14/06/2019 -

Suy tư, nghiên cứu

1251

Hồi nhỏ, tôi sống với bà ngoại. Bà tôi không phải là Phật tử, chỉ chăm thờ cúng tổ tiên. Ngày sóc, ngày vọng hàng tháng, bà hương hoa đèn nến chỉ cầu các cụ gia tiên ban cho sự thanh tâm để bà khỏe mạnh, con cháu an lành, học hành tấn tới. Nhưng năm nào, bà cũng lên chùa làng một vài lần, chủ yếu để làm công quả. Lần nào bà cũng dắt tôi theo. Mỗi lần như vậy, cụ Thược (và sau này là cụ Nhâm - các ni sư trụ trì chùa làng tôi) đều hỏi, "cụ có muốn chúng tôi thỉnh chuông cầu Phật điều gì không?". Và bà tôi đều nhẹ nhàng thưa lại "thưa cụ, chỉ cần phiên lễ chiều, cụ thưa với Đức Phật tôi có đóng góp chút đỉnh để Người độ chúng sinh là được". Thấy mấy người bà con trong làng có lễ lên chùa cầu tài cầu lộc, bà tôi không nói gì, nhưng khi về, bà nói nhỏ với tôi "Đức Phật chỉ có lòng từ bi hỉ xả, độ cho chúng sinh được thanh tâm vượt khó, làm gì có tài có lộc mà xin".

Những năm cuối thập niên 1990, năm nào cũng cũng có việc phải vào Huế vài ba lần. Tôi thường ở Nhà khách UBND Tỉnh, số 2 Lê Lợi. Đối diện, có một quán cơm bình dân của một gia đình Phật tử thuần thành, nhiều đời quy y tam bảo. Ăn nhiều thành khách quen. Tôi và anh em chị chủ quán thường hay đàm đạo đủ thứ chuyện, nhưng nhiều nhất vẫn là chuyện về đạo Phật. Chị chủ quán rất chăm lên chùa, vừa để lễ Phật, vừa cùng các Phật tử khác thực hiện các chương trình thiện nguyện. Chị cũng đến nhiều cơ sở Phật giáo lớn của cả nước để tham quan, giao lưu, học hỏi. Có lần tôi vào, chị kể "chị vừa đi chùa Hương về, tự nhiên thấy buồn quá". Rồi chị kể về những tiêu cực chị gặp trên đường đi, bla...bla... Rồi chị chốt "Nhưng buồn nhất là người ta đi chùa không phải tìm sự thanh tâm trong lòng mình để tự tin vượt qua bể khổ, mà chỉ để cầu tài, cầu lộc, và mong thăng quan tiến chức em à. Đức Phật làm sao có thể giúp con người ta làm được những điều đó chứ. Chị và nhiều Phật tử ở Huế không quan niệm như vậy."

Thì ra thế. Ngay trong cộng đồng Phật tử cũng có nhiều quan niệm khác nhau về đức tin và hiệu quả của Phật pháp. Và như vậy, bà tôi, dù không theo đạo Phật, cũng có quan niệm về chuyện thờ cúng không khác gì so với một số Phật tử ở Huế.

Tôi mang chuyện đó kể với anh trai chị. Anh vốn dĩ là một sỹ quan chế độ VNCH, từng qua trường Võ bị Đà Lạt, có dáng phong trần, lãng tử hào hoa. Sau 1975, anh bị đi cải tạo mấy năm ở miền Bắc. Ra trại, anh về Huế chạy xích lô và làm "trai kêu" - ai kêu gì làm nấy, trừ việc lên giường với mấy bà nạ dòng thừa tiền thiếu tình (anh vẫn nói vui như vậy). Những lúc rảnh, anh thường ghé xe vào một bóng râm nào đó đọc sách, chủ yếu là các loại sách về triết học và tôn giáo. Nghe chuyện, anh trầm ngâm một thoáng rồi chậm rãi "thực ra tất cả các tôn giáo tín ngưỡng đều có 2 đặc điểm chung. Một là, giúp người ta tìm đến sự tĩnh tâm, hướng thiện và vị tha. Điều thứ hai quan trọng hơn, các tôn giáo tín ngưỡng luôn LẤY CON NGƯỜI LÀM TRUNG TÂM. Nhiều người đi cúng/đi lễ cứ nghĩ rằng Thần Phật hay Thiên Chúa mới là trung tâm. Nhưng thực ra không phải vậy, Thần Phật hay Thiên Chúa chỉ là sự cứu rỗi, là người mang đến ngọn đuốc dẫn đường. Dựa vào ngọn đuốc đó, mỗi người phải tự tìm đến đích bằng đôi chân của mình." Quả thật, anh không hổ danh là một sỹ quan - trí thức.

Nhưng nếu đều lấy con người làm trung tâm, vậy các tôn giáo/tín ngưỡng - ví dụ cụ thể như tục thờ cúng tổ tiên, Công giáo và Phật giáo - khác nhau ở chỗ nào? Tìm hiểu kỹ, sẽ dễ nhận thấy sự khác biệt lớn nhất chính là ở quan điểm phát triển con người.

Tục thờ cúng tổ tiên của người Việt vốn chịu ảnh hưởng sâu sắc của Nho giáo, đạo Lão, luôn gắn với gia đình, chi phái, dòng họ và thôn làng. Các gia đình trâm anh thế phiệt khuyến khích lớp con cháu kế thừa gia phong. Các gia đình bần nông cũng cố gắng động viên con cái dùi mài kinh sử với mục đích chính là để "đỗ đạt rồi ra làm quan". Người ta đi học không phải vì những lý tưởng cao xa (như cải biến/làm mới xã hội chẳng hạn), mà cơ bản là nhằm thay đổi địa vị xã hội của bản thân trong trật tự xã hội sẵn có và đáp ứng sự kỳ vọng của gia đình/dòng họ. Nếu không đỗ đạt làm quan, ít nhất cũng có mớ chữ thánh hiền để mở lớp gõ đầu trẻ, coi bói, xem thế đất/hướng nhà/đặt mồ mả hoặc bốc thuốc kiếm cơm. Con người là trung tâm, nhưng là "con người cộng đồng", luôn thuộc vào một nhóm xã hội nhất định, không có con người cá nhân/sáng tạo/bứt phá. Trước khi chịu ảnh hưởng của văn minh phương Tây, hình hài con người/cá nhân trong cộng đồng làng Việt cả ngàn năm chẳng thay đổi là bao.

Phật giáo là một tôn giáo. Hiển nhiên vậy. Nhưng đó là một tôn giáo cá nhân. Đạo Phật không có Giáo hội tập trung, không có Giáo chủ/Giáo quyền; không có bộ máy thần quyền với các định chế bắt buộc; không có các giáo lệnh để áp đặt cho các tín hữu toàn cầu. Tín đồ đạo Phật hoàn toàn được tự do khi phát nguyện, thậm chí có thể quy y tam bảo rồi tu tại gia. Nhưng Phật giáo cũng là một triết học - một trường phái triết học thực tiễn. Dựa trên nguyên lý Chuyển pháp luân, Phật giáo hướng mỗi người tự tu tập để đạt đến giác ngộ, thoát ra ngoài bể khổ. Và để có thể tu tập theo Phật pháp, mỗi người cần loại bỏ được "lục dục" là "tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến". Trong "lục dục" kể trên, 5 điểm sau không có gì phải bàn cãi. Nhưng ở điểm thứ nhất (tham), vừa có yếu tố tích cực, vừa có yếu tố tiêu cực. Một mặt, nó khuyên người tu tập "đừng tham lam, cưỡng cầu"; nhưng mặt khác, nó khiến cho người ta trở nên thụ động, với tâm niệm "nếu đã là duyên, ắt tự đến". Chính điều này khiến cho Phật tử không có khát vọng bứt phá.

Công giáo nói riêng, Thiên Chúa giáo nói chung, thì khác. Phúc âm Công giáo quan niệm rằng, Thiên Chúa Ba Ngôi luôn ở trong mỗi tín hữu. Vì thế, "chúng ta phải kính trọng thân xác chúng ta và thân xác người khác"; và rằng, "chúng ta phải kính trọng phẩm giá của người khác qua việc đối xử với họ bằng một tình yêu đích thật. Chúng ta mong muốn cho mọi người có được tất cả những gì chúng ta tìm kiếm cho chính mình." Nhưng không chỉ dừng lại ở đó, Phúc âm còn chỉ rõ: "Sự hiện diện của Thiên Chúa Ba Ngôi sẽ giúp mỗi người chúng ta ý thức về phẩm giá của mình như là một con người có giá trị bền vững với những sức mạnh và tài năng Chúa ban. Nói cụ thể, chúng ta kính trọng mình như một CON NGƯỜI qua việc LÀM PHÁT TRIỂN TÀI NĂNG, NĂNG KHIẾU CỦA CHÍNH MÌNH. Điều này sẽ giúp chúng ta thắng được những áp lực và tránh được những cám dỗ." Hiến chế Mục vụ viết: “Ngôi Lời Thiên Chúa (tức Chúa Jesus - MTS) đã làm người và đến sống trên trái đất (của) con người ... dạy cho chúng ta biết rằng: luật căn bản để kiện toàn con người, và do đó cải biến thế giới".

Chính vì dựa trên nền tảng văn hóa đó, châu Âu mới có những đột phá trong khoa học - kỹ thuật - công nghệ - văn học - nghệ thuật và nhận thức về nhân quyền trong mấy trăm năm qua. Những thành tựu trong quá trình đột phá đó rất nhiều khi phủ nhận các định đề mang tính tiên thiên được ghi lại trong Kinh Thánh. Và trên thực tế, đã có những cuộc đối đầu không khoan nhượng giữa Nhà thờ với các nhà khoa học. Nhưng rồi cuối cùng, chính Giáo hội Roma lại có những chuyển động tích cực (đặc biệt là từ sau Công đồng Vatican II) để phù hợp với trật tự thế giới mới cũng như những phát kiến khoa học luôn không ngừng cập nhật. Nhờ vậy, Giáo hội Roma vẫn khẳng định được quyền uy. Văn hóa Công giáo vẫn bao phủ rộng rãi trên phạm vi toàn cầu. Các quyền cơ bản của con người vẫn được nhà thờ đảm bảo/khuyến khích. Là một bộ phận không thể tách rời của Giáo hội Roma, cộng đoàn Công giáo Việt cũng không nằm ngoài xu hướng đó. Trong các hoạt động của mình, họ luôn khuyến khích/tạo điều kiện cho mỗi cá nhân tín hữu có thể làm chủ bản thân/tự do sáng tạo/hiệp thông đa chiều/dân chủ - tự chủ trong Hội Thánh/và trên hết là sự vị tha. Trên thực tế, ở Việt Nam, chính cộng đoàn giáo dân mới là những người đi tiên phong trong nhận thức về nhân quyền và dân chủ. Rất ít khi những đặc điểm này của văn hóa Công giáo Việt được giới thiệu/quảng bá trên các phương tiện truyền thông nhà nước.

P/S: Tại Việt Nam, vào thời Lý-Trần, Phật giáo đã thực sự nhập thế, khuyến khích sự thể hiện tinh thần tự cường rất mạnh. Quảng Nghiêm thiền sư từng viết:

"Ly tịch phương ngôn tịch diệt khứ,
Sinh vô sinh hậu thuyết vô sinh.
Nam nhi tự hữu xung thiên chí,
Hưu hướng Như Lai hành xứ hành".
(Dịch nghĩa:
Lìa được sự ham muốn đi vào niết bàn thì mới có thể bàn chuyện đi vào niết bàn
Sinh vào cõi vô sinh rồi mới có thể bàn chuyện vô sinh
Làm trai phải tự có chí xung trời thẳm
Đừng nhọc mình dẫm theo vết chân của Như Lai).

Tiếc rằng, những thế kỷ sau đó, xã hội Việt Nam rập theo khuôn phép Khổng Nho, Phật giáo bị đẩy xuống hàng thứ yếu và không còn giữ được tinh thần này nữa.

Ảnh: Các bạn trẻ Công giáo trong một buổi sinh hoạt tập thể.
Nguồn Mai Thanh Sơn (https://www.facebook.com/thanhson.mai.16/posts/2547616085257332)
114.864864865135.135135135250