29/08/2011 -

Suy tư, nghiên cứu

1232

 


 


Đức Khó Nghèo Vì Nước Trời


 


Phần 1: Nghèo như Đức Giêsu, Đức Maria và các Tông đồ





Nền Tảng Thần Học Kinh Thánh về Đức Khó Nghèo


Đức khó nghèo của chúng ta dựa trên nền tảng bao gồm ba yếu tố: đức khó nghèo của Chúa Giêsu, Đấng công bố Tin mừng Nước Trời, đức khó nghèo của Đức Maria, người nghèo nhất trong số những người nghèo của Giavê, và sau cùng, đức khó nghèo của các tông đồ.


1. Đức khó nghèo của Đức Giêsu



1.1. Như sự tự hủy


Theo cách giải thích của thánh Phaolô, chúng ta có thể khởi đi từ sự khó nghèo của Đức Giêsu. Ngài đặt sự khó nghèo này trong toàn bộ khung cảnh mầu nhiệm Đức Giêsu, như chúng ta thấy trong thư thứ hai gởi tín hữu Côrinthô: “Quả thật, anh em biết Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, đã có lòng quảng đại như thế nào: Người vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có” (2Cr 8,9).


Mục đích của những cử chỉ, lời nói và cuộc đời của Đức Giêsu chỉ có thể được khám phá dưới ánh sáng của biến cố Vượt qua. Biến cố này vừa tỏ lộ viễn tượng về cuộc đời Đức Giêsu, vừa là tiêu chuẩn đặc thù để hiểu sự khó nghèo của Ngài.


Biến cố Phục sinh đã hiển lộ sự thật về con người Đức Giêsu Nazareth: Ngài không chỉ là ngôn sứ, mà còn là đấng Mêsia, là Con Thiên Chúa và là Chúa của mọi loài vì Chúa Cha đã trao cho Ngài mọi quyền năng trên trời dưới đất. Theo thánh Phaolô, chỉ trong Đức Giêsu Kitô, những kẻ giàu có của thời cánh chung mới thực sự là người giàu có. Nhưng theo con mắt người đời, họ là những người nghèo khó triệt để và điên rồ(x. 1Cr 1,23; 3,18), bởi vì thế gian không hiểu bản chất đích thực của vấn đề.


Đức Giêsu Kitô,vốn là đấng giàu có, đã trở nên nghèo để làm cho thế gian giàu có nhờ sự nghèo khó của Ngài. Vì khi sống giữa chúng ta Ngài đã không dùng những đặc quyền vốn thuộc về mình; Ngài đã không xuất hiện như “Chúa”, mà như “người tôi tớ”, như kẻ nô lệ. Ngài đã không biểu lộ những đặc quyền vốn thuộc Thiên tính của Ngài. Hơn nữa, Ngài mặc lấy “thân xác tội lỗi” như thân xác của chúng ta (x. Rm 8,3tt), và mang lấy gánh nặng của tội và án phạt của chúng ta.[1] Mầu nhiệm nhập thể đạt đến đỉnh cao qua việc “tự hạ”: Đức Giêsu đã trở nên người tôi tớ của Thiên Chúa; như một người tôi tớ Ngài đã vâng lời cho đến chết, thậm chí là cái chết xấu xa và ô nhục trên thập giá (x. Pl 2,5-11).[2] Để phục vụ, Ngài đã “hóa mình ra không”. Đối với những kẻ bị giam cầm trong của cải và cái tôi ích kỷ, con đường tự hủy thực sự là một sự chướng kỳ. Mầu nhiệm nhập thể ở đây, được hiểu như hành động vĩ đại qua việc Con Thiên Chúa tự nguyện trở nên khó nghèo, Ngài chọn cái nghèo làm lẽ sống thay vì sự giàu sang. Đức Kitô từ bỏ sự giàu sang trên trời là vinh quang Thiên tính của Ngài, chọn trở nên nghèo khó và xuất hiện trong thân phận người nghèo. Điều ấy có nghĩa là Ngài đã rộng lượng ban cho nhân loại của cải trên trời.[3] Theo thánh Phaolô, việc Đức Kitô nhập thể không làm giàu thêm cho thân xác Ngài. Cho đến khi chết, thân xác Ngài vẫn chỉ là “thân xác  đầy tội lỗi”, ở trong tình trạng yếu đuối. Đức Giêsu đã khởi đầu sự nghèo khó của Ngài bằng việc tự ý thực thi chương trình của Chúa Cha và dấn thân cho nhân loại. “Ở đây, hơn cả sự trần trụi, Đức Giêsu là người nghèo. Ngài nghèo trong tâm hồn để nhờ đó hiệp thông với ý định của Chúa Cha và chia sẻ số phận với anh chị em mình. Đức Giêsu nghèo nếm trải những hệ luỵ tột cùng của việc nhập thể trong thân xác đầy tội lỗi”.[4]


Để tưởng thưởng sự tự hủy, Chúa Cha đã siêu tôn Ngài và tặng ban cho Ngài danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu. Chỉ qua sự phục sinh thân xác Ngài được Thần khí biến đổi mới trở nên bất tử. Bằng việc nối kết mầu nhiệm nhập thể và phục sinh, các Giáo phụ quả quyết rằng qua biến cố nhập thể, Lời đã đón nhận chúng ta vào trong Ngài: “Tuy giàu có, Ngài đã trở nên nghèo nàn để ban cho chúng ta sự giàu có của Ngài, và qua thân xác ấy mà Ngài đã chiếm lấy, đã mặc lấy tất cả chúng ta thành chính Ngài”.[5]


Sau khi phục sinh, Đức Giêsu đã nhận được quyền năng hầu phân phát sự giàu có của Thiên tính Ngài. “Xem ra hình ảnh Đức Kitô đã tỏ lộ cho thánh Phaolô lề luật mang tính cứu độ, theo đó Ngài từ bỏ quyền lợi của mình để làm cho những người khác được giàu thêm… Sự giàu có đích thật là tình yêu được biểu lộ bằng quà tặng của bản thân; khi bước theo Đức Giêsu… lòng yêu thương được giải thoát khỏi của cải và những quyền lực xấu xa của thế gian, đồng thời tin chắc rằng Thiên Chúa sẽ lo cho ta mọi nhu cầu theo mức độ lượng vinh quang dồi dào của Ngài”.[6]


Nền tảng Kitô học về đức khó nghèo của chúng ta phải được giải thích trong bối cảnh thần học này. Thánh Phaolô đặt nổi nét tương phản giữa sự nghèo khó của Đức Giêsu lịch sử với sự giàu có mà Ngài đã ban chính mình cho chúng ta,[7] sự giàu có ấy tạo cho chúng ta quyền thừa kế. Vì chúng ta, xét như phàm nhân, là những kẻ hoàn toàn nghèo nàn, đã bị tước hết quyền sở hữu mọi thứ,  không có tương lai. Vì thế Ngài nói: “anh em biết Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, đã có lòng quảng đại thế nào: Người vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có” (2Cr 8,9).


1.2. Như một cách thế rao giảng Tin mừng


Thánh sử Luca cho chúng ta thấy Đức Giêsu là vị ngôn sứ chung quyết. Ngài đi hết thành này đến thành khác, từ làng này sang làng khác, loan báo và công bố Tin mừng Nước Thiên Chúa (Lc 8,1). Có một số người đi theo Ngài, ấy là nhóm Mười Hai và một vài phụ nữ đã chăm sóc, cấp dưỡng cho Ngài bằng của cải của họ.


Có thể diễn tả sự nghèo khó của Đức Giêsu lịch sử bằng một câu vắn tắt nhưng đầy ý nghĩa: “Khi rao giảng Tin mừng, Người không có cái gì để tựa đầu” (Evangelizans regnum, non habebat ubi reclinaret caput suum) (Lc 9,58). Đức Giêsu đã không thi hành sứ vụ của Ngài bằng những phương tiện do ma quỷ đề nghị với Ngài qua bản miêu tả có tính cách biểu tượng về những cám dỗ. Hơn nữa, Ngài đã khước từ việc tự khẳng định, sự khoe khoang quyền lực và sức hấp dẫn của giàu sang. Và Ngài không ngần ngại phó thác đời mình cho tình yêu thương quan phòng của Chúa Cha. Khởi sự việc công khai loan báo Tin mừng, Ngài rời bỏ gia đình, nhà cửa, của cải, nghề nghiệp để bắt đầu hướng đến một cuộc sống lưu động và thường xuyên phục vụ những người khác. Theo thánh sử Luca, việc rong ruổi truyền giáo của Đức Giêsu có mục tiêu duy nhất: Giêrusalem, nơi Ngài sẽ hoàn tất việc phục vụ trong cuộc thương khó,[8] chết và được tôn vinh: “Khi tới ngày được cất ra khỏi thế gian này, Ngài nhất quyết đi lên Giêrusalem. Ngài sai mấy sứ giả đi trước.” (Lc 9,51tt).


Bước theo Đức Giêsu lưu động nghĩa là bước cạnh Ngài trong hành trình lên Giêrusalem. Với những ai đã gặp gỡ và xin theo Ngài, Đức Giêsu tỏ lộ cho họ thấy ý nghĩa và điểm cốt lõi về lối sống của Ngài. Với “một người trong nhóm tiến lại gần Ngài”[9] và đã thưa với Ngài, “Thầy đi đâu, tôi cũng xin đi theo” (Lc 9,57), Đức Giêsu bảo: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (Lc 9,58; Mt 8,20).


Kiểu nói Sêmít gồm ba câu Đức Giêsu dùng, trong đó câu thứ ba tương phản với hai câu đầu càng nhấn mạnh ý nghĩa so sánh: Đức Giêsu, Con Người, đã không có hang mà cũng chẳng có tổ cho mình, nghĩa là Ngài không có nhà mà cũng chẳng có mái ấm.[10] Hay nói theo kiểu Thánh vịnh: “Ngay chim sẻ còn tìm được mái ấm, cánh nhạn kia cũng làm tổ đặt con” (Tv 84,4). Bổ sung cho cách giải thích này, sách Huấn ca viết: “Đàn ông không vợ thành kẻ lang thang rên rỉ… Ai dám tin kẻ lang thang hết thành này qua thành nọ? Đàn ông không tổ ấm cũng vậy thôi, tối đến thì bạ đâu trú đấy” (Hc 36,26-27).


Con Người không vợ con, luôn rong ruổi trên đường, lữ hành từ thành này tới thành nọ; Ngài tiện đâu trú đấy. Ngay cả loài vật, chẳng hạn như những con cáo và những con chim khi di chuyển từ nơi này đến nơi nọ, chí ít cũng có một cái hang ở dưới đất hay cái tổ trên cây; ấy vậy mà Đức Giêsu chẳng có lấy một cái lán nhỏ hay chỗ nương thân. Ngài không có vợ cũng chẳng có con, cũng chẳng có dinh thự. Ngài sống trong tình trạng hoàn toàn không cố định. “Con Người là hiện thân của người nghèo, độc thân, không gia đình, không nơi ở nhất định, không có vẻ gì là công dân. Hình ảnh so sánh với chim trên bầu trời và cáo trên đất càng làm tăng mức độ tương phản của tình trạng bấp bênh, bị bỏ rơi là tình cảnh Đức Giêsu đang sống. Đó cũng là lối sống Ngài mời gọi những ai muốn theo Ngài phải sống”.[11] Chính vì thế, bản văn không chỉ nói về tình trạng nghèo khó của Đức Kitô, mà còn về điều gì đó triệt để hơn nhiều: sự độc thân khiết tịnh của Ngài.


Đức Giêsu, Đấng loan báo Vương Quốc trong những điều kiện sống từ bỏ và không ổn định, đã ưu tiên trình bày Tin mừng Nước Trời cho người nghèo. “Nhóm người nghèo – the anawim – tiên vàn là những kẻ thực sự khốn khó, những kẻ vô sản đúng nghĩa, có địa vị thấp kém nhất trong xã hội. Họ là những nhóm người bị đàn áp và bị bóc lột. Đến đây, quan niệm về người nghèo chuyển dần từ nghĩa xã hội sang nghĩa tôn giáo. Trong tiến trình tinh thần hóa ý nghĩa này, nhóm người nghèo ở đây rõ ràng là những người thời Cựu ước, họ không vướng bận vào của cải trần gian, mà chỉ bám chặt vào một mình Thiên Chúa”.[12]


Chúng ta nên hiểu sự nghèo khó của Đức Giêsu theo khía cạnh Ngài hoàn toàn sẵn sàng cho việc phục vụ Vương Quốc: trong tình trạng luôn lưu động hướng đến việc hoàn tất sứ vụ chung quyết, tiến về Giêrusalem mà chính bản thân Ngài phải sống bấp bênh. Sự tách lìa là hệ quả duy nhất của thái độ căn bản này. Tuy nhiên, nơi Đức Giêsu, chúng ta không thấy điều gì chứng tỏ Ngài là nhà tu khổ hạnh khắt khe, là kẻ thù đối với mọi của cải vốn tốt lành trên thế gian này. Trở nên người nghèo trong khi vẫn có của cải cũng chẳng làm Ngài bận tâm chút nào.


2. Đức Maria, người nghèo nhất trong số những người nghèo của Giavê



Đối với chúng ta, Đức Maria là gương mẫu sự khó nghèo. Tiên vàn Mẹ là người nghèo nhất của Giavê. Chúng ta chiêm ngắm sự khó nghèo của Đức Maria như một trong những đặc tính căn bản giúp mẹ đón nhận và thuộc về Nước Thiên Chúa.


Các tác giả Tin mừng trình bày Đức Maria như một người phụ nữ đơn sơ và khiêm nhường, là người đã chia sẻ hoàn cảnh và thân phận người phụ nữ thời mẹ.[13] Mẹ không ở trong số những người có địa vị cao sang trong xã hội. Xem ra Đức Maria xuất thân từ đám dân nghèo, bị khinh miệt, vì vùng Galilê bán dân ngoại, chắc chắn không có ngôn sứ nào xuất thân từ đây (x. Ga 7,52). Mẹ sống ở làng Narazeth tầm thường, như người ta vẫn nói: “Từ Narazeth, làm sao có cái gì hay được?” (Ga 1,46). Ấy vậy mà từ người phụ nữ khiêm nhường này Vương Quốc đã đang khởi sự. Nước Thiên Chúa là Tin mừng cho người nghèo. Như người đầu tiên và nghèo nhất trong số những người nghèo, Đức Maria là người đầu tiên đón nhận Tin mừng này, người đầu tiên được Tin mừng hóa. Thánh Matthêu và Luca viết về mẹ trong viễn ảnh này.


2.1. Với Đức Maria, những người nghèo và khiêm nhường Vương Quốc đang bắt đầu


Theo Mt 1,1.18, từ nơi Đức Maria khởi đầu một dòng giống mới, một nhân loại mới trong đó Thiên Chúa sẽ ngự trị.[14] Mẹ là người sinh ra Đấng Mêsia thuộc dòng dõi Đavít. Với Mẹ, sấm ngôn về Đấng Emmanuel ứng nghiệm, vì Thiên Chúa ở cùng Nhà Đavít đến muôn đời. Hơn nữa –  đây là điều rất quan trọng – Vua Mêsia và thân mẫu Ngài sống trong sự nghèo khó và khiêm hạ. Mátthêu có ý gợi lại gốc tích tầm thường của người chăn chiên tên Đavít, gợi lại thành Bethlehem quê hương ông. Thánh Ephrem Syria diễn tả rất hay về viễn ảnh này qua công thức chúc phúc: “Người có phúc là ai, hỡi Maria, con gái của người nghèo, người là Mẹ sinh ra Chúa của các Vua”.[15]


Theo trình thuật Truyền Tin trong Tin mừng Luca, Đức Maria được loan báo về sự kiện Triều đại Thiên Chúa đến cùng với việc mẹ thụ thai người con, người con ấy sẽ trở nên “Vĩ đại” và là “Con của Đấng Tối Cao”: Ngài sẽ nhận được ngai vàng của Đavít, tổ phụ Ngài, và “sẽ cai trị trên Nhà Giacóp mãi mãi, và triều đại Ngài sẽ vô cùng vô tận” (Lc 1,32-33). Cũng theo trình thuật này, Đức Maria hoàn toàn nhận thức được rằng lúc đảm nhận vai trò người mẹ trinh khiết cũng là lúc Vương Quốc đến. Và mẹ vui mừng cất lời Ngợi Khen:


“Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh,


dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.


Chúa hạ bệ những ai quyền thế,


Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.


Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư,


người giàu có, lại đuổi về tay trắng.


Chúa độ trì Ítraen, tôi tớ của Người,


như đã hứa cùng cha ông chúng ta,


vì Người nhớ lại lòng thương xót


dành cho tổ phụ Ápraham


và cho con cháu đến muôn đời.” (Lc 1,49-5).


Mặc dù là người liên hệ mật thiết trong biến cố này, Mẹ đã công bố việc Vương Quốc đến mà không phô trương. Dấu chỉ cho thấy việc Vương Quốc đến chính là sự nghèo khó và khiêm nhường. Sau khi sinh con, Đức Maria đã phải “lấy tã bọc con và đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ” (Lc 2,7). Hình ảnh Máng ăn gia súc tương phản với nhà trọ đã nên dấu chỉ tỏ lộ cho các mục đồng nhận ra Đấng Mêsia (Lc 2,12-16). Đấng Cứu thế hạ sinh trong cảnh khó nghèo là bằng chứng nói lên địa vị thấp hèn của cha mẹ Ngài. Chẳng vậy, khi dâng Hài nhi Giêsu vào Đền thờ, ông bà đã phải dâng lễ vật ấn định cho người nghèo (LG 57). Chính vì thế, từ tuổi ấu thơ, vị thành niên cho đến khi trưởng thành, Đức Giêsu đã chia sẻ sự nghèo khó với Đức Maria và thánh Giuse.


2.2 Đời sống thiêng liêng của “nhóm người nghèo”


Theo thánh Luca thì, Đức Maria thuộc về nhóm những kẻ hèn mọn, là những người được Thiên Chúa nâng cao: “Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn đến” (Lc 1,48). Đức Maria đã công bố rằng Vương Quốc do Con Đấng Tối Cao cai trị đang khởi đầu cách lạ lùng nơi mẹ: “Vì Đấng Toàn năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả”, mà không Đấng nào khác có thể làm được. Trong bài ca Tạ Ơn (Magnificat), Đức Maria ám chỉ Mẹ là người lao động vất vả và có địa vị thấp hèn:


Khi dùng từ “phận hèn mọn” và “phận nữ tỳ” (nghĩa là nữ nô lệ) để chỉ Đức Maria, thánh Luca nối kết Mẹ với những ký ức của nhóm người nghèo vốn gợi lên những thời kỳ đen tối, trong đó hoặc họ là những phụ nữ khát mong sinh con trẻ, hoặc là Israel bị áp bức trong thân phận một “người hầu gái” (1 Mcb 2,11) thấp hèn (1Sm 9,16), và họ đã được Thiên Chúa cứu giúp bằng sức mạnh của Ngài.[16]


Thánh sử Luca đặt Đức Maria vào số những người khiêm nhường và nghèo khó. Thậm chí thánh sử viết về Mẹ như người phát ngôn của Vương Quốc loan tin sự lật đổ của Đấng cứu độ nhân danh người nghèo. Công đồng Vaticanô II đã diễn tả điều này khá hay: “Mẹ trổi vượt trên các người khiêm nhường và khó nghèo của Chúa, là những người tin tưởng hy vọng và đón nhận ơn cứu độ nơi Chúa” (LG 55).


Vì lẽ Mẹ là người nghèo, nên khi sứ thần Gabriel loan báo về Vương quyền Thiên Chúa là đem cho Mẹ tin vui: sứ thần nói, “Mừng vui lên, hỡi thiếu nữ đầy ân sủng !” Mẹ là người trước tiên trong số những người nghèo đã đón nhận tin vui, Tin mừng. Mẹ đã nếm trải trước mối phúc đầu tiên trong số tám mối phúc Đức Giêsu công bố: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em”. Theo thánh sử Luca, Đức Maria đã được nối kết vào truyền thống vĩ đại của nhóm người nghèo, là những người nghèo của Giavê. Cùng thông phần với họ, Mẹ đã kiên trì, một mực vững tin nơi Thiên Chúa, hết lòng mong chờ Nước Trời đến và thông dự sự khó nghèo tinh thần. Thánh Luca cho chúng ta thấy Mẹ là người gắn bó chặt chẽ với tinh thần của số sót của Israel, là biểu tượng sống của một dân tộc gồm những người nghèo. Đức Maria tượng trưng cho những người nghèo, những người bị trị, người khiêm nhường và người Israel bị hạ nhục, họ vốn luôn hy vọng rằng Đức Chúa quyền năng sẽ can thiệp. Trong bài Magnificat, Đức Maria ý thức và tuyên nhận rằng Mẹ có Thiên Chúa ở cùng. Mẹ không kỳ vọng vào sức mạnh của con người, vào cuộc cách mạng hay sức mạnh bạo lực, nhưng một mực tin tưởng vào việc “Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh”. Bài ca Magnificat trong Tin mừng Luca là bằng chứng cho thấy Đức Maria gắn bó chặt chẽ với đời sống thiêng liêng của những người nghèo:


Bài Magnificat là tấm gương phản ảnh tâm hồn Đức Maria. Trong bài thơ này, đời sống thiêng liêng của những người nghèo của Giavê và trào lưu ngôn sứ Cựu ước đạt tới cực điểm. Đó chính là bài ca loan báo Tin mừng của Đức Kitô, là khai đề cho Bài giảng trên Núi. Nơi bài ca ấy, chúng ta thấy Đức Maria như đang tự trở nên trống rỗng và đặt tất cả lòng tin tưởng vào lòng thương xót của Chúa Cha.[17]


Trong Tin mừng Mátthêu và Luca trình bày Đức Maria như người phụ nữ, trinh nữ và người mẹ. Nơi mẹ – thụ tạo mới của Thiên Chúa- Triều đại Thiên Chúa thời cánh chung được khai mạc nhờ vương quyền Đấng cứu thế của Con Ngài. Mặc dù không đề cập cách rõ ràng, Đức Maria vẫn được hiểu như Evà mới: bởi quyền năng Thánh Thần, lòng dạ mẹ đã sinh ra nhân loại mới. Như người phụ nữ thù địch với con quỷ, mẹ đã công bố việc Vương Quốc đến cách kỳ diệu trong bài Magnificat và với lòng tin tưởng tuyệt đối, mẹ nhận được ân sủng của Thiên Chúa. Bên cạnh đó, cần nhấn mạnh rằng, Triều đại Thiên Chúa khởi đi từ  dáng vẻ của người phận nhỏ, người nghèo và người khiêm nhường. Đó là Vương Quốc được loan báo và được khởi đầu trong nghèo khó và khiêm nhường, cho người nghèo và người khiêm nhường. Hình ảnh Đức Maria hoàn toàn phù hợp với bối cảnh này. Mẹ là “nữ tì hèn mọn”, là người nghèo khó trinh khiết.


3. Các Tông đồ, những người bỏ mọi sự để đi theo Chúa



Một dịp nọ, ông Phêrô lên tiếng thay các bạn đồng hành, nói với Đức Giêsu về tình cảnh của nhóm: “Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy” (Mc 10,28). “Bỏ mọi sự” hàm ý điều gì? Trong câu trả lời cho ông Phêrô, Đức Giêsu giải thích rõ ràng: bỏ mọi sự nghĩa là bỏ nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái và ruộng nương vì Thầy và vì Tin mừng (Mc 10,29). Những ai đi theo Đức Giêsu thì họ không có nhà cửa, gia đình, chẳng có con cái, cũng không có tài sản cho riêng họ. Họ hoàn toàn chia sẻ hoàn cảnh của Đức Giêsu, Đấng mà họ theo và ở với Ngài. Nhưng sự nghèo khó ấy chỉ là bề nổi của việc từ bỏ mọi sự, bởi vì qua đó họ nhận được “kho báu trên trời”, cùng với những sự ngược đãi. Bản thân Đức Giêsu đã đề nghị với chàng thanh niên giàu có rằng anh ta cần phải bố thí của cải để được một “kho tàng trên trời”: “Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi” (Mc 10,21).


Tình trạng bấp bênh và kém chắc chắn này nhiều khi khiến những kẻ theo Đức Giêsu phát hoảng: “Đức Giêsu và các môn đệ đang trên đường lên Giêrusalem, Người dẫn đầu các ông. Các ông kinh hoàng, còn những kẻ theo sau cũng sợ hãi” (Mc 10,32). Đối với họ, chương trình mà Thiên Chúa đang thực hiện nơi Đức Giêsu là hoàn toàn khó hiểu.


Những người được gọi bước theo Đức Giêsu phải từ bỏ mọi thứ: lưới đánh cá, cha mẹ, gia đình, nghề nghiệp, gia sản. “Mọi thứ” ở đây là không chừa gì cả, nghĩa là không những bỏ lại đằng sau người sống, mà còn ngay cả người chết. Ấy là sự từ bỏ triệt để, nhấc những kẻ theo Đức Giêsu ra khỏi hang hoặc tổ của họ, đến độ họ không có chỗ gối đầu. Ấy là sống cảnh màn trời chiếu đất, không có những sự bảo đảm của thế gian. Ấy là một nơi không thể biết trước được; thậm chí là một nơi “không nơi chốn” (ou-topos); ấy là “bên ngoài” cửa thành (x. Dt 13,12-13).


Việc đáp ứng lời mời gọi không cho phép những kẻ theo Đức Giêsu tiếp tục lối sống họ đã sống bấy lâu. Bởi vậy những ai thuộc về thế gian không thể hiểu tình trạng của những người đi theo Đức Giêsu. Họ không thể hiểu nơi mà họ không thể ở. “Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó” (Ga 12,26). “Chỗ ở” của Đức Giêsu là thập giá, là “ở bên ngoài”, là “không cửa không nhà”, “không thuộc về thế gian này”. Chỗ ở là nơi Ngài thi hành sứ vụ. Điều kiện tiên quyết để sống ở nơi thi hành sứ vụ là bỏ mọi thứ lại đằng sau. Cho người nghèo những gì anh có, là cách diễn tả sinh động nhất về việc không bao giờ lấy lại được nữa.


Lời mời gọi bỏ mọi thứ lại đằng sau, cũng đòi hỏi chúng ta phải tin cậy, không sợ hãi. Nghĩa là chúng ta phải từ bỏ mọi sự an toàn và mọi lợi lộc trần gian. Với những ai được gọi và đáp lời, Chúa Cha sẽ ban cho họ Vương Quốc, ban cho gấp trăm lần. Theo nghĩa này, Đức Giêsu cho thấy lối sống của chính Ngài trong trần gian. Họ sẽ được ban cho gia đình mới, nhà cửa và gia sản mới trên trần gian này, cùng với những sự ngược đãi. Đức khó nghèo Phúc âm chỉ có thể tồn tại trong lĩnh vực niềm tin và hy vọng. Đức khiết tịnh Phúc âm dường như được gồm thâu trong luật nghèo khó. Trong Tin mừng Luca, khi ai đó từ bỏ vợ (chồng) cũng đồng thời phải từ bỏ bà con thân thuộc và của cải trần gian. Đứng trước lối sống khó nghèo do Đức Giêsu đề nghị, các môn đệ – theo Máccô và Mátthêu – rất sửng sốt và hỏi, “Thế thì ai có thể được cứu?” (Mc 10,26; Mt 19,25). Và trong Mátthêu họ cũng phản ứng như thế trước lời đề nghị sống khiết tịnh: Nếu làm chồng mà phải như thế đối với vợ, thì thà đừng lấy vợ còn hơn” (Mt 19,10). Lối sống mới mở ra một tiềm năng kỳ diệu: điều gì không thể đối với loài người, lại có thể đối với Thiên Chúa.



Hoàng Thụy, OP.


(TSTH số 33)


Chuyển dịch từ POVERTY FOR THE KINGDOM
của José Cristo Rey García Paredes. cmf


 


 





[1] 1Pr 2,24; Gl 3,13




[2] Những động từ được chọn để biểu thị sự tự hạ của Đức Kitô mặc lấy thân nô lệ (èkénôsen) (c.7) và hạ mình (ètapeínôsen) (c.8). Về sau chỉ về tiến trình phải chịu sự nhục nhã vì Đức Kitô đã nhập thể. Từ “địa vị Thiên Chúa” chuyển qua “thân phận người nô lệ” được diễn tả qua cách thức mặc lấy thân nô lệ (ékénôsen). Động từ này có nghĩa là Đức Kitô đã hoá mình ra không, đã trút bỏ đặc quyền thần linh của Ngài, đã nên trắng tay. Đó không phải là vấn đề hủy bỏ”. L. Cerfaux, Cristo nella teologia di san Paolo, ed.A.V.E., Rome 1969, p.142.




[3] Xin coi V. Casas, art. “Pobreza. Fundamentación Bíblica”, trong Từ điển Thần học về Đời Sống Thánh Hiến, Pclar , Madrid 1989, p.1329.




[4] xin coi S. Mª. González Silva, art. “Pobreza. Reflexión Teológica”, trong Từ điển Thần học về Đời Sống Thánh Hiến, Pclar, Madrid 1989, p. 1354.




[5] Cyril of Alexandria, Adv. Nestorium I: PG 76,17A.




[6] F. Hauck – W. Kasch, art. Ploutos, trong “Grande Lessico del Nuovo Testamento” , X, Paideia, Brescia 1975, p. 760-761.




[7] Ngài nói đến sự “vinh quang dồi dào của Người” (Rm 9,23) và “sự giàu có, không ngoan và thông suốt của Thiên Chúa sâu thẳm dường nào” (Rm 11,33). Trong 1Cr 1,5 , thánh Phaolô nói rằng “trong Đức Kitô Giêsu , anh em đã trở nên phong phú về mọi phương diện, phong phú vì được nghe lời Chúa và hiểu biết mầu nhiệm của Người”.




[8] “Với cuộc thương khó của Đức Giêsu, sự từ chối của Giêrusalem đạt tới hồi quyết định của mình”. W. Grundmann, Das Evangelium nach Lukas (ThHK III), 4th ed., Berlin 1966, p. 201.




[9] Theo Mt 8,19, đó là một thầy thông luật




[10] x. Giải thích này trong A. Pardilla, El Cristo Biblico della Vita Religiosa, Rogate, Roma 1983, p. 43-44.




[11] O. Sa Spinelli, Matteo. Commento al “Vangelo della Chiesa”, 3rd ed., Citadella editrice, Assisi 1977, p. 226-227.




[12] R. Koch, Die Wertung des Besitzes im Luka evangelium, in “Biblica” 38 (1957), p.160




[13] x. J. Jeremias, Jerusalem en tiempos de Jesús, Cristiandad, Madrid 1977, p. 371-387, New Theology, Scribners, New York 1971, p. 233tt. Jeremias trích lời của Flavius Josephus: “Trong đền thờ nữ giới ít được tôn trọng hơn nam giới” ( Contra Apionem 2,201). Người nữ không được vào đền thờ mà phải ở lại sân dành cho phụ nữ. Người nữ chỉ có giá trị ngang bằng người nô lệ trong những bổn phận tôn giáo của mình. Ơ những vùng nông thôn người nữ hoàn toàn lệ thuộc người nam. Các Rabbi khinh thường phụ nữ trong giới của họ.




[14] Về suy tư này, xem J.C.R. Paredes, María en la Comunidad del Reino. Síntesis de Mariología, PClar, Madrid 1988, p. 54-57.




[15] Thánh Thi IX: x. Enchiridion Marianum, s. 376-377, p. 252-253.




[16] R.E. Brown, The Birth of the Messiah, Doubleday, New York 1977, p. 361; x. P. Legrand, La Virginité dans la Bible, Cerf, Paris 1964, p. 44, 117-118, 145.




[17] “Designio de Dios sobre la Realidad de América Latina: María, Madrey Modelo de la Iglesia”, DP n.297.



114.864864865135.135135135250