thanh tịnh tâm hồn người môn đệ Đức Kitô. Trong chiều kích Giáo Hội Học, người ta tìm thấy giá trị thánh thiêng mà Giáo Hội ấp ủ và kêu gọi con cái sống: Nên thánh như Thủ Lãnh của Giáo Hội là Đức Kitô, Đấng Chí Thánh.
Trong Tin Mừng, trình thuật về những cơn cám dỗ mà Đức Giêsu đã phải đối diện không nói đến cơn cám dỗ này. Đoạn Tin Mừng Mt 4, 1-11 cho thấy những cám dỗ cản trở đường hoạt động sứ vụ của Đức Kitô là: sở hữu, vinh quang, quyền lực; mà không thấy nói về khoái lạc. Trên bước đường đi theo Chúa, các môn đệ được mời gọi từ bỏ mọi sự, trong đó có gia đình. Mục tiêu của từ bỏ là để đi theo Chúa cách triệt để hơn. Nếu xét theo cái nhìn về tội, thì những khuynh hướng về tình yêu đôi lứa, tình cảm và gia đình không phát xuất từ Tội Nguyên Tổ, bởi tội này có gốc rễ từ sự không tuân phục Thiên Chúa. Vậy đâu là ý nghĩa của lời khấn khiết tịnh?
Xét ra, nếu nói đến lời khấn này, chúng ta thấy liên quan đến hai chữ yêu thương. Chúng ta có khuân mẫu yêu thương tuyệt vời nhất là Đức Kitô, Đấng đã yêu thương Hội Thánh và hiến mình vì Hội Thánh.
a. Đức Kitô đã yêu thương cho đến cùng (Ga 13,1)
Trong Tin Mừng, Đức Giêsu cho các môn đệ biết giá trị của tình yêu thương. Dĩ nhiên là việc thảo kính cha mẹ, yêu thương đồng loại là điều cao trọng trong giới luật yêu thương. Nhưng Đức Giêsu cũng cho các môn đệ biết trật tự của yêu thương: “Ai yêu thương cha mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy; ai yêu con trai, con gái hơn Thầy, thì không xứng với Thầy; ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy” (Mt 10,37-38). Điểm nhấn mạnh ở đây hệ tại việc thanh thoát để đi theo Chúa. Những giá trị, an toàn về tình cảm và định chế của đơn vị gia đình và những trung thành với gia đình (vốn dĩ là quý) có thể làm giảm bớt tự do trong việc làm môn đệ Đức Kitô. Tin Mừng cho thấy Đức Giêsu vẫn có những mối tương giao với nhiều người: Mẹ, anh em, các môn đệ, người thân. Thái độ của Người không làm “xơ cứng” những tương quan này; nhưng trái lại, Người mở ra mối tương quan mới, cao thượng hơn: Vì Nước Trời.
Độc thân vì Nước Trời là một đặc ân. Đời sống này có nguồn gốc từ cảm nghiệm về tình yêu Chúa, một cảm nghiệm thần học mà mỗi người có ơn gọi tu trì được mời gọi đào sâu và tiến bước theo Chúa. Đức Giêsu đã yêu mến Thiên Chúa Cha đến độ thực hiện hành vi vâng phục tột đỉnh là chịu chết trên thập tự. Tình yêu đó dành cho Thiên Chúa và cho con người mạnh mẽ đến độ không còn điều gì ngăn cản được nhiệt thành của Người cho sứ vụ cứu độ.
b. Lời mời gọi làm môn đệ
Sống thanh sạch, một khái niệm có tính luân lý mang phạm vi rộng hơn khái niệm khiết tịnh, không chỉ dành cho đời tu, mà cho mọi Kitô hữu, dù sống trong bất kỳ bậc sống nào. Riêng trong đời tu, đức khiết tịnh có một chỗ quan trọng. Thời đầu của Giáo Hội, bậc sống của các trinh nữ được đặt ngang hàng với tử đạo: đó là con đường khó để đi theo Chúa Giêsu. Sau các cuộc bách đạo, bậc sống này được ca ngợi như bằng chứng cao cả cho tình yêu Thiên Chúa. Đây là một dạng khổ chế chuyên biệt thời đầu lịch sử đời tu.
Nếu nhìn lời khấn này theo quan niệm sạch/dơ, người ta thường nhấn mạnh về chiều kích thanh sạch, đối lại với khái niệm dơ bẩn. Và điều thanh sạch đang nói đến đó là sự thánh thiêng trong việc tế tự. Sự thánh thiêng đến từ Thiên Chúa. Theo hướng này, những người thánh hiến coi nhân đức này là giá trị nhất, và nếu đi ngược lại với nó, chẳng hạn như tâm hồn, lời nói, hoặc hành động không thanh tịnh, là đáng ghê sợ. Những trường hợp vi phạm thường gây cho đương sự bối rối, đau khổ (F. D. Martinez, tr. 220). Thường thì khuynh hướng này đề nghị cho các huấn sinh những phương pháp ngăn ngừa, những hình thức tự kỷ luật, cấm đoán để bảo vệ nhân đức này. Theo cách nhìn này, người ta thấy được ưu điểm là phòng ngừa được những nguy cơ có thể xảy đến, giúp tu sĩ ý thức thân phận mỏng dòn của của con người, với bản tính nhân loại yếu đuối vì tội lỗi; nhưng cách này chưa diễn tả hết yếu tố quan trọng của đời tu: tình yêu mến và lòng tự nguyện đi theo Đức Giêsu.
Để bổ túc cho khuynh hướng nói trên, có một cách nhìn theo chiều kích hồng ân. Đời tu là đi theo Chúa. Người môn đệ của Đức Kitô được mời gọi đi theo đường hẹp, tuy khó khăn (và có vẻ là khác thường), nhưng nhờ hồng ân Chúa trợ giúp mà người tu sĩ cố gắng trung thành trong đời tu trì. Đời sống khiết tịnh là một dấu chỉ về hồng ân Thiên Chúa ban, và là một dấu chỉ cánh chung về Nước Trời đang hiện diện.
Như vậy, hai đặc điểm của lời khấn khiết tịnh theo Tin Mừng: vì Nước Trời và là hồng ân. Nếu quên đặc điểm này, con người có nguy cơ quên đi mục đích của hành vi tự hiến tế trong đời tu, dễ dàng ỉ vào sức mình, tự loay hoay với khả năng chống chọi của mình, và nếu thất bại, sẽ rơi vào thất vọng.
c. Thanh thoát để đi theo Chúa
Đời tu tận hiến cho Chúa, cả thể xác lẫn tinh thần là nhắm đến việc loan báo Tin Mừng, như các môn đệ của Đức Giêsu. Việc tận hiến này vượt qúa sức con người, nên phải nhìn theo hướng ân ban của Thiên Chúa: Chúa chọn và Chúa giữ gìn. Khi tuyên khấn hoặc tuyên hứa trong lời khấn hoặc trong tác vụ (phó tế, linh mục, giám mục), thụ nhân luôn ý thức một điều: Nhờ ơn Chúa giúp, con xin hứa.
Do đó, khi dấn thân cho sứ vụ vì tình yêu, người tu sĩ không thể hờ hững với những người họ gặp, nhưng sẵn sàng đồng cảm và làm chứng về tình thương của Thiên Chúa dành cho con người. Sống cuộc đời thanh khiết, vui tươi, bằng tình huynh đệ, bằng sự trung tín sẽ là dấu chỉ của tình thương Thiên Chúa giữa lòng đời. Đích điểm của lời khấn này hệ tại việc giúp tu sĩ trở nên thanh thoát cho Nước Trời. Tình cảm gia đình, ngay cả tình yêu đôi lứa, luôn hàm chứa ít nhiều sự sở hữu hoặc riêng tư (một góc vườn riêng, nói theo kiểu thời nay, ngay cả trong đời sống gia đình).
Đời tu, một khi đi theo Chúa với trọn tâm hồn và thể xác, sẽ giúp tu sĩ thoát ra khỏi những “chấp hữu” đó, để toàn vẹn cuộc đời cho Chúa và cho sứ vụ. Tuy nhiên, cầu lưu ý đến khía cạnh quân bình của tình cảm, cũng như nét quân bình trong tương giao với tha nhân: đồng cảm với tha nhân để hiểu thân phận con người, để cảm thông với con người, nhưng vẫn phải giữ một khoảng cách nhất định bởi tính cấp bách và đòi hỏi của Tin Mừng. Về điều này, kỷ luật đời tu và các định chế trong nếp sống này có thể cho chúng ta hiểu rõ hơn về nếp sống: ở giữa thế gian, nhưng không thuộc về thế gian.
d. Cộng đoàn và đời sống thanh khiết
Nếu như xưa kia người ta nói đến chiều kích khổ chế và kỷ luật của lời khấn này là để thánh hoá bản thân, thì ngày nay người ta trình bày nó theo chiều kích cộng đoàn và sứ vụ. Đức Ái là điều mà ba lời khấn nhắm đến, thì với lời khấn khiết tịnh, Đức Ái càng đóng vai trò quan trọng, đặc biệt là trong cộng đoàn. Một cộng đoàn quy tụ những thành viên đến từ những gia đình khác nhau, sẽ có tính cách, tập tục, thói quen, … khác nhau. Nhưng những điểm khác biệt của từng cá nhân, vốn được coi là nét phong phú đa dạng cho cộng đoàn, có thể trở nên quà tặng cho cộng đoàn, và làm cộng đoàn nên phong phú. Cộng đoàn là môi trường để người tu sĩ thực hiện đức ái cụ thể nhất. Niềm vui, phong cách sống tốt của một cộng đoàn, vvv sẽ giúp tu sĩ coi tu viện là nhà, và cộng đoàn là gia đình của mình. Và ngược lại, những thành viên sống tốt trong cộng đoàn sẽ giúp cộng đoàn có được nét vui tươi, bình an, vvv. Những cơn khủng hoảng về ý nghĩa đời tu thường là nguyên cớ cho tu sĩ muốn đi tìm một hướng khác cho đời mình. Việc lơ là giữ kỷ luật đời tu dễ làm tu sĩ quên đi việc bổn phận và căn tính của mình. Nội vi, thời khắc trong ngày, các giờ Kinh Thần Vụ, là những yếu tố giúp tu sĩ sống chia sẻ được với nhau đời sống cộng đoàn, thì cũng là nơi giúp họ sống tích cực nhất đời sống thánh hiến.
Kỷ luật, khổ chế, giá trị luân lý vốn có giá trị trong đời sống tu trì. Nhưng tu sĩ cần hiểu rằng không có kỷ luật tu trì nào đủ sức biến việc giữ luật thành một cảm nghiệm Tin Mừng, nếu không hướng con người có thái độ tích cực và tự nguyện tuân giữ nếp sống tu trì. Nó có thể giúp tránh nguy hiểm, nhưng không đủ sức để thăng tiến tinh thần của đức khiết tịnh trong đức mến. Cộng đoàn tu trì kinh điển tìm mọi cách để bảo vệ đời sống độc thân của các thành viên, thường thì cách này được xem là cần thiết, hơn là nói về tính nhân đức: chuyện khắt khe về nội vi, về những mối quan hệ với trần gian, hạn chế qúa đáng những mối quan hệ bạn bè. Những điều này không phải là không có ý nghĩa. Nhưng những cảm nghiệm cộng đoàn với lối sống giản đơn, nhân bản hơn, tế nhị hơn sẽ giúp tu sĩ mở rộng tầm nhìn với thế giới bên ngoài, để hiểu thế giới, nhưng không bị những ảnh hưởng xấu tác động. Cộng đoàn kiểu mới này yêu sách hơn về ý thức tự do, trưởng thành, đòi phải có một nền đào tạo cứng cáp và chuyên biệt.
Cảm nghiệm thần học trong lời khấn này đòi hỏi một sự khiêm tốn thẳm sâu và một lương tâm trong sáng, luôn cảnh giác về những yếu đuối của mình. Óc thực tiễn và sáng suốt là cần để vượt qua những cơn khủng hoảng tình cảm. Để củng cố sự trung kiên trong đời tu, ngoài ơn Chúa ban, tu sĩ cần duy trì đời sống cầu nguyện liên lỉ, tăng thêm tình bạn và tình huynh đệ trong cộng đoàn, biết lắng nghe và có khả năng tha thứ. Trưởng thành nhân bản và tình cảm cũng là điều cần lưu ý, để tu sĩ tự rèn luyện con người mình trong hành vi, lời nói, và chừng mực trong các mối tương giao; đồng thời cũng không loại trừ những phương thức giải trí lành mạnh, hầu giúp cho sự quân bình nơi bản thân người tu sĩ, từ thân xác đến tinh thần và nếp sống.
IV. CHỨNG TÁ CỦA NIỀM HY VỌNG
Trong những điểm mà Đức Thánh Cha Phanxicô mong đợi nơi các tu sĩ, thì niềm vui và hy vọng được nhấn mạnh cách đặc biệt. Cùng tinh thần của Tông Huấn Evangelii Gaudium, Đức Thánh Cha nói đến niềm vui nội tại, được tìm thấy và nuôi dưỡng trong đời tu.
Cả một nhân loại đang chờ đợi: những người đã mất hết hy vọng, những gia đình đang gặp khó khăn, những trẻ thơ bị bỏ rơi, các bạn trẻ gặp ngõ cụt trước tương lai, những người già lão bệnh tật bị loại trừ, những người giàu của cải nhưng trống rỗng trong lòng, những người đang tìm ý nghĩa cuộc đời, khao khát đời tâm linh... Anh chị em đừng khép lại trong chính mình, đừng để mình bị ngột ngạt với những chuyện lẩm cẩm trong nhà, đừng bị giam hãm trong những vấn đề nội bộ. Những vấn đề này sẽ được giải quyết nếu anh chị em đi ra ngoài để giúp những người khác giải quyết những vấn đề của họ và loan báo Tin mừng. Anh chị em sẽ tìm thấy sự sống khi ban phát sự sống, tìm thấy hy vọng khi ban phát hy vọng, tìm thấy tình thương bằng cách yêu thương. (NTH, II.4).
Lời mời gọi này thúc giục anh em chúng ta khơi nguồn Linh Đạo Đa Minh, kín múc từ Thánh Kinh niềm vui ngọt ngào của Lời Chúa, với niềm say mê Tin Mừng xưa đã đốt cháy tâm hồn Cha Thánh Đa Minh, khiến Cha Thánh đã không chỉ sống hết mình vì Tin Mừng, mà còn hết mình trong sứ vụ loan báo Lời Chúa cho tha nhân: Lời kết hiệp, Lời an ủi, Lời chữa lành, Lời yêu thương, Lời sự sống,…
Tỉnh Hội năm 2015 sắp tới sẽ diễn ra trong khung cảnh đặc biệt của Giáo Hội, của Dòng và Tỉnh Dòng. Trong Giáo Hội, chúng ta đang sống tinh thần của Năm Đời Sống Thánh Hiến; Trong Dòng, chúng ta đang hướng về năm kỷ niệm 800 năm Dòng được thành lập; trong Tỉnh Dòng, chúng ta đang hướng đến kỷ niệm 50 năm Tỉnh Dòng được thành lập. Những yếu tố chung và riêng này mời gọi mỗi anh em chúng ta suy nghĩ và đào sâu căn tính Đời Tu Đa Minh trong những môi trường chúng ta sống và phục vụ Lời Chúa, nơi mà, từ khi Dòng được thành lập, đã được gọi là biên cương của Giáo Hội, nơi Giáo Hội cần hiện diện để bảo vệ Đức Tin Công Giáo.
Bài viết về đời sống thánh hiến, mở đầu cho chương trình thảo luận và học hỏi trước Tỉnh Hội, mong được gửi đến anh em đôi dòng suy tư về hai chiều kích trong đời tu Đa Minh: Chiêm Niệm và Giảng Thuyết. Những suy tư này, chắc chắn còn nhiều giới hạn nơi bản thân người viết, không thể khai triển cô đọng những điểm cần thiết, dựa trên những định hướng trong Tông Thư về Năm Đời Sống Thánh Hiến mà Đức Thánh Cha Phanxicô vừa ban hành, để khai triển ba điểm ưu tiên: 1/ Đào sâu căn tính đời tu, 2/ Lòng say mê sống và loan báo Tin Mừng, và 3/ Sống chứng tá của niềm hy vọng.
Nhưng trước khi nói đến ba điểm nêu trên, thiết nghĩ cần lược qua một vài thách đố của một thực tại xung quanh, với những yếu tố khách quan và chủ quan ảnh hưởng ít nhiều đến nếp sống tu trì của anh em chúng ta. Những điểm được phân tích này, dựa trên bối cảnh của Tỉnh Dòng chúng ta hiện nay, có thể đụng chạm ít nhiều đến thực tại của Tỉnh Dòng, và có khi làm chúng ta thấy phải suy nghĩ nhiều; nhưng như lời Đức Thánh Cha Phanxicô, chúng ta nhìn lại lịch sử đến cảm tạ và tri ân, đồng thời cũng để ý thức cách thức mà tiền nhân đã sống đặc sủng Đa Minh, những bước đột phá, những khó khăn đã đương đầu và vượt qua:
Thuật lại lịch sử của mình là điều cần thiết để duy trì căn tính cũng như để siết chặt mối hợp nhất của gia đình và tăng thêm cho các phần tử ý thức mình thuộc về một nhà. Ðây không phải là chuyện khảo cổ hoặc luyến tiếc dĩ vãng, nhưng là đi lại con đường của các thế hệ qúa khứ để nắm bắt được tia sáng gợi hứng, những lý tưởng, những dự phóng, những giá trị đã thúc đẩy họ, bắt đầu từ các vị sáng lập và các cộng đoàn tiên khởi. Ðó cũng là một cách để ý thức được cách thức mà tiền nhân đã sống đặc sủng, những bước đột phá, những khó khăn đã đương đầu và vượt qua. Ta cũng có thể nhận ra những sự bất nhất do tính yếu đuối của con người, thậm chí kể cả có lúc quên mất những khía cạnh cốt yếu của đặc sủng. Tất cả các khía cạnh ấy đều là những bài học, và đồng thời kêu gọi hoán cải. Thuật lại lịch sử của mình là một cách để chúc tụng Thiên Chúa và tạ ơn vì những ân huệ mà Ngài đã ban. (NTH, I.1.)
I. BỐI CẢNH HIỆN TẠI VÀ NHỮNG THÁCH ĐỐ
A. Thuận lợi
Khi nói đến bối cảnh, chúng ta cũng nên nhắc đến những điểm được Đức Thánh Cha nhấn mạnh trong Tông Thư về Năm Đời Sống Thánh Hiến: Bối cảnh kỷ niệm 50 năm Hiến Chế Lumen Gentium (ch. VI về đời sống thánh hiến); tinh thần tu trì mà Sắc lệnh Perfectae Caritatis nói đến (về canh tân đời sống tu trì); đồng thời tiếp nối linh đạo đời tu mà Tông Huấn Vita Consecrata của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolo II đã khai triển. Những bản văn này cho chúng ta những định hướng quý giá về căn tính đời tu trì.
Từ đó, mục tiêu của Năm Đời Sống Thánh Hiến có thể tóm tắt trong ba ý tưởng: Căn Tính, Tin Mừng và sống niềm Hy Vọng. Tri ân qúa khứ để đào sâu căn tính và thắt chặt tình huynh đệ bởi mỗi thành viên ý thức mình sống cùng một nhà (x. NTH, I.1.); sống Tin Mừng trong hiện tại cách say mê để nói lên lòng say mê một tình yêu cho Tin Mừng và sống tình hiệp thông (x. NTH, I.2.); nhắm đến tương lai để vượt qua những khó khăn dưới mọi hình thức: vấn đề ơn gọi, ảnh hưởng của kinh tế trên đời sống tu trì, các chủ thuyết (tương đối hóa, …)
B. Thánh đố về tự do
Thực tế cho thấy, những biểu hiện trong nếp sống đời tu phản ánh phong cách sống của mỗi cộng đoàn tu trì. Và trong bối cảnh hiện nay, những thách đố vẫn còn đó. Đức Thánh Cha Phanxicô đã đề cập đến trong phần thứ ba của Tông Thư, về chủ nghĩa tương đối hóa, về khủng hoảng ơn gọi, về những ảnh hưởng của thế giới đối với đời tu của chúng ta... Trong phạm vi của Tỉnh Dòng, thiết nghĩ cần nói đến những khó khăn mà chúng ta đang thực sự quan tâm. Vấn đề tự do có lẽ là một trong những điều gây ảnh hưởng đến nếp sống của chúng ta.
Khi nói đến điều này, cha F. D. Martinez đã đặt vấn nạn: Liệu đời tu có là một nếp sống giúp con người giải thoát bằng sự tự do tự nguyện mà mỗi tu sĩ dám dấn thân đáp trả cách quảng đại lời mời gọi của Chúa? Hay đời tu lại là một dạng thức nô lệ, mất tự do? Cha Martinez nhận định: Thực tế cho thấy có ít là hai khuynh hướng liên quan đến vấn đề tự do trong đời tu. Khuynh hướng thứ nhất gắn với truyền thống cổ kính, chú trọng việc thực hành khổ chế và coi đó là nô lệ của Đức Kitô (tù nhân của Đức Kitô, theo cách nói của thánh Phaolô); kiểu mẫu này cho thấy những chiến thắng lớn lao trên đường nhân đức, ca ngợi sự tự do nội tâm bằng việc từ bỏ cao độ những gì cản bước tiến trên đường theo Chúa; nhưng kiểu mẫu này xem ra “qúa nệ cổ” dưới cái nhìn của người trẻ hiện nay, như một kiểu “xưa như trái đất”. Khuynh hướng khác chú trọng đến tự do cá nhân, đề cao giá trị nhân vị theo kiểu hiện đại (phải tôn trọng nhân vị của từng người, phải dành quyền cho một thứ tự do cá nhân, phải có quyền lên tiếng nói, phải đấu tranh cho một lý tưởng, và có thể nói, hễ ai đề cập đến chuyện hy sinh, hãm mình, từ bỏ, thì có thể bị quy kết ngay là lạc hậu); kiểu mẫu này có được những thành quả đáng kể là tôn trọng nhân phẩm hơn, để ý đến quyền tự do của từng cá thể, vvv, nhưng nó cũng để lại những dấu vết lệch lạc của chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa quy ngã. Vậy, kiểu mẫu nào phù hợp cho sự tự do đích thực của người tu sĩ ngày nay?[1]
Ý tưởng trong đoạn thư thánh Phaolô gửi giáo đoàn Galát cho thấy tinh thần của tự do Kitô giáo, một sự tự do vượt trên Luật Lệ (cho dù thánh Phaolô vẫn tôn trọng những gì là tinh tuý của Luật Lệ khi nói rằng bất cứ ai chịu phép cắt bì đều buộc phải giữ trọn vẹn Lề Luật, xc. Gl 5,3). Thánh nhân kêu gọi các tín hữu Galát biết vượt trên cả những quy định của luật lệ để đạt đến độ trưởng thành của Đức Mến (cách nói của thần học đời tu ngày nay gọi là đi trước luật, hoặc sống trên luật với sự tự do và trưởng thành nhân cách cao độ). Ngài nhấn mạnh đến sự công chính vốn đến từ Đức Kitô, nhờ Thần Khí và trong đức tin, chứ không phải nhờ sức riêng của con người. Để nhờ ơn thánh hoá, người Kitô hữu có được hoa trái của Thần Khí: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ (5,22).
Đời người Kitô hữu được xem là cuộc lữ hành, tuy có liên hệ với trần gian này, nhưng là cuộc lữ hành đức tin hướng về bến Bình An. Trên hành trình đó, người Kitô hữu có những hành trang căn bản, có những hành vi nhân linh luôn hướng về cứu cánh của đời mình. Thực vậy, “công trình tạo dựng của Thiên Chúa là toàn bộ lịch sử tình yêu giữa Thiên Chúa và thụ tạo của Ngài.” (Verbum Domini, số 9). Trong dòng lịch sử cứu độ, con người có một vị trí trung tâm: Được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa, được đặt vào trung tâm điểm của công trình tạo dựng. Đây là hồng ân cao quý mà Thiên Chúa ban cho con người, với những giá trị mà con người có được: lý trí, tự do, lương tâm. Tình yêu tạo dựng như một sự tràn đầy xuất phát tự cung lòng Ba Ngôi Thiên Chúa: Người tạo dựng vì tình yêu, và cứu chuộc con người cũng vì tình yêu. Thiên Chúa đã truyền thông cho con người tình yêu mà Người có, để họ thông phần vào tình yêu của Thiên Chúa.
1. Lý trí và tự do
Sáng kiến của Thiên Chúa trong công trình tạo dựng là sáng kiến của tình yêu. Ngay khi con người chưa phạm tội, tình yêu của Thiên Chúa đã thể hiện rõ ràng trong công trình Sáng Tạo của Người. Rồi đến khi con người trót phạm tội vì sử dụng tự do Chúa ban một cách không đúng, Thiên Chúa vẫn có sáng kiến để cứu chuộc con người qua nhiệm cục cứu độ đã được thực hiện cách viên mãn trong Đức Giêsu Kitô. Mầu Nhiệm Thập giá, nhìn dưới góc độ con người, là nỗi ô nhục đối với người Do Thái, là sự điên rồ đối với dân ngoại (1Cr 1,23); nhưng với Thiên Chúa, đây lại là cả một mầu nhiệm khôn dò khôn thấu của một tình yêu Người dành cho nhân loại, một sức mạnh quyền năng mà trí hiểu của con người không đạt thấu. Sự điên rồ đó được Đức Giêsu cho các môn đệ biết: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người thí mạng sống vì bạn hữu.”
Người tu sĩ được mời gọi chiêm ngắm mầu nhiệm này cách đặc biệt, để sống, cảm nhận và phục vụ tha nhân.
Đứng trước mặc khải và lời mời gọi sống ơn gọi của mình, con người sử dụng tự do trong quyết định và hành xử, như một lời khẳng định ý thức và sự tự nguyện của mình. Hành xử với tự do, điều này làm cho hành vi của con người mang tính luân lý. Nhưng sự tự do cần có định hướng, bởi tự do đó phải hướng con người đến chiều sâu của phẩm giá con người, và có khả năng đạt đến sự thánh thiêng trong ơn gọi làm người, là Kitô hữu và là tu sĩ. Trong đó, căn bản của tự do là ý thức về ân sủng của Thiên Chúa, hồng ân tự do là một món quà vô giá Thiên Chúa ban, điều này không do cá nhân thủ đắc được, mà là do ơn ban nhưng không của Thiên Chúa. Đời tu của chúng ta là một trải nghiệm về hoán cải và là tiến trình giải phóng, để sống tự do theo Tin Mừng.
2. Lương tâm và cùng đích
Mọi hữu thể con người có lương tâm và trách nhiệm đều cảm nhận từ nội tâm tiếng mời gọi làm điều tốt. Là thụ tạo, với tính ưu việt Thiên Chúa ban, con người có một ơn gọi cao quý là sống xứng với phẩm giá của mình. Luật định hướng cho hành vi nhân linh của con người chính là “luật tự nhiên” (tiếng Pháp: la Loi naturelle), được khắc ghi trong tâm khảm của từng người, nhắc họ làm điều tốt và tránh điều xấu. Hướng về cứu cánh của đời mình là sự thiện hảo nơi Thiên Chúa, con người định hướng hành vi và lẽ sống của mình.
Người Kitô hữu ý thức hơn nữa phẩm giá của mình, cũng như ơn ban nhưng không của Thiên Chúa trong cuộc đời mình, họ được mời gọi cách mãnh liệt sống theo tiếng mời gọi của Thiên Chúa: nên thánh. Sự thánh thiện này, phát xuất từ Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô, ghi dấu ơn gọi của người Kitô hữu; và cần phải tiến triển không ngừng trong đời sống đức tin. Đã là một điều thuộc ơn gọi, thì sự thánh thiện cũng nói lên căn tính của người Kitô hữu. Nên thánh không còn là điều xa lạ với họ, nhưng là căn tính và bổn phận phải kiện toàn. Không phải là điều ngạo mạn khi nói đến sự thánh thiện này, vì cội nguồn của sự thánh thiện đến từ Thiên Chúa. Mỗi Kitô hữu được mời gọi cảm nhận sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời mình, và sống cho đúng sự thánh thiện như Người muốn, bởi Thiên Chúa là Đấng Thánh.
Đời tu, được đặt nền trên sự thánh hiến trong Bí Tích Rửa Tội, là một cuộc đời thánh hiến sâu sắc cách đặc biệt. Đó là ơn gọi nên thánh theo cách thức riêng mà Đức Giêsu đã mời gọi các môn đệ; Cũng từ nền tảng này, những người sống đời thánh hiến đáp lại tiếng Chúa mời gọi: “Hãy theo Ta!”. Và với tất cả tự do, các Tông Đồ đã từ bỏ mọi sự để đi theo Chúa, được mời gọi cảm nhận về Người và chung chia sứ mạng loan báo Tin Mừng Nước Trời với Người. Hai đặc tính này trở nên thiết thân với người môn đệ của Đức Kitô. Các Tông Đồ đã can đảm làm chứng về Người sau biến cố Chúa Phục Sinh, bằng những lời chứng mạnh mẽ, và bằng cả cuộc đời của các ngài nữa.
Đời người tu sĩ cũng được mời gọi để sống và cảm nhận sự hiện diện của Đức Kitô trong cuộc đời mình, trước khi nói đến việc làm chứng về Nước Trời cho thế gian. Chúng ta làm chứng cho thế gian biết sự hiện diện của Chúa giữa lòng đời, một Thiên Chúa giàu lòng thương xót, giàu ân sủng. Xét theo chiều sâu của ơn gọi này, đó chính là cách thức để đạt đến sự thiện toàn của đức mến. Nếu như lương tâm ngay thẳng hướng con người làm điều thiện, thì đức Tin và đức Mến hướng con người đến đỉnh thiện toàn trong Đức Giêsu Kitô.
3. Lịch sử cứu độ là lịch sử Thiên Chúa thông ban Lời của Ngài cho con người
Trong Cựu Ước, Thiên Chúa “dựng lều” giữa dân Người. Hình ảnh rất đẹp mang nét du mục là Lều Hội Ngộ, điểm quy chiếu của toàn dân Israel. Thiên Chúa hiện diện giữa dân người qua dấu chỉ Lều Tạm, và lòng dân hướng về Lều Hội Ngộ này với tất cả sự tôn kính và cậy trông. Họ hướng về nơi đó chờ đợi mệnh lệnh, chờ đợi Thánh Ý; họ quy tụ nơi đó như điểm hội tụ để dâng lễ tế lên Thiên Chúa. Nói cách khác, Lều Hội Ngộ là điểm quy tụ của toàn dân Israel.
Đấng Cứu Độ ở giữa chúng ta. Khi thời gian đến hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con Một đến trần gian. Theo ngôn từ của Tin Mừng Gioan, “Ngôi Lời đã mặc lấy xác phàm, và cư ngụ giữa chúng ta.” (Ga 1,14). Trong Cựu Ước, Thiên Chúa phán dạy qua các vị trung gian; trong Tân Ước, Thiên Chúa phán dạy chúng ta qua chính Thánh Tử (Dt 1,1). Biến cố nhập thể là dấu chỉ bình an và niềm vui cho toàn thế giới, như lời thiên sứ loan báo cho các mục đồng: Hôm nay, Đấng Cứu Độ đã được sinh ra cho anh em. Cách diễn tả của hai tác giả Tin Mừng Nhất Lãm cho chúng ta thấy sự hiện diện của Thiên Chúa giữa con người cách êm đềm, ẩn dật; Người xuất hiện giữa những con người chất phác, đơn sơ. Cuộc hạ mình cách khiêm hạ của Ngôi Lời mang lại cho con người bình an, niềm vui, niềm hy vọng. Xét tỉ mỉ sứ điệp Nước Trời, chúng ta sẽ thấy mầu nhiệm Con Thiên Chúa nhập thể khởi đầu cho hai chữ “bình an” trên trần thế, và mở ra một thời đại mới, thời đại của “bình an” mà Đức Giêsu Phục Sinh, bằng lời chào thân ái, đã ban lại cho các Môn Đệ: “Bình an cho anh em.” (Lc 24,36).
Với nét chiêm niêm trong Linh Đạo Đa Minh, chúng ta thử đặt câu hỏi về sự bình an này như thế nào. Chữ Pax trong tiếng Latinh được khắc ghi nơi các đan viện muốn nói lên điều này: Bình an của khung cảnh bên ngoài, tĩnh mịch, thinh lặng mà người đời hằng cảm mến và tìm kiếm, là điều kiện và cũng là hoa trái của nếp sống cầu nguyện: Là điều kiện, vì sự thinh lặng bên ngoài đưa con người dễ bước vào đời sống cầu nguyện với Chúa; là hoa trái, vì chính nếp sống cầu nguyện, chiêm niệm phát sinh thái độ bình an này, một sự bình an xuất phát từ tâm hồn người tu sĩ. Như vậy, đây vừa là lời mời gọi, và cũng là thách đố cho mỗi chúng ta trên hành trình theo Chúa trong ơn gọi chiêm niệm.
Thiên Chúa cho nhân loại cảm nhận một cách cụ thể và sâu xa sự hiện diện của Người qua Đức Giêsu; chính trong Người, chúng ta được mời gọi sống và cảm nhận chiều kích thẳm sâu của mầu nhiệm tình thương. Ngôn từ không thể diễn tả hết kho tàng vô tận của tình thương hải hà nơi Thiên Chúa. Đời tu trì, đặc biệt đời đan tu (nếu chúng ta muốn nói đến nét thẳm sâu của đời chiêm niệm), mang nét ẩn dật như Ngôi Lời giáng trần chốn khiêm hạ. Có thể trong một nền văn hoá nào đó còn chuyện đề cao đời tu, coi trọng đời tu, còn chuyện “vinh quy bái tổ” mỗi khi một tu sĩ nào đó đạt được một chặng đường trong đời tu, đó cũng chỉ là những hình thái biểu hiện, cung cách trọng vọng. Trong khi đó, căn tính của đời tu hệ tại ở điểm khác, mà ở mọi nơi mọi thời đều như nhau: Theo Chúa Kitô sống khiêm nhường phục vụ. Chính đây là sức mạnh của đời tu trì dâng hiến cho Chúa, vì nó bén rẽ tận căn nơi suối nguồn sống động của đời tu trì: Sequella Christi.
Chúng ta đã nói đến con người và tự do. Chúng ta biết mình được sống một cách thăng hoa sự tự do đến mức độ tự do của con Thiên Chúa. Bởi chính sự tự do làm cho hành vi của con người mang giá trị luân lý, thì chính sự tự do này góp phần vào hy lễ cuộc đời người dâng hiến cho Chúa: từ bỏ với trọn tự do và ý thức đòi hỏi cả một qúa trình cảm nhận sâu xa trong đời tu trì dâng hiến. Theo cái nhìn của triết lý, sự tự do của con người nói lên tính ưu việt của họ; theo hướng thần học, đặc biệt thần học Kinh Viện, sự tự do của con người phải có định hướng theo nguyên lý cấp độ: thân xác phải tuân phục lý trí, lý trí tuân phục tâm hồn, tâm hồn tuân phục Thiên Chúa. Sự tự do phải có định hướng để có thể thể hiện đúng mức nhất cứu cánh của hành vi nhân linh.
II. TRUY TÌM CĂN TÍNH ĐỜI TU ĐA MINH
Trong Tông Thư, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhắc chúng ta lưu ý đến “cái chất” của đời tu:
Anh chị em đừng chiều theo chước cám dỗ về số lượng và hiệu quả, lại càng không nên tín thác vào sức riêng của mình. Hãy lục lọi những chân trời của cuộc đời anh chị em và của thời buổi hiện tại với sự tỉnh thức. Cùng với đức Bênêđictô XVI, tôi xin lặp lại: ‘Anh chị em đừng liên minh với những ngôn sứ yếm thế dự đoán sự chấm dứt đời sống thánh hiến vì mất ý nghĩa ở thời đại này. Trái lại, anh chị em hãy mặc lấy Ðức Giêsu Kitô và khoác vào binh giáp của ánh sáng - như thánh Phaolô đã khuyên nhủ - trong thái độ tỉnh thức mong chờ.’ (NTH, I.3).
A. Đời tu, dấu chứng của tình yêu
Việc dấn thân của nhiều người nam nữ trong nếp sống tu trì diễn tả một sự quảng đại dấn thân cho Chúa để phục vụ Giáo Hội và tha nhân. Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã cảm kích diễn tả sự ngưỡng mộ và tình liên đới với các tu sĩ trong lời cầu nguyện của ngài: “Chúng con tạ ơn Cha vì món quà đời sống thánh hiến: họ hằng tìm kiếm Cha trong đức tin và qua sứ mạng trên khắp hoàn vũ, mời gọi mọi người đến gần Cha.” (VC 111).
Đời sống của các tu sĩ làm chứng cho một tình yêu dành cho Đức Kitô khi họ bước trên hành trình theo lời khuyên Tin Mừng, và trong niềm hân hoan sâu xa, dấn thân trong cùng một lối sống mà Đức Kitô đã chọn cho họ (Lumen Gentium, 44). Chính nếp sống này giữa lòng đời trở thành lời chứng đích thực cho một nếp sống khác với lối sống của thế gian, với nền văn hoá văn minh đương đại, vốn yêu chuộng hiệu quả của công việc, của tiền tài, danh vọng, quyền bính. Căn cứ vào nếp sống này, đời sống thánh hiến giúp người tu sĩ tìm kiếm Đấng Tuyệt Đối, đồng thời cũng đề nghị một phương dược thiêng liêng nhằm chữa trị các điều ác hại trong thời đại.
Một tình yêu dành cho Đức Kitô được thể hiện trong chính đời sống này. Sự hiện diện năng động của các thế hệ, của các hình thức tu trì trong Giáo Hội hiện nay diễn tả nét phong phú trong phục vụ của đời tu trì, làm cho sự hiện diện của Đức Kitô rực sáng lên trong thế giới, cũng như làm rõ nét hơn sự hiện diện của Giáo Hội giữa lòng đời (x. XPL 6). Trong những năm gần đây, nhiều nơi và nhiều đấng bản quyền địa phương chú trọng đến chiều kích hiệp thông và truyền giáo, một dấu chỉ khả giác của tình yêu dành cho Chúa và tha nhân. Bên cạnh đó, nỗ lực đào sâu chiều kích đời tu và thanh luyện cũng không kém phần quan trọng (x. XPL 6) nhằm đào tạo cho Giáo Hội “những thợ gặt lành nghề”. Đối diện với nhu cầu này, các hội dòng đang phải tăng cường và củng cố để phát huy tính năng động của mình trong Giáo Hội và xã hội. “Người ta đánh giá cao nỗ lực đáng khen nhằm tìm kiếm một cách thức thực thi quyền bính và vâng phục qua việc khẳng định, soi sáng, hợp nhất, hoà nhập và hoà giải, được gợi hứng từ Tin Mừng hơn” (x. XPL 6). Những cách thức phục vụ này là hoa trái của một lòng mến: từ bỏ mọi sự để đi theo Đức Kitô.
B. Nhận biết và phục vụ Đức Kitô
Được kêu gọi đi theo Đức Giêsu, người tu sĩ bước theo Người trong cuộc đời thánh hiến để tiếp tục sứ mạng của Người trên trần gian. Chính đời sống thánh hiến, dưới tác động của Chúa Thánh Thần, trở thành một sứ vụ (với Đa Minh, sứ vụ này là Giảng Lời Chúa). Người tu sĩ càng để cho mình trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, thì Đức Kitô càng hiện diện và sống động trong lịch sử vì phần rỗi mọi người. Nét chiêm niệm đóng góp cho Giáo Hội và làm chứng cho thế giới về một đời sống trong thinh lặng, cầu nguyện và làm việc, nhấn mạnh giá trị của đời sống chiêm niệm trong đời sống thường ngày, đặc biệt là trong thế giới hôm nay vốn ồn ào và hướng ngoại. Đây cũng là một trong hai yếu tố của căn tính Đa Minh, và được đặt là thiết yếu trong tương quan với sứ vụ giảng thuyết.
Nhiệt tâm xây dựng Nước Thiên Chúa và mang ơn cứu độ đến cho anh chị em là một bằng chứng cho thấy các người thánh hiến thật sự dâng hiến bản thân. Do vậy, mọi nỗ lực canh tân được xem là động lực thúc đẩy cho sứ vụ phúc âm hoá (x. XPL 9). Về điểm này, Huấn Thị Xuất Phát Lại Từ Đức Kitô đánh giá cao việc thường huấn trong đời tu mà qua đó, với những kinh nghiệm mà các tu sĩ có được trong khi phục vụ, họ có thể chọn lựa trong số những kinh nghiệm thiêng liêng để can đảm quyết định dấn thân phục vụ. Việc gia tăng lòng yêu mến phục vụ Đức Kitô sẽ giúp các tu sĩ biết dấn thân vì Tin Mừng. Trong nhiều hoàn cảnh khó khăn, nhiều tu sĩ đã không ngần ngại dấn thân trong việc phục vụ, truyền giáo, và ngay cả dám hy sinh, với những khó khăn, để trung thành trong phục vụ (x. XPL 9). Về điểm này, môi trường đào tạo đời tu của chúng ta cần hướng dẫn và khơi lên lửa nhiệt thành nơi các huấn sinh, giúp các tu sĩ trẻ định hướng và chuẩn bị cho việc là chứng tá Tin Mừng.
C. Linh đạo hiệp thông
Đời tu ngày nay, với nhiều mối tương quan và hiệp thông, đặt người tu sĩ trong tinh thần hiệp thông trong tình yêu. Tông Huấn Vita Consecrata, số 46, nói đến sự hiệp thông như dấu chỉ của nếp sống thánh hiến: “Những người thánh hiến được yêu cầu trở nên những chuyên viên thực sự về hiệp thông và thực hành linh đạo hiệp thông như những chứng nhân và những người kiến tạo kế hoạch hiệp thông, đỉnh cao của lịch sử nhân loại theo ý muốn của Thiên Chúa.” Sự hiệp thông này trước tiên là trong cộng đoàn tu trì, sau đó là mở rộng ra trong Giáo Hội, và còn rộng hơn nữa: “đến với những nơi hiện đang bị xâu xé bởi sự hận thù chủng tộc, hoặc bởi bạo lực điên rồ” (x. XPL 28).
Linh đạo hiệp thông này trước hết là hướng về Thiên Chúa Ba Ngôi, hồn sống của đời sống cộng đoàn. Kế đó, là để ý đến khả năng của anh chị em trong đức tin, trong hiệp nhất của một thân thể nhiệm mầu. Từ nguyên tắc này, những hiệu quả có thể có được trong mối dây hiệp thông: chia sẻ niềm vui và những đau khổ của anh chị em chúng ta, nhạy cảm trước những ước muốn và chú ý đến các nhu cầu của họ, tặng ban cho họ tình bạn sâu sắc và chân chính, thấy những gì tích cực nơi người khác, đón nhận và khen ngợi điều đó như hồng ân Thiên Chúa ban, biết dành một chỗ cho người khác bằng cách mang gánh nặng cho nhau. (x. XPL 29).
Từ những nguyên lý nói trên, chúng ta thử khai triển linh đạo hiệp thông trong Tỉnh Dòng, đặc biệt qua nét chiêm niệm và cộng đoàn. Trước hết, phải nói đến tính thống nhất trong một cộng đoàn Đa Minh: Đức ái huynh đệ là trên hết. Lời khấn Dòng diễn tả sự đáp trả của tu sĩ bằng lòng mến đi theo tiếng Chúa gọi. Đây chính là lòng mến, vốn được nhen nhóm trong tâm khảm của mỗi người tu sĩ, được thể hiện qua lời khấn dòng, và được nuôi dưỡng cho lớn lên trong cầu nguyện và Giảng Thuyết. Mến Chúa, yêu người, và quý trọng ơn gọi của bản thân được diễn tả trong nếp sống âm thầm phục vụ. Ba lời khấn đưa người tu sĩ vào mối dây thân tình với Thiên Chúa; việc tuân giữ kỷ luật đời tu, một khi được thực hiện với ý thức và lòng mến, trở nên hy lễ liên lỉ dâng lên Thiên Chúa. Một tu sĩ cao niên tận tụy chỉ với một việc nho nhỏ trong cộng đoàn cũng có thể diễn tả lòng trung tín, và nhiệt thành trong đời tu.
Nếu có thể dùng một ví dụ minh họa, thì trong Linh Đạo Biển Đức, lao động trở thành lời cầu nguyện khi lòng mến thôi thúc người tu sĩ làm với trọn tâm tình, mà câu nói của Cha Thánh Biển Đức là bằng chứng hùng hồn: “in primis diligere” (tiên vàn, là yêu thương). Đây là nguyên tắc giúp cho mọi hành vi trong đời sống người tu sĩ trở nên ý nghĩa. “Quantitas animae aestimatur de mensura caritatis quam habet.” (giá trị của một tâm hồn được lượng định theo cấp độ lòng mến của người đó). Cũng chính từ nguyên lý này, người ta không còn phân biệt việc lớn với việc bé nữa.[2] Nói một cách mạnh mẽ, người ta không tìm kiếm điều thánh thiện của sự việc cho bằng tìm kiếm sự thánh thiện trong các việc làm.[3] Nói như thế, chúng ta không có ý cổ võ một “chủ nghĩa duy hoạt động”, nghĩa là kêu gọi mọi đan sĩ lao vào công việc mà quên đi những bổn phận đạo đức: Cung Nguyện, suy gẫm, đời sống chung. Thêm vào đó, đời sống đạo đức và việc gia tăng đời sống tâm linh giúp người tu sĩ mỗi ngày hoán cải, để nên “bí tích của Đức Kitô.” Linh đạo Đa Minh đưa người tu sĩ nhiệt thành trong giảng thuyết, nhưng không quên chu toàn những yếu tố của chiêm niệm.
Trong Tông Thư, Đức Thánh Cha Phanxicô nhấn mạnh tình hiệp thông này:
Các tu sĩ và những người tận hiến được mời gọi trở nên những “chuyên viên hiệp thông.” Vì thế tôi mong rằng “linh đạo hiệp thông” mà thánh Gioan Phaolô II đã chỉ ra, sẽ trở thành thực tại, và anh chị em sẽ là những người đầu tiên đón nhận “sự thách đố lớn lao ở trước mặt" trong ngàn năm mới: "làm cho Giáo hội là ngôi nhà và trường học của hiệp thông.” Tôi chắc rằng trong Năm nay, anh chị em cố gắng để cho lý tưởng huynh đệ mà các vị sáng lập theo đuổi sẽ tăng trưởng ở nhiều cấp độ, tựa hồ những vòng tròn đồng tâm. Tiên vàn sự hiệp thông được thực hành ngay tại các cộng đoàn trong dòng. Tôi mời anh chị em hãy đọc lại điều mà tôi không ngừng lặp đi lặp lại nhiều lần rằng những lời chỉ trích, đàm tiếu, ghen tương, tị hiềm, đố kỵ không được phép cư ngụ ở trong nhà của anh chị em. Sau tiền đề ấy, con đường bác ái còn lại hầu như là vô tận, bởi vì bao gồm việc đón tiếp và quan tâm lẫn nhau, thực hành sự chia sẻ những tài nguyện vật chất và tinh thần, sửa bảo huynh đệ, tôn trọng những người yếu đuối,... Chính "huyền nhiệm chung sống với nhau" làm cho cuộc đời trở nên một cuộc “lữ hành thánh thiện.” Chúng ta cũng phải tự vấn về tương quan giữa những người thuộc về những nền văn hóa khác nhau, xét vì các cộng đoàn của chúng ta càng ngày càng trở thành quốc tế. Làm cách nào để cho mỗi người có thể biểu lộ chính mình, được đón nhận với những ân ban đặc thù, được hoàn toàn đồng trách nhiệm? (NTH, II.3).
III. SỐNG VÀ LOAN BÁO TIN MỪNG THEO PHONG CÁCH ĐA MINH
A. Bối cảnh xã hội
Trong Tông Huấn Evangelii Gaudium, Đức Thánh Cha Phanxicô có những phân tích hay về bối cảnh xã hội ngày nay, và qua đó nó cũng có gây ảnh hưởng đến đời sống Giáo Hội Công Giáo, cách riêng là đời tu:
Nguy cơ lớn nhất trong thế giới ngày nay, với những cung cấp tràn ngập và đa dạng của chủ nghĩa tiêu thụ, là một nỗi buồn cá nhân đến từ tâm hồn tự mãn và tham lam, từ cơn sốt tìm kiếm những thú vui phù phiếm, và một lương tâm bị cô lập. Khi đời sống nội tâm bị đóng kín với những tư lợi, thì không có chỗ cho người khác nữa, những người nghèo không thể vào được nữa, người ta không còn nghe được tiếng Chúa, không còn được hưởng niềm vui ngọt ngào của tình yêu Ngài, tim họ không còn đập những nhịp nhiệt thành để làm việc thiện nữa. (EG 2).
Thiết nghĩ, đôi dòng đơn cử trên đây mời gọi từng tu sĩ chúng ta suy nghĩ về những thách đố cho việc sống Ba Lời Khuyên Tin Mừng trong thế giới ngày nay.
B. Nguyên lý Tin Mừng: Tình yêu trọn hảo và Ba Lời Khấn
“Nếu anh muốn nên hoàn thiện, thì hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi.” (Mt 19, 21)
Đoạn Tin Mừng cho thấy khát vọng đi tìm kiếm sự thiện hảo nơi người thanh niên là một điều cao đẹp. Câu hỏi đặt ra là hành vi nào cần phải có để hưởng sự sống đời đời. Đức Giêsu gợi ý cho chàng thanh niên con đường cụ thể và căn bản nhất của Do Thái Giáo: Giữ các điều răn. Chàng thanh niên đã giữ trọn vẹn những khoản quy định của luật; nhưng anh vẫn khao khát một điều gì đó cao đẹp hơn. Câu hỏi giúp anh tiến xa hơn nữa là tìm xem còn thiếu điều gì nữa không ngoài việc giữ luật lệ như thế. Cách dẫn nhập của Đức Kitô có nét lạ, đó là Người đưa anh đến một quyết định mang tính dứt khoát, được thể hiện qua chính hành vi từ bỏ: “Nếu anh muốn nên hoàn thiện, thì hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi.” Đây là một lời mời gọi từ bỏ mạnh mẽ, hoàn toàn để “trở nên không” với Đấng mà anh đang gặp gỡ. Giữ các điều răn đã là việc tốt đẹp, vì trong đó có chứa đựng lòng yêu mến: “Ngươi phải yêu thương đồng loại như yêu chính mình.” Nhưng lòng mến đó còn có cấp độ cao hơn, được thể hiện trước tiên qua hành vi, và sau đó là sự từ bỏ: Qua hành vi, đó là bán mọi sự mình có để chia sẻ với người nghèo, để trở nên nghèo hoàn toàn như Đức Kitô; và từ bỏ, đó là sẵn sàng để theo Thầy Giêsu trên con đường hẹp: Chim có tổ, chồn có hang, Con Người không có nơi gối đầu. Anh thanh niên đã tìm đúng người để hỏi, đã đặt đúng câu hỏi để tìm câu trả lời, nhưng cuối cùng lại không tiếp tục hành trình tìm kiếm, bởi anh bị ngăn trở bởi lòng quyến luyến tài sản.
Trong Huấn Thị Xuất phát lại từ Đức Kitô, việc tuân giữ các Lời Khuyên Phúc Âm được nói đến như một phương thế để diễn tả lòng mến mà người tu sĩ dành cho Thiên Chúa:
Các lời khuyên phúc âm như khiết tịnh, nghèo khó và vâng phục mà đức Ki-tô sống trong nhân tính trọn vẹn của người với tư cách là Con Thiên Chúa và được ôm ấp vì yêu mến Thiên Chúa, tỏ lộ như một con đường thực hiện nhân vị cách viên mãn ngược lại sự phi nhân hoá. Chúng là những thần dược chữa trị sự sa đoạ của tinh thần, đời sống và văn hoá, chúng công bố sự tự do của con cái Thiên Chúa và niềm vui sống theo các mối phúc lộc Tin Mừng. (XPL 13).
Như vậy, mẫu mực của các lời khuyên Phúc Âm tìm thấy nguồn cội nơi chính Đấng mà mỗi tu sĩ quyết tâm theo đổi, khi đã can đảm từ bỏ những điều có nguy cơ ngăn cản họ trên con đường nên hoàn thiện. Đức Giêsu đã sống và đã thực hiện một cách vẹn toàn giá trị của điều mà ba lời khấn muốn diễn tả: Ngài mời gọi một số người nam, nữ đi theo Người, cảm nhận và chia sẻ kinh nghiệm về lối sống theo các lời khuyên Phúc Âm, để nên hoàn toàn đồng hình đồng dạng với Người, bởi chính Người đã sống và sống trọn vẹn ý nghĩa của các lời khuyên Phúc Âm trong tưong quan của Người Con với Chúa Cha và trong liên kết với Chúa Thánh Thần. (x. VC 18).
C. Lòng mến và nhiệt tâm xây dựng Nước Chúa
Cũng trong Tông Huấn Vita Consecrata, nếp sống theo các lời khuyên Phúc Âm thiết lập một cách thức sống đặc biệt thân tình và phong phú với Đức Kitô, cũng như theo đổi sứ vụ của Người. Đức Maria được nhắc đến như mẫu gương tiên khởi về việc từ bỏ chính mình để thi hành kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Vào lúc Thiên Sứ truyền tin cho Mẹ, Mẹ đã thưa với tất cả lòng thành: “Này tôi là tôi tá Chúa, xin hãy thực hiện nơi tôi như lời Sứ Thần truyền.” (Lc 1,38).
Trong hy lễ đền tội mà Đức Giêsu đã dâng lên Thiên Chúa Cha, sự tuân phục của Người là một lễ hy sinh cao độ. Xét theo chiều kích tư tế, lễ vật dâng lên Chúa được gọi là của thánh. Sự thánh thiêng được tập trung trong cuộc đời Đức Giêsu: hy lễ toàn thiêu, hy lễ đền tội Người đã dâng lên Thiên Chúa trên thập giá. Chính hy lễ này được thực hiện trong tuân phục và yêu thương. Người vừa là tư tế, vừa là bàn thờ, vừa là của lễ. Hy lễ Người dâng một lần là đủ. Đây cũng chính là tuân phục và phụng tự đích thực của những ai theo Đức Giêsu.
Thánh hiến đời tu nằm ở chính cuộc đời người đi theo Chúa. Nghi thức tuyên khấn có một giá trị quan trọng. Việc thánh hiến diễn ra nhờ việc chu toàn trung tín dự phóng cuộc đời mà chúng ta tuyên khấn vào một thời điểm nhất định. Từ đó, việc thánh hiến cho Thiên Chúa cuộc đời mình là cho sứ vụ. Đức vâng phục không thể được coi là nằm bên lề sứ vụ, nhưng phải thể hiện cụ thể giá trị của lời khấn trong sứ vụ mình thực hiện. Sứ vụ đó là xây dựng Nước Chúa ngay trong cuộc đời trần thế này. Các tu sĩ trở nên dấu chỉ của một Nước Trời mai hậu.
Đời sống thánh hiến không nhằm tìm kiếm sự tôn vinh và tán thưởng của con người, nhưng được đền đáp bằng niềm vui khi được tiếp tục làm việc không mệt mỏi vì Nước Thiên Chúa, được trở nên hạt giống đang âm thầm lớn lên, không chờ đợi bất cứ phần thưởng nào khác ngoài phần thưởng Thiên Chúa sẽ ban trong ngày sau hết. (XPL 13).
D. Về Ba Lời Khuyên Phúc Âm
Khi nói đến đời sống thánh hiến, chúng ta đề cập ngay đến các Lời Khuyên Phúc Âm: Khó nghèo, Vâng phục, Khiết tịnh. Ba lời khấn này là căn bản cho mọi nếp sống tu trì trong Giáo Hội, và mỗi Hội Dòng có thể kèm thêm những lời khấn riêng. Xét tận căn, Ba Lời Khuyên Phúc Âm giúp người tu sĩ đạt đến sự tự do và trưởng thành trong đời sống đức Tin và Đức Mến mỗi ngày một sâu sắc hơn. Tuân Phục đụng chạm đến tự do của con người; Khó nghèo đụng chạm đến vật chất vốn đối với con người là một điều gì đó đảm bảo cho đời sống; Khiết tịnh đụng chạm đến tình cảm của con người là điều gần với bản tính nhân loại: biết yêu và muốn được yêu mến.
Ở một số thời kỳ trong Lịch Sử Giáo Hội, đời tu được nhấn mạnh ở điểm này hay điểm khác, có khi nhấn mạnh đến những điều ngoài Ba Lời Khuyên Tin Mừng, như việc từ bỏ, khổ chế, đời tu đồng nghĩa với “cái chết”: chết cho thế gian, chết cho tính xác thịt của con người. Không ít người nhìn nhận rằng nếu không cảnh giác, đời tu sẽ thành nơi củng cố điều mình muốn từ bỏ.
Theo dòng lịch sử phát triển của Ba Lời Khấn, nếp sống tu trì được thể hiện trước, sau đó mới có các định luật, quy tắc để quy định cho nếp sống này. Nếu các Lời khuyên Tin Mừng chỉ được xét về tính pháp lý và khổ chế, thì chúng không nói lên được toàn bộ đời sống Tin Mừng, không bao hàm hết những đòi hỏi của việc làm môn của Đức Giêsu một cách triệt để. Chìa khoá nối kết Ba Lời Khấn là Đức Ái, mối dây trọn lành ảnh hưởng đến mọi hành vi của người tu sĩ. Nếu nhân cách của con người bị chi phối bởi ba giá trị cơ bản: chiếm hữu, quyền bính và tình cảm, thì Ba Lời Khấn tạo nên dấu chỉ đối kháng trong ba giá trị cơ bản nói trên. Tuân phục, xét như việc làm trọn ý Thiên Chúa và phục vụ huynh đệ, chính là đối kháng với ước muốn quyền bính; Khiết tịnh, xét như việc từ bỏ mọi sự để trọn vẹn dâng hiến cho Thiên Chúa bản thân trong việc thờ phượng Người, đối kháng với khuynh hướng tình cảm chấp hữu, vốn quy chiếu tiến trình sinh nở và trao truyền sự sống; Khó nghèo, xét như việc từ bỏ mọi ràng buộc vật chất, để thanh thoát cho cuộc đời tu trì và sứ vụ, trở thành đối kháng với tiền tài. Tất cả những yếu tố của các Lời Khấn này kín múc từ Tin Mừng, trở thành phương thế giải thoát người tu sĩ khỏi những ràng buộc, để thanh thoát đi theo Đức Kitô.
Sống trong một xã hội như Việt Nam ngày nay, đang mở ra với thế giới văn minh văn hoá, giá trị của Ba Lời Khấn càng trở nên khẩn thiết hơn bao giờ hết. Những thách đố đến từ những trào lưu sống, từ những ảnh hưởng của xã hội đương đại nhắc người tu sĩ ý thức cảnh tỉnh trong việc giữ các lời Khuyên Tin Mừng. Những việc khổ chế trong đời tu có giá trị khi phát xuất từ hứng khởi Tin Mừng, diễn tả giá trị của đời thánh hiến.
1. Vâng phục, tự do và hy tế
Trong cuốn Refounding Religious Life, cha F. D. Martinez đã trích một câu nói khá nổi tiếng: “Khi bề trên truyền lệnh, thì tôi là một thuộc nhân; còn bây giờ các thuộc nhân truyền lệnh, tôi được làm bề trên” (F. D. Martinez, tr.257). Dù thành ngữ trên không tìm được xuất xứ chính xác, cũng không có tính thần học chặt chẽ, nhưng một cách nào đó nó nói lên một điều là quyền bính và tuân phục đã thay đổi nhiều trong các cộng đoàn tu trì. Trong thay đổi này, hai chiều kích được xét đến: Liệu tuân phục tìm được mẫu gương từ sự tuân phục của Đức Kitô? Hay hành vi tuân phục chỉ dừng lại ở tương quan ngôi vị giữa bề trên và thuộc nhân? Nếu có chăng một khủng hoảng trong đời sống cộng đoàn tu trì, thì liệu khủng hoảng này đến từ khủng hoảng về quyền bính, hay là về thái độ tuân phục của tu sĩ?
Để trả lời cho những vấn nạn nói trên, tác giả đã đưa ra những quan điểm lý giải: Về điểm thứ nhất, khủng hoảng quyền bính cho thấy một thái độ tiêu cực có thể đến từ phía người lãnh đạo hoặc từ bề dưới, dựa trên tương quan quyền bính và tuân phục; chẳng hạn như, đứng trước bề trên tôi tuân phục hoặc chống đối bởi người đó làm tôi phục hoặc làm tôi chán ngấy (kiểu vâng phục này là kiểu vâng phục nô lệ, tuỳ theo người mình tùng phục, và thường làm cho người tu sĩ đánh mất căn tính của mình; bởi nếu bề trên là người mình không phục, thì hoặc là phản ứng nhẹ nhàng bằng cách bất cộng tác, nín thở qua sông đợi hết nhiệm kỳ của vị bề trên đó; hoặc là chống đối). Có thể có hình thức bề trên dùng quyền phán quyết để cai trị cộng đoàn, nhằm trả đũa những xung khắc của qúa khứ. Về điểm thứ hai, hành vi tuân phục mang chiều kích tâm linh, bởi chưng sự tuân phục có căn nguyên nền tảng từ Đức Kitô, Đấng đã học biết thế nào là tuân phục Thiên Ý đến cùng.
a. Kiểu mẫu tuân phục: Đức Giêsu Kitô đã tuân phục Chúa Cha cho đến nỗi bằng lòng chịu chết
Việc từ bỏ của Chúa Giêsu là chiếu theo việc Người tuân phục Chúa Cha, thi hành Thánh Ý, một sự vâng phục liên kết chặt chẽ với sứ vụ Chúa Cha trao phó. Người không làm theo ý riêng. Trong Vườn Ghếtsêmani, Đức Giêsu đã phải đối diện với đau khổ cùng cực của kiếp nhân sinh, và tình huống này đặt Người đối diện với thái độ yêu mến và tuân phục. Khi nỗi đau khổ trở nên cao độ bởi nỗi đau thể xác, bởi sự sợ hãi, bởi cảm nhận cô đơn, Đức Giêsu đã thốt ra lời thân thương với Chúa cha, và cũng qua đó thể hiện rất thật thân phận con người: “Lạy Cha, nếu có thể, xin cất chén này; Nhưng đừng theo ý con, một theo ý Cha.” Hành vi vâng phục này mang giá trị siêu việt; Đức Giêsu có thể dùng tự do của mình để tránh né đau khổ đó. Nhưng sự vâng phục đặt nền trên lòng mến đã đưa Đức Giêsu đến đích của lễ hy sinh tuyệt vời: Chịu chết trên thập giá.
b. Tuân phục và bác ái
Thời của thánh Pacôme, đời tu đã thành hình đời sống cộng đoàn bên Đông Phương. Trong cấu trúc đời tu này, người ta thấy đã có việc tuân phục kỷ luật và trật tự của cộng đoàn đưa ra (kế đó, có Tu Luật thánh Basiliô, và bên Tây Phương có thánh Augustinô; và sau này thánh Đa Minh, thánh Phanxicô khai triển khá sâu sắc nếp sống cộng đoàn tu trì). Việc tuân phục đánh dấu bước tiến trong lịch sử của đời tu. Cộng đoàn tu trì hình thành với những quy tắc, kỷ luật nền tảng cho đời sống cộng đoàn, giúp cộng đoàn ổn định và giữ được nếp sống hài hoà nhất có thể. Danh từ được dùng để nói đến cộng đoàn tu trì này là conventus, trong đó tình huynh đệ, mối liên hệ thân thiết được chú trọng, theo ánh sáng của Tin Mừng.
c. Tuân phục và đức tin
Sau thời ẩn tu, đời sống đan tu phát triển dần. Truyền thống Biển Đức coi tuân phục như thái độ của đức Tin. Từ ngữ vâng phục nói lên điều này, ob-auditio fidei: vâng phục trong niềm tin, lắng nghe Ý Thiên Chúa qua bề trên. Trách nhiệm của Viện Phụ là dạy dỗ, chỉ bảo, quyết định, điều hành, nhất là lo đời sống tâm linh. Vâng lời viện phụ là vâng lời Ý Chúa. Nếu được dùng hình ảnh để diễn tả thái độ vâng phục này, chúng ta có thể dùng hình tháp để nói đến điểm quy chiếu của lời khấn: Tu sĩ vâng phục đan viện trưởng, bởi đan sĩ đọc ra Thánh Ý Chúa qua lời giảng dạy, quyết định, điều hành, những chỉ dạy thiêng liêng. Rõ ràng rằng việc vâng phục trong nếp sống tu này diễn tả thái độ của niềm tin, trong khiêm tốn, lắng nghe. Đây là yếu tố chủ lực của việc làm môn đệ Đức Kitô (F. D. Martinez, tr.260). Bề trên được gọi là Abba (cha), vì ngài là cha tinh thần của một gia đình đan viện.
d. Tuân phục vì sứ vụ
Sau đó, vào thời Trung Cổ, khi các dòng hành khất ra đời, lịch sử dòng tu cho thấy đã xuất hiện dạng thức tuân phục vì sứ vụ, đặt nền trên những yếu tố thần học về đời tu đã có sẵn trong truyền thống lịch sử đời tu của Giáo Hội. Sự vâng phục, ngoài chiều kích siêu nhiên là để lắng nghe ý Chúa, còn diễn tả tính tuân phục hướng đến sứ vụ. Bề trên được gọi bằng một danh xưng khác: prior (anh trưởng/chị trưởng, hay là người đứng đầu trong những anh em). Prior chịu trách nhiệm phối hợp, làm cho cộng đoàn được linh hoạt dưới ánh sáng của Tin Mừng, và phối hợp sức mạnh của từng cá nhân cũng như cộng đoàn để thi hành sứ vụ.
Kiểu mẫu truyền thống của đời tu xuất hiện và được duy trì trong Giáo Hội dưới nhiều hình thức, nếp sống tu trì khác nhau tuỳ theo đoàn sủng của mỗi Dòng. Xét trong bối cảnh tiền Công Đồng Vaticanô II, lời khấn vâng phục thuộc về kỷ luật đời tu: Dù rằng chiều kích thiêng liêng và thần bí vẫn có trong việc giữ Ba Lời Khấn, nhưng quyền lực pháp lý và kỷ luật lại là những căn nguyên buộc người tu sĩ tuân phục. Việc cải tổ hậu Công Đồng cho thấy hình thái này bớt dần tính pháp lý, kỷ luật, và nhấn mạnh đến khía cạnh thần học.
Thực trạng đời tu cho thấy yếu tố cần được nhấn mạnh trong lời khấn vâng phục mang chiều kích cá nhân: từng cá nhân tu sĩ và cả bề trên. Cả hai đều được mời gọi lắng nghe Thánh Ý, cả trong việc vâng phục (cá nhân tu sĩ) và trong lệnh truyền nếu có (phía bề trên). Chính thái độ và ý thức của từng tu sĩ đánh giá mức độ trưởng thành trong lời khấn này, và nói rộng hơn, là trong đời sống đức tin. Thời trước, trong truyền thống cổ kính, việc vâng phục xem ra rất dễ dàng, vì cả hai đều đặt Thánh Ý là trên hết, và cả hai đều chú trọng đến việc rèn nhân đức. Chuyện đối thoại xem chừng không cần thiết, vấn đề nhân quyền cũng không phải cần xem xét lại, vì việc thực thi trách nhiệm và quyền hạn trong lời khấn này được duy trì trong một môi trường trật tự, an bình, hài hoà. Hình thức này có nét hay, nhưng cũng có thể phô diễn phần nào nhược điểm của cách sống này, chẳng hạn như: vâng phục không suy xét.
Thời nay, kiểu mẫu đời tu tự do du nhập những yếu tố mới trong việc thực thi quyền bính: Tôn trọng quyền cá nhân và đối thoại. Với việc tôn trọng quyền cá nhân, kinh nghiệm Kitô giáo và đời tu cho thấy đời tu không làm mất giá trị này nơi con người. Mỗi cá nhân đều có tự do, lương tâm và lý trí để hiểu biết về sự vâng phục. Vâng phục vì biết rằng lệnh truyền của bề trên là không sai, cho dù có thể hơi …kém so với điều mình hiểu sâu biết rộng. Nhưng nguyên tắc “vâng phục thì không sai lầm” có giá trị trong trường hợp này. Thần học kinh viện cho việc tuân phục này mang giá trị luân lý, bởi nó nói lên sự từ bỏ của bản thân tu sĩ. Nhưng nếu biết quyết định của bề trên là sai lầm, gây đến tội lỗi, mà còn làm theo, thì không thể tha thứ được.
Kiểu mẫu vâng phục trong đối thoại được khai triển ngày càng rộng, vì xét một khiá cạnh nào đó, kiểu mẫu này phản ánh tính Tin Mừng nhiều hơn, và cũng nói lên được việc lắng nghe Chúa Thánh Thần hướng dẫn qua trao đổi. Tuy nhiên, với kiểu mẫu này, chúng ta phải lưu ý đến điểm yếu của nó: Sự bộc phát của thái độ tự do qúa trớn. Ngày nay, thế giới chịu ảnh hưởng của nhiều trào lưu triết lý và phong cách sống, con người (đặc biệt là người trẻ) muốn có ý kiến, muốn tự khẳng định mình. Chủ nghĩa cá nhân đã làm chậm trễ hoặc hỏng những chương trình của cộng đoàn, tu sĩ đòi phải đối thoại hoặc biết trước những điều mà lẽ ra bề trên không thể nói ra hết được trong sứ vụ người tu sĩ đó được sai đi. Cha Martinez nhận định:
Cũng không hiếm khi trong khung cảnh đó người về trên bị ngăn cản việc thực thi quyền bính, và như vậy mở đường cho cung cách dễ dãi. Đôi khi muốn làm hài lòng hoặc sợ đối đầu với những “thành phần nổi loạn” trong cộng đoàn mà không thực thi quyền bính đến cùng của trách nhiệm được trao; hoặc phải dành nhiều thời gian cho việc thuyết phục. (F. D. Martinez, tr…)
Với hai khuynh hướng tân cổ đó, mỗi kiểu đều có nét đẹp và khuyết điểm. Điều quan trọng là phải tìm lại hứng khởi Tin Mừng của lời khấn này. Thần học đời tu cần hơn là kỷ luật bó buộc.
e. Chiều kích cộng đoàn và sứ vụ
Đặc điểm tuân phục trong đời tu, một khi được đặt trong bối cảnh cộng đoàn, giúp chúng ta phân biệt và chu toàn Thánh Ý Thiên Chúa, qua trung gian lề luật, sứ vụ, dự phóng cộng đoàn, những tước hiệu quyền bính, v.v..
Việc từ bỏ ý riêng, xét theo tính con người, dường như là điều gì đó bất bình thường. Con người thường yêu chính mình, và thích hành xử cách tự do. Nhưng trong chiều kích cộng đoàn và sứ vụ, tự do của tu sĩ được nhắc đến, vì có liên quan thiết thân đến tuân phục. Xét theo nguyên nhân, thì tuân phục theo tinh thần Tin Mừng là trở nên dễ bảo trước tác động của Chúa Thánh Thần, Đấng hoạt động trong cộng đoàn và qua các vị linh hướng, và qua ý trên (hiểu theo ý của bề trên, quyết định của công hội, tu viện hội,…). Thiết nghĩ kiểu mẫu vâng phục này không phản ánh linh đạo đan tu, nhưng được đưa ra để lý giải khuynh hướng tự do mà dường như đời tu nói chung đang gặp phải. Vấn đề là chúng ta tìm cách lý giải và tìm hướng tốt đẹp cho một cung cách sống vâng phục theo Tin Mừng, vốn là điều rất quan trọng trong đời tu ngày nay.
f. Quyền bính[4] và tự do trong đời tu
Từ Công Đồng Vaticanô II, quyền bính trong cộng đoàn tu trì được nhấn mạnh với nền tảng Tin Mừng, phục vụ cộng đoàn và vì sứ vụ. Vai trò của người lãnh đạo là làm cho đời sống cộng đoàn đượm tính chất của Tin Mừng, vừa xét theo cá nhân từng tu sĩ, vừa theo cộng đoàn. Có thể người có trách nhiệm phải gợi lại cho từng cá nhân và cộng đoàn những yêu sách của Tin Mừng, và nhắc nhở mọi người phải dám đối diện với những yêu sách đó (F. D. Martinez, tr.291). Do vậy, vai trò này không chỉ là tài quản trị (vốn là yếu tố thường được quan tâm hàng đầu khi cộng đoàn chọn bề trên cho mình), nhưng còn cần lưu ý đến chiều sâu về đặc sủng, về tính sẵn sàng của Tin Mừng. Chức năng này trở nên dễ dàng một khi bề trên là chứng nhân cho sự trung thành với Tin Mừng. Chức năng ngày càng trở nên quan trọng trong cộng đoàn khi ngày càng có thêm thành viên, và ngày càng có thêm sứ vụ mới. Những quyết định liên quan đến việc phục vụ và những định chế trong cộng đoàn đặt cả bề trên và các tu sĩ trước thách đố chọn lựa.
Trong đời tu, thực hiện tuân phục không làm mất tự do cá nhân. Trái lại, thực hiện đúng hành vi tuân phục sẽ giúp tu sĩ lớn lên trong tự do đích thực và trong Thần Khí. Ngay cả khi tu sĩ thực hiện quyền và nghĩa vụ trong việc đưa ra quyết định theo trách nhiệm (công hội, tu viện hội), họ cũng không chối từ tính trách nhiệm của người lãnh đạo, nhưng là thể hiện trách nhiệm với cộng đoàn. Việc cá nhân lớn lên trong bước đường làm môn đệ Đức Kitô là thước đo sự thành công của việc thực thi quyền bính và thực hành đức tuân phục.
Quyền bính và tuân phục được thực hiện trong cộng đoàn. Chính cộng đoàn là nơi phân biện thánh ý Thiên Chúa, và khám phá ra sự chỉ dẫn của Thần Khí, Đấng khiến bất kỳ hoàn cảnh cụ thể nào đều là cơ hội để tu sĩ thể hiện lòng trung tín hơn nữa. Cộng đoàn cầu nguyện, lắng nghe Lời Chúa, suy xét và chọn lựa quyết định theo điều thiện, … đó là môi trường tốt để biện phân Thánh Ý. Tuy nhiên, cần phân biệt trường hợp cộng đoàn biện phân Thánh Ý và kiểu dân chủ phe nhóm. Đa số ý kiến được thể hiện trong cộng đoàn (qua công hội, tu viện hội, tổng hội) trong tinh thần biện phân, cầu nguyện, trong niềm tin và tín thác vào Chúa Quan Phòng, là cách thể hiện ý chung trong một quyết định mà tự bản chất là đúng đắn. Cha Martinez nhận định: Thực tế cho thấy, đôi khi những thành viên nhiệt thành, kể cả từng tu sĩ lẫn bề trên, phải công nhận rằng có khi đã dốc hết mọi phương cách để thuyết phục, thì họ không thể làm gì hơn nữa, vì không thể dựa trên những luật lệ, quy tắc để điều chỉnh những sai trái, hoặc những tính bất toàn của tu sĩ. Nếu căng qúa thì chỉ làm cho càng thêm căng thẳng mà thôi, dù biết rằng người tu sĩ đó đang có hành vi sai trái nào đó sẽ gặp những khó khăn, thử thách trong đời tu (chẳng hạn như bất an, cảm thấy cô đơn, cảm thấy đời tu mất ý nghĩa, khi họ chỉ muốn chạy theo những công việc, hành xử theo cách rất đời của họ) (F. D. Martinez, tr.267).
g. Tuân phục và hy tế
Khi xét tuân phục trong chiều kích thánh hiến, chúng ta muốn xét trong ý nghĩa của đời tu trì: người tu sĩ thánh hiến toàn bộ cuộc đời để phục vụ Thiên Chúa và tha nhân. Cũng có thể xét theo khía cạnh thờ phượng, lời khấn này nói lên hy lễ cuộc đời của người tu sĩ, như một hy lễ dâng trọn vẹn lên Chúa, và không dành lại cho mình một điều gì cả.
Trong hy lễ đền tội mà Đức Giêsu đã dâng lên Thiên Chúa Cha, sự tuân phục của Người là một lễ hy sinh cao độ. Xét theo chiều kích tư tế, lễ vật dâng lên Chúa được gọi là của thánh. Sự thánh thiêng được tập trung trong cuộc đời Đức Giêsu: hy lễ toàn thiêu, hy lễ đền tội Người đã dâng lên Thiên Chúa trên thập giá. Chính hy lễ này được thực hiện trong tuân phục và yêu thương. Người vừa là tư tế, vừa là bàn thờ, vừa là của lễ. Hy lễ Người dâng một lần là đủ. Đây cũng chính là tuân phục và phụng tự đích thực của những ai theo Đức Giêsu.
Việc thánh hiến diễn ra nhờ việc chu toàn trung tín dự phóng cuộc đời mà chúng ta tuyên khấn vào một thời điểm nhất định (F. D. Martinez, tr.273). Hy lễ đẹp lòng Chúa là tấm lòng nhân từ (Mt 12,6-7; Hs 6,6). Hành vi thánh thiêng đích thực chính là dâng đời mình để phục vụ Chúa và tha nhân. Đức Giêsu và các môn đệ đã thực hiện được điều đó, và cuối cuộc đời tại thế, Người đã dâng hy lễ lên Chúa Cha qua hành vi tuân phục và yêu mến.
Như vậy, xét theo lối nhìn về hồng ân, đời thánh hiến không chỉ dừng lại ở nghi thức khấn, mà là cả cuộc đời người tu sĩ. Hoạt động phụng tự thường ngày của tu sĩ nói lên nhiệm vụ của đời thánh hiến, nhưng hơn cả nhiệm vụ nữa, đó chính là cuộc đời của những kẻ đi theo Đức Giêsu. Từ đó, việc thánh hiến cho Thiên Chúa cuộc đời mình là cho sứ vụ. Đức vâng phục không thể được coi là nằm bên lề sứ vụ, nhưng phải thể hiện cụ thể giá trị của lời khấn trong sứ vụ mình thực hiện.
Tuân phục, xét như phục tùng Thiên Chúa, không chỉ dành riêng cho đời tu, mà còn cho mọi người. Nhưng trong đời tu, từ bỏ mọi sự để đi theo Chúa, vác thập giá mình mà theo Người, là muốn hoạ lại trong đời mình con đường thập giá. Cấp độ vâng phục bắt đầu từ vâng phục Thiên Chúa, tuân phục là tiến bước trong đức tin, trong sự trung tín trên con đường Chúa đi, theo mệnh lệnh Chúa truyền làm việc thiện. Từ bỏ không phải là mục tiêu cuối cùng của tuân phục, nhưng là điều kiện để đi theo Chúa. Câu chuyện chàng thanh niên giàu có trong Tin Mừng là một điển hình (Mt 19,16-22). Từ bỏ trong đời tu bao gồm sự từ bỏ như các môn đệ của Chúa: từ bỏ sở hữu, nghề nghiệp, gia đình (Mt 4,22). Kế đó là tuân phục Hiến Pháp, Luật lệ Dòng; cụ thể hơn, đó là tuân phục bề trên hợp pháp trong chân lý và điều thiện hảo. Người tu sĩ, khi tuân phục theo gương Đức Giêsu, không chỉ thu gọn vào việc chu toàn những lệnh truyền bên ngoài, nhưng còn nhắm đến sự tự do cao hơn (F. D. Martinez, tr.281).
Đức Giêsu muốn làm sáng tỏ tuyệt đối thánh ý của Thiên Chúa: Những quy định, luật lệ do con người đặt ra phải thể hiện luật lệ của Thiên Chúa. Từ đó, chúng ta thấy rằng hành vi và cách sống của Đức Giêsu phản chiếu thái độ tuân phục Thánh Ý, dẫn đến hành vi tế tự cao cả nhất, đó là tự hiến trên Thập Giá để chu toàn Thánh Ý Chúa Cha, qua sứ vụ cứu độ. Thư gửi tín hữu Hípri cho thấy chiều kích sâu sắc của bài học vâng phục nơi Đức Giêsu:
Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giêsu đã lớn tiếng kên van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết. Người đã được nhậm lời, vì có lòng tôn kính. Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục, và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người, vì Người đã được Thiên Chúa tôn xưng là Thượng Tế theo phẩm trật Menkixêđê. (Dt 5,7-10).
Tác giả thư Hípri trình bày Đức Giêsu là mẫu gương đích thực của đức tin, lòng trung thành và đức tuân phục. Và sự tuân phục này được hoàn tất trong chính hy lễ hiến dâng chính mạng sống Người.
Trở lại với vấn đề vâng phục và hy lễ, chúng ta cũng biết điều này đụng đến tự do của con người. Dùng tự do Chúa ban để tự đứng vững và thăng tiến trên đường nhân đức là điều quan trọng của hành trình người môn đệ Đức Kitô. Nhưng tính ích kỷ, tự ái, … là những khuynh hướng của con người đối lại với cách sống của “con người mới” trong Đức Kitô. Cảm nghiệm gánh nặng xác thịt, khuynh hướng khép kín nơi bản thân, lợi ích riêng,… là chuyện con người. Thường những tính xấu này là vô thức, hoặc ẩn dấu dưới dạng biện minh, hoặc nhân danh công lý, nhân danh những điều thiện, vvv để hành xử. Tuân phục sẽ giúp người tu sĩ biết mở ra với Lời Chúa, trở nên “ngoan ngoãn” trước sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Việc biện phân ý Chúa có thể thực hiện qua vị linh hướng.
Hướng tới sự hoàn thiện của đời thánh hiến, đức vâng phục giúp chúng ta theo Đức Giêsu ngày một sát hơn. Sự lớn mạnh của một nhân đức hệ tại việc người tu sĩ dám từ bỏ vì lòng mến để đi theo Chúa. Đức vâng phục được xem là nhân đức cao nhất, vì nó liên quan mật thiết đến lòng mến.
2. Khó nghèo và giàu sang vì Nước Trời
a. Từ bỏ để thanh thoát đi theo Đức Giêsu (Mt 19,16-26)
Khó nghèo luôn là một thành tố chủ yếu trong đời tu. Nếp sống nghèo khó trong đời tu hoạ lại nếp sống của các Tông Đồ (Vita apostolica). Thực hành khó nghèo là tinh thần chính yếu trong việc loan báo Tin Mừng: Đức khó nghèo trong đời tu là bằng chứng sống động trong lời giảng về Đức Giêsu như một người nghèo khó. Như chúng ta sẽ nói đến sau này, đức khó nghèo không phải thuần tuý nhắm đến mục tiêu luân lý là làm gương sáng; nhưng tiên vàn mang tính thần học về nếp sống của các Tông Đồ: loan báo Tin Mừng bằng chính cuộc sống của người tu sĩ. Khó nghèo tinh thần phải là kết quả của việc cảm nghiệm Thiên Chúa và mở ra con đường hướng tới cảm nghiệm về tình thương của Người. Đức Giêsu, người nghèo của Đức Chúa, đã chọn con đường khiêm hạ và khó nghèo: sinh ra nơi máng cỏ bò lừa, ẩn dật ở Nazaréth, và cuối cùng là cái chết trên thập giá.
Con đường theo Đức Kitô làm môn đệ của Người dẫn người tu sĩ đạt dần đến cấp độ cao, giúp họ thoát ra khỏi những hạn chế của bản thân, khỏi những ràng buộc của qúa khứ và truyền thống, những định chế, quan tâm, dự phóng của cá nhân, những an toàn định chế (nghề nghiệp, gia đình, dự trữ, vvv), và ngay cả những quan tâm và dự phóng của bản thân, để đạt đến tinh tần từ bỏ như Đức Giêsu, Đấng đã tự hạ (kenosis) đến nỗi bằng lòng hy sinh cho chương trình của Chúa Cha được thực hiện. Vì vậy, việc giữ Ba Lời Khuyên Tin Mừng liên quan đến đức tin hơn là chỉ nhấn mạnh vào việc từ bỏ.
b. Dấu chỉ của người môn đệ Đức Kitô (dấu chỉ mâu thuẫn)
Đời tu là một dấu chỉ về Nước Trời đang hiện diện; nó diễn tả căn tính của người môn đệ Đức Kitô. Trong xã hội văn minh, hiện đại, dấu chỉ này càng trở nên khẩn thiết hơn bao giờ hết. Vào đầu thời Trung Cổ, Giáo Hội được nhìn là giàu sang bởi những cơ ngơi của mình. Nhưng tự bản chất, Giáo Hội vẫn luôn muốn thi hành sứ vụ bên cạnh những người nghèo, nghèo vật chất lẫn nghèo tinh thần. Vấn đề nghèo khó ảnh hưởng đến mọi khía cạnh của đời tu: con người, công việc, đời sống cộng đoàn, sứ vụ, nếp sống, việc quản trị, vvv. Chắc chắn không ai trong chúng ta tránh được những câu hỏi nhức nhối liên quan đến vấn đề này. Nhưng đâu là điều giúp chúng ta định hướng công việc, hành vi, đời sống của mình xét như môn đệ Đức Kitô? Điều đầu tiên cần nhấn mạnh: dấu chỉ Tin Mừng về sự nghèo khó vẫn luôn cần thiết, nhất là trong một thời đại mà xã hội văn minh hiện đại phát triển tính theo ngày, theo tháng. Mọi canh tân trong Giáo Hội đều khởi sự bằng việc kêu gọi trở về với đức khó nghèo Tin Mừng. Cuộc canh tân Thời Trung Cổ với hai Dòng Hành Khất là điển hình cho dòng chảy suy tư và canh tân về nguồn này. Khái niệm khó nghèo trong Cựu Ước nói đến nghĩa tiêu cực: là sự bất hạnh (trái với giàu có, con đông là ân lộc Chúa ban). Nhưng với Đức Kitô, tinh thần khó nghèo là điều kiện để người môn đệ có thể đi theo Thầy cách triệt để, cống hiến trọn vẹn cho sứ vụ loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa.
c. Môn đệ và sự từ bỏ (locus incertus: một nơi ở bất định)
Từ bỏ vật chất để theo Chúa không phải là cùng đích của đời tu, nhưng là điều kiện để theo Chúa. Người môn đệ đặt hết tin tưởng và phó thác sự an toàn của mình nơi Thiên Chúa. Hoa trái của việc từ bỏ thực sự giúp người tu sĩ đụng chạm đến ý nghĩa của sự từ bỏ theo Tin Mừng: Ý thức được sứ vụ mình phải đảm nhận, và học biết cảm nhận về Đức Kitô, cũng như khám phá ra giá trị của Nước Trời trong nếp sống tu trì; như lời Đức Giêsu nói với anh nhà giàu về những gì anh cần phải làm: Theo Chúa để được sự sống vĩnh cửu trong Nước Trời. Nói cách khác, tinh thần khó nghèo qua lời khấn có liên quan đến ơn cứu độ: Khó nghèo để trở nên tự do đi theo Thầy Giêsu, để được sự sống đời đời.
d. Khó nghèo và giàu sang vì Nước Trời
Lời khấn khó nghèo trong đời tu liên quan đến hai yếu tố tìm thấy trong Tin Mừng: Tin tưởng vào sự Quan Phòng của Thiên Chúa và tránh thờ ngẫu tượng là tiền tài danh vọng. Khi biết từ bỏ sự an toàn vật chất qua lời khấn khó nghèo, người tu sĩ trở nên thanh thoát cho việc đi theo Chúa. Trong thực tế, ngoài giá trị của từ bỏ để thanh thoát theo Chúa, lời khấn này còn hướng người tu sĩ đến tha nhân, theo trật tự của Đức Ái (Đức Ái cận thân): Cộng đoàn, anh em trong cộng đoàn, gia đình người thân, người nghèo.
Tương quan với cộng đoàn: Thái độ tin tưởng này cần phải được các cộng đoàn tu trì lưu tâm để ý, nhất là những ai giữ việc quản trị và quản lý tài sản chung. Trước hết, một khi tu sĩ tín thác cho Chúa tương lai của mình, thì một cách gián tiếp, họ tín thác cuộc đời trong Hội Dòng. Do vậy, cộng đoàn có bổn phận lo cho thành viên của mình cách đầy đủ nhất có thể: cả về vật chất lẫn tinh thần. Nếu cộng đoàn chu cấp đủ cho thành viên của mình những nhu cầu cần thiết, theo khả năng thực tế của cộng đoàn, thì các thành viên sẽ tránh được những cám dỗ khác liên quan đến vật chất. Nếu so với việc thực hành nhân đức, sống khó nghèo không xa với tinh thần khiêm nhường. Điều này giúp tu sĩ tránh sở hữu tài sản, và cả những ước muốn tài sản một cách hợp pháp nữa (phải xét trong từng bối cảnh). Từ bỏ sở hữu những vật dụng được coi là “xa sỉ” trong đời sống thường ngày là điều không thể thiếu để thực hiện tinh thần chung, đồng thời cũng giúp người tu sĩ loại trừ tận căn những tật xấu có liên quan. Trong truyền thống tu trì cổ kính, từ khi khấn trọn, người tu sĩ không còn dùng đến “quyền sở hữu”. Mọi sự được phép sử dụng (quyền sử dụng, ad usum) là để phục vụ cho công việc và sứ vụ. (ở đây phát sinh vấn đề lương tâm liên quan đến tài sản chung, chẳng hạn như: liệu tu sĩ có quyền tự tiện mang đồ dư của cộng đoàn phân phát cho người nghèo một cách tuỳ tiện hay không?)
Tuy nhiên, về phía cá nhân trong cộng đoàn, họ cũng ý thức về giá trị tinh thần của lời khấn này. Cả cộng đoàn và cá nhân đều cùng chung nỗ lực sống tinh thần khó nghèo trong đời tu. Các thánh nhân đã sống và sống cách triệt để tinh thần này. Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu sống tinh thần từ bỏ, không chỉ là hài lòng với việc chấp nhận thiếu những vật chất mình thích có, mà còn dám chấp nhận thiếu điều gì mà có thể là cần thiết cho cuộc sống thường ngày. Chị thánh không chỉ hài lòng với việc tặng cho người khác điều họ xin, mà còn đi trước cả những ước mong của họ nữa, cụ thể là nếu ai đó muốn xin cả vật dụng mà thánh nữ đang cần dùng, ngài cũng vui lòng cho luôn. (x. Nhật ký một tâm hồn, ch. 7 và 9).
Trong Huấn Thị “Xuất Phát Lại từ Đức Kitô”, Thánh Bộ về Đời Sống Thánh Hiến và Tu Đoàn Tông Đồ nhắc lại rằng: Những người thánh hiến có thể và phải xuất phát lại từ Đức Ki-tô bởi vì chính Người đã đến với họ trước và đồng hành với họ trên đường (x. Lc 24,13-22). Cuộc sống của họ là lời loan báo chỗ đứng ưu việt của ân sủng. Không có Đức Ki-tô, họ không thể làm được gì (x. Ga 15,5); trong Người là Đấng ban sức mạnh, họ có thể làm mọi sự (x. Pl 4,13).
Xuất phát lại từ Đức Ki-tô có nghĩa là loan báo rằng đời sống thánh hiến là một cách đặc biệt đi theo Đức Ki-tô, “một ký ức sống động về lối sống và hành động của Đức Giê-su, Ngôi Lời nhập thể trong tương quan với Chúa Cha và với anh em Người”. Điều đó bao hàm một sự hiệp thông tình yêu đặc biệt với Đức Ki-tô, Đấng đã trở nên trung tâm của đời sống họ và nguồn mạch liên tục của mọi sáng kiến. Như tông huấn Đời sống thánh hiến nhắc nhở chúng ta, đó là một kinh nghiệm chia sẻ, “một ơn đặc biệt là sống trong tình thân thiết”. Đó là “trở nên một với Người, mang cùng những tâm tình, cùng một lối sống”, và đó là một cuộc sống “bị Đức Ki-tô chiếm hữu”, “được bàn tay Đức Ki-tô chạm đến, được tiếng nói của Người nhắn nhủ, được ân sủng của Người nâng đỡ”. (Nhật ký một tâm hồn, số 21-22).
Toàn thể đời sống thánh hiến chỉ có thể hiểu được từ khởi điểm này: Các lời khuyên phúc âm có một ý nghĩa trong mức độ chúng giúp gìn giữ và tạo thuận lợi cho tình yêu đối với Chúa trong sự ngoan ngoãn hoàn toàn đối với thánh ý Người. Xuất phát lại từ Đức Ki-tô có nghĩa tìm lại một lần nữa tình yêu ban đầu của ta, tia sáng lôi cuốn làm ta đứng lên đi theo Người. Bước đầu là tình yêu của Thiên Chúa; bước kế tiếp mới là sự đáp trả đầy lòng yêu mến đối với tình yêu Thiên Chúa. Nếu “chúng ta yêu mến” đó là vì “Người đã yêu chúng ta trước” (1Ga 4,10.19). Điều đó có nghĩa là nhìn nhận Người yêu ta với cái ý thức sâu đậm đã làm cho thánh Phao-lô thốt lên: “Đức Ki-tô đã yêu tôi và đã hiến mạng sống cho tôi.” (Gl 2,20). (x. Nhật ký một tâm hồn, số 22).
Chỉ khi ý thức mình được Thiên Chúa yêu thương vô cùng mới có thể giúp chúng ta vượt thắng mọi khó khăn riêng tư hay do cơ cấu. Người thánh hiến không thể có tính sáng tạo, có khả năng canh tân tu hội và mở ra những con đường mục vụ mới nếu họ không cảm thấy được yêu mến với tình yêu ấy. Chính tình yêu ấy làm cho họ trở nên mạnh mẽ, có thể dám làm mọi sự. Các lời khấn mà ta đã tuyên hứa để sống các lời khuyên phúc âm đem lại cho lời đáp trả tình yêu tất cả tính triệt để của nó. Lời khấn nghèo khó giải thoát ta khỏi nô lệ các sự vật và các nhu cầu giả tạo đang lôi cuốn xã hội tiêu dùng và dẫn ta đến việc tái khám phá Đức Ki-tô, kho tàng duy nhất đáng để ta tìm kiếm.[5] Tuy nhiên, ngay cả trong việc luyện nhân đức, cũng luôn lưu tâm đến đức Ái (đặc biệt quan tâm đến tu sĩ bệnh và cao niên).
Liên đới huynh đệ: Một khía cạnh khác cần được lưu ý trong cộng đoàn: tình liên đới, chia sẻ huynh đệ. Những biến chứng có thể có trong cộng đoàn là hiện tượng cái tôi, quy ngã. Tích lũy của cải cho cá nhân, chia rẽ, xung đột có thể thấy trong các gia đình, bởi vật chất gây ảnh hưởng; nhưng trong đời tu, cần phải tránh hết sức những thái độ hoặc khuynh hướng xấu đó.
Với tha nhân: Vấn đề còn lại cần bàn ở đây liên quan đến vật chất là chuyện chia sẻ của cải cho người nghèo. Cơ bản là cộng đoàn nghèo của Tin Mừng. Người nghèo thì đáng thương trước nhan Thiên Chúa. Ở một góc độ nào đó, sự liên đới và chia sẻ của cải liên quan đến ơn cứu độ. Dĩ nhiên là người ta không thể dùng tiền của để mua ơn cứu độ, nhưng việc chia sẻ liên đới giúp con người mở ra với tha nhân: Giakêu là một điển hình; ông tìm lại được sự công chính, mở ra với tha nhân, và Chúa Giêsu nói cho ông biết nhà ông được ơn cứu độ.
Tinh thần Tin Mừng cho thấy Đức Giêsu chọn nghèo khó bởi “lương thực nuôi sống Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai thầy, và hoàn tất công việc của Người.” (Ga 4,34). Nước Trời luôn là trọng tâm, và người nghèo luôn là đối tượng của Nước Trời. Hơn nữa, tín thác vào sự Quan Phòng của Thiên Chúa mời gọi tu sĩ dấn thân vào trong đời sống thiêng liêng, điều này giúp chúng ta vượt qua những hình thức qúa lo lắng về vật chất.
3. Khiết tịnh và tự do vì Nước Trời
Nói về lời khấn khiết tịnh, quả là vấn đề. Một cha cao niên, rất giàu kinh nghiệm đào tạo, đã chia sẻ thế này: Khi dạy giáo lý cho trẻ em, người ta thường lật nhanh những trang nói về Điều Răn Thứ Sáu. Quan niệm này ngày nay đã lỗi thời, vì cách hiểu về lời khấn khiết tịnh tìm được chỗ đứng trong đời tu, và chỗ đứng rất quan trọng, bởi điều này liên quan đến tình cảm và bản tính của con người nói chung. Trong ánh sáng Tin Mừng, người ta nhìn vấn đề này không chỉ là những chuyện “cấm kỵ”, nhưng còn hướng đến giá trị của sự thanh tịnh tâm hồn người môn đệ Đức Kitô. Trong chiều kích Giáo Hội Học, người ta tìm thấy giá trị thánh thiêng mà Giáo Hội ấp ủ và kêu gọi con cái sống: Nên thánh như Thủ Lãnh của Giáo Hội là Đức Kitô, Đấng Chí Thánh.
Trong Tin Mừng, trình thuật về những cơn cám dỗ mà Đức Giêsu đã phải đối diện không nói đến cơn cám dỗ này. Đoạn Tin Mừng Mt 4, 1-11 cho thấy những cám dỗ cản trở đường hoạt động sứ vụ của Đức Kitô là: sở hữu, vinh quang, quyền lực; mà không thấy nói về khoái lạc. Trên bước đường đi theo Chúa, các môn đệ được mời gọi từ bỏ mọi sự, trong đó có gia đình. Mục tiêu của từ bỏ là để đi theo Chúa cách triệt để hơn. Nếu xét theo cái nhìn về tội, thì những khuynh hướng về tình yêu đôi lứa, tình cảm và gia đình không phát xuất từ Tội Nguyên Tổ, bởi tội này có gốc rễ từ sự không tuân phục Thiên Chúa. Vậy đâu là ý nghĩa của lời khấn khiết tịnh?
Xét ra, nếu nói đến lời khấn này, chúng ta thấy liên quan đến hai chữ yêu thương. Chúng ta có khuân mẫu yêu thương tuyệt vời nhất là Đức Kitô, Đấng đã yêu thương Hội Thánh và hiến mình vì Hội Thánh.
a. Đức Kitô đã yêu thương cho đến cùng (Ga 13,1)
Trong Tin Mừng, Đức Giêsu cho các môn đệ biết giá trị của tình yêu thương. Dĩ nhiên là việc thảo kính cha mẹ, yêu thương đồng loại là điều cao trọng trong giới luật yêu thương. Nhưng Đức Giêsu cũng cho các môn đệ biết trật tự của yêu thương: “Ai yêu thương cha mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy; ai yêu con trai, con gái hơn Thầy, thì không xứng với Thầy; ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy” (Mt 10,37-38). Điểm nhấn mạnh ở đây hệ tại việc thanh thoát để đi theo Chúa. Những giá trị, an toàn về tình cảm và định chế của đơn vị gia đình và những trung thành với gia đình (vốn dĩ là quý) có thể làm giảm bớt tự do trong việc làm môn đệ Đức Kitô. Tin Mừng cho thấy Đức Giêsu vẫn có những mối tương giao với nhiều người: Mẹ, anh em, các môn đệ, người thân. Thái độ của Người không làm “xơ cứng” những tương quan này; nhưng trái lại, Người mở ra mối tương quan mới, cao thượng hơn: Vì Nước Trời.
Độc thân vì Nước Trời là một đặc ân. Đời sống này có nguồn gốc từ cảm nghiệm về tình yêu Chúa, một cảm nghiệm thần học mà mỗi người có ơn gọi tu trì được mời gọi đào sâu và tiến bước theo Chúa. Đức Giêsu đã yêu mến Thiên Chúa Cha đến độ thực hiện hành vi vâng phục tột đỉnh là chịu chết trên thập tự. Tình yêu đó dành cho Thiên Chúa và cho con người mạnh mẽ đến độ không còn điều gì ngăn cản được nhiệt thành của Người cho sứ vụ cứu độ.
b. Lời mời gọi làm môn đệ
Sống thanh sạch, một khái niệm có tính luân lý mang phạm vi rộng hơn khái niệm khiết tịnh, không chỉ dành cho đời tu, mà cho mọi Kitô hữu, dù sống trong bất kỳ bậc sống nào. Riêng trong đời tu, đức khiết tịnh có một chỗ quan trọng. Thời đầu của Giáo Hội, bậc sống của các trinh nữ được đặt ngang hàng với tử đạo: đó là con đường khó để đi theo Chúa Giêsu. Sau các cuộc bách đạo, bậc sống này được ca ngợi như bằng chứng cao cả cho tình yêu Thiên Chúa. Đây là một dạng khổ chế chuyên biệt thời đầu lịch sử đời tu.
Nếu nhìn lời khấn này theo quan niệm sạch/dơ, người ta thường nhấn mạnh về chiều kích thanh sạch, đối lại với khái niệm dơ bẩn. Và điều thanh sạch đang nói đến đó là sự thánh thiêng trong việc tế tự. Sự thánh thiêng đến từ Thiên Chúa. Theo hướng này, những người thánh hiến coi nhân đức này là giá trị nhất, và nếu đi ngược lại với nó, chẳng hạn như tâm hồn, lời nói, hoặc hành động không thanh tịnh, là đáng ghê sợ. Những trường hợp vi phạm thường gây cho đương sự bối rối, đau khổ (F. D. Martinez, tr. 220). Thường thì khuynh hướng này đề nghị cho các huấn sinh những phương pháp ngăn ngừa, những hình thức tự kỷ luật, cấm đoán để bảo vệ nhân đức này. Theo cách nhìn này, người ta thấy được ưu điểm là phòng ngừa được những nguy cơ có thể xảy đến, giúp tu sĩ ý thức thân phận mỏng dòn của của con người, với bản tính nhân loại yếu đuối vì tội lỗi; nhưng cách này chưa diễn tả hết yếu tố quan trọng của đời tu: tình yêu mến và lòng tự nguyện đi theo Đức Giêsu.
Để bổ túc cho khuynh hướng nói trên, có một cách nhìn theo chiều kích hồng ân. Đời tu là đi theo Chúa. Người môn đệ của Đức Kitô được mời gọi đi theo đường hẹp, tuy khó khăn (và có vẻ là khác thường), nhưng nhờ hồng ân Chúa trợ giúp mà người tu sĩ cố gắng trung thành trong đời tu trì. Đời sống khiết tịnh là một dấu chỉ về hồng ân Thiên Chúa ban, và là một dấu chỉ cánh chung về Nước Trời đang hiện diện.
Như vậy, hai đặc điểm của lời khấn khiết tịnh theo Tin Mừng: vì Nước Trời và là hồng ân. Nếu quên đặc điểm này, con người có nguy cơ quên đi mục đích của hành vi tự hiến tế trong đời tu, dễ dàng ỉ vào sức mình, tự loay hoay với khả năng chống chọi của mình, và nếu thất bại, sẽ rơi vào thất vọng.
c. Thanh thoát để đi theo Chúa
Đời tu tận hiến cho Chúa, cả thể xác lẫn tinh thần là nhắm đến việc loan báo Tin Mừng, như các môn đệ của Đức Giêsu. Việc tận hiến này vượt qúa sức con người, nên phải nhìn theo hướng ân ban của Thiên Chúa: Chúa chọn và Chúa giữ gìn. Khi tuyên khấn hoặc tuyên hứa trong lời khấn hoặc trong tác vụ (phó tế, linh mục, giám mục), thụ nhân luôn ý thức một điều: Nhờ ơn Chúa giúp, con xin hứa.
Do đó, khi dấn thân cho sứ vụ vì tình yêu, người tu sĩ không thể hờ hững với những người họ gặp, nhưng sẵn sàng đồng cảm và làm chứng về tình thương của Thiên Chúa dành cho con người. Sống cuộc đời thanh khiết, vui tươi, bằng tình huynh đệ, bằng sự trung tín sẽ là dấu chỉ của tình thương Thiên Chúa giữa lòng đời. Đích điểm của lời khấn này hệ tại việc giúp tu sĩ trở nên thanh thoát cho Nước Trời. Tình cảm gia đình, ngay cả tình yêu đôi lứa, luôn hàm chứa ít nhiều sự sở hữu hoặc riêng tư (một góc vườn riêng, nói theo kiểu thời nay, ngay cả trong đời sống gia đình).
Đời tu, một khi đi theo Chúa với trọn tâm hồn và thể xác, sẽ giúp tu sĩ thoát ra khỏi những “chấp hữu” đó, để toàn vẹn cuộc đời cho Chúa và cho sứ vụ. Tuy nhiên, cầu lưu ý đến khía cạnh quân bình của tình cảm, cũng như nét quân bình trong tương giao với tha nhân: đồng cảm với tha nhân để hiểu thân phận con người, để cảm thông với con người, nhưng vẫn phải giữ một khoảng cách nhất định bởi tính cấp bách và đòi hỏi của Tin Mừng. Về điều này, kỷ luật đời tu và các định chế trong nếp sống này có thể cho chúng ta hiểu rõ hơn về nếp sống: ở giữa thế gian, nhưng không thuộc về thế gian.
d. Cộng đoàn và đời sống thanh khiết
Nếu như xưa kia người ta nói đến chiều kích khổ chế và kỷ luật của lời khấn này là để thánh hoá bản thân, thì ngày nay người ta trình bày nó theo chiều kích cộng đoàn và sứ vụ. Đức Ái là điều mà ba lời khấn nhắm đến, thì với lời khấn khiết tịnh, Đức Ái càng đóng vai trò quan trọng, đặc biệt là trong cộng đoàn. Một cộng đoàn quy tụ những thành viên đến từ những gia đình khác nhau, sẽ có tính cách, tập tục, thói quen, … khác nhau. Nhưng những điểm khác biệt của từng cá nhân, vốn được coi là nét phong phú đa dạng cho cộng đoàn, có thể trở nên quà tặng cho cộng đoàn, và làm cộng đoàn nên phong phú. Cộng đoàn là môi trường để người tu sĩ thực hiện đức ái cụ thể nhất. Niềm vui, phong cách sống tốt của một cộng đoàn, vvv sẽ giúp tu sĩ coi tu viện là nhà, và cộng đoàn là gia đình của mình. Và ngược lại, những thành viên sống tốt trong cộng đoàn sẽ giúp cộng đoàn có được nét vui tươi, bình an, vvv. Những cơn khủng hoảng về ý nghĩa đời tu thường là nguyên cớ cho tu sĩ muốn đi tìm một hướng khác cho đời mình. Việc lơ là giữ kỷ luật đời tu dễ làm tu sĩ quên đi việc bổn phận và căn tính của mình. Nội vi, thời khắc trong ngày, các giờ Kinh Thần Vụ, là những yếu tố giúp tu sĩ sống chia sẻ được với nhau đời sống cộng đoàn, thì cũng là nơi giúp họ sống tích cực nhất đời sống thánh hiến.
Kỷ luật, khổ chế, giá trị luân lý vốn có giá trị trong đời sống tu trì. Nhưng tu sĩ cần hiểu rằng không có kỷ luật tu trì nào đủ sức biến việc giữ luật thành một cảm nghiệm Tin Mừng, nếu không hướng con người có thái độ tích cực và tự nguyện tuân giữ nếp sống tu trì. Nó có thể giúp tránh nguy hiểm, nhưng không đủ sức để thăng tiến tinh thần của đức khiết tịnh trong đức mến. Cộng đoàn tu trì kinh điển tìm mọi cách để bảo vệ đời sống độc thân của các thành viên, thường thì cách này được xem là cần thiết, hơn là nói về tính nhân đức: chuyện khắt khe về nội vi, về những mối quan hệ với trần gian, hạn chế qúa đáng những mối quan hệ bạn bè. Những điều này không phải là không có ý nghĩa. Nhưng những cảm nghiệm cộng đoàn với lối sống giản đơn, nhân bản hơn, tế nhị hơn sẽ giúp tu sĩ mở rộng tầm nhìn với thế giới bên ngoài, để hiểu thế giới, nhưng không bị những ảnh hưởng xấu tác động. Cộng đoàn kiểu mới này yêu sách hơn về ý thức tự do, trưởng thành, đòi phải có một nền đào tạo cứng cáp và chuyên biệt.
Cảm nghiệm thần học trong lời khấn này đòi hỏi một sự khiêm tốn thẳm sâu và một lương tâm trong sáng, luôn cảnh giác về những yếu đuối của mình. Óc thực tiễn và sáng suốt là cần để vượt qua những cơn khủng hoảng tình cảm. Để củng cố sự trung kiên trong đời tu, ngoài ơn Chúa ban, tu sĩ cần duy trì đời sống cầu nguyện liên lỉ, tăng thêm tình bạn và tình huynh đệ trong cộng đoàn, biết lắng nghe và có khả năng tha thứ. Trưởng thành nhân bản và tình cảm cũng là điều cần lưu ý, để tu sĩ tự rèn luyện con người mình trong hành vi, lời nói, và chừng mực trong các mối tương giao; đồng thời cũng không loại trừ những phương thức giải trí lành mạnh, hầu giúp cho sự quân bình nơi bản thân người tu sĩ, từ thân xác đến tinh thần và nếp sống.
IV. CHỨNG TÁ CỦA NIỀM HY VỌNG
Trong những điểm mà Đức Thánh Cha Phanxicô mong đợi nơi các tu sĩ, thì niềm vui và hy vọng được nhấn mạnh cách đặc biệt. Cùng tinh thần của Tông Huấn Evangelii Gaudium, Đức Thánh Cha nói đến niềm vui nội tại, được tìm thấy và nuôi dưỡng trong đời tu.
Cả một nhân loại đang chờ đợi: những người đã mất hết hy vọng, những gia đình đang gặp khó khăn, những trẻ thơ bị bỏ rơi, các bạn trẻ gặp ngõ cụt trước tương lai, những người già lão bệnh tật bị loại trừ, những người giàu của cải nhưng trống rỗng trong lòng, những người đang tìm ý nghĩa cuộc đời, khao khát đời tâm linh... Anh chị em đừng khép lại trong chính mình, đừng để mình bị ngột ngạt với những chuyện lẩm cẩm trong nhà, đừng bị giam hãm trong những vấn đề nội bộ. Những vấn đề này sẽ được giải quyết nếu anh chị em đi ra ngoài để giúp những người khác giải quyết những vấn đề của họ và loan báo Tin mừng. Anh chị em sẽ tìm thấy sự sống khi ban phát sự sống, tìm thấy hy vọng khi ban phát hy vọng, tìm thấy tình thương bằng cách yêu thương. (NTH, II.4).
Lời mời gọi này thúc giục anh em chúng ta khơi nguồn Linh Đạo Đa Minh, kín múc từ Thánh Kinh niềm vui ngọt ngào của Lời Chúa, với niềm say mê Tin Mừng xưa đã đốt cháy tâm hồn Cha Thánh Đa Minh, khiến Cha Thánh đã không chỉ sống hết mình vì Tin Mừng, mà còn hết mình trong sứ vụ loan báo Lời Chúa cho tha nhân: Lời kết hiệp, Lời an ủi, Lời chữa lành, Lời yêu thương, Lời sự sống,…
Tu Viện Thánh Vinh Sơn Liêm, ngày 28.2.2015
Ts. Đa Minh Nguyễn Hữu Cường, O.P.
Ts. Đa Minh Nguyễn Hữu Cường, O.P.
[1] F. D. Martinez, Refounding Religious Life, Charismatic Life and Prophetic Mission, ICLA 2000, bản tiếng việt của Giuse Đỗ Ngọc Bảo, Đời Tu gạn đục khơi trong, 2006, tr. 128-129.
[2] Dom Marie Gabriel Sortais, Les choses qui plaissent Dieu, tr. 174.
[3] Sđd., tr. 175.
[4] Nghĩa của từ quyền bính được dùng ở đây hiểu theo nghĩa quyền và nghĩa vụ quản trị trong cộng đoàn.
[5] Sđd.