29/11/2014 -

Đời Sống Thánh Hiến

3870

Lời dẫn: Hiệp Hội các Bề trên Tổng quyền Dòng nam tổ chức Đại hội lần thứ 82 tại trung tâm Salesianum của dòng Don Bosco ở Roma từ ngày 27 đến 29-11-2013. Các vị đã xin Đức Thánh Cha Phanxicô một buổi tiếp kiến; ngài đã dành ra 3 tiếng đồng hồ để trao đổi và trả lời những câu hỏi do các Bề trên nêu lên. Một số câu hỏi được đặt ra xoay quanh căn tính và sứ mạng của đời sống thánh hiến, tình trạng ơn gọi bị sa sút tại một số nước, v.v. Nhân dịp Giáo hội khai mạc năm "Đời Sống Thánh Hiến", chúng tôi xin gửi đến quý vị bản tường thuật[1].

Tu sĩ : tội nhân và ngôn sứ

Đúng 9h30, Đức Thánh Cha an tọa giữa tiếng vỗ tay chào mừng. Ngài nhìn đồng hồ và tự hào về tính đúng giờ “Thụy Sĩ” của mình. Hội trường vang tiếng cười vì cách Đức Thánh Cha chào Tu sĩ Mauro Johre, người Thụy sĩ, Tổng Phục Vụ dòng Anh Em Hèn Mọn Capucinô, và cũng vừa được bầu làm Phó Chủ tịch Liên Hiệp Các Bề Trên Tổng Quyền.

Sau vài lời chào mừng ngắn gọn của vị Chủ tịch, tu sĩ Adolfo Nicolás, Tổng quyền dòng Tên, và của vị Tổng Thư ký, tu sĩ David Glenday, Hội Dòng Thừa Sai Comboni, Đức Giáo Hoàng Phanxicô chân thành cám ơn mọi người vì đã mời ngài đến tham dự Hội nghị. Một loạt các câu hỏi đầu tiên rộ lên ngay sau đó. Các đại biểu đặc biệt hỏi Đức Thánh Cha về căn tính và sứ vụ của người tu sĩ : “Thưa, Đức Thánh Cha ước mong điều gì nơi đời sống thánh hiến? Đức Thánh Cha muốn chúng con làm gì? Nếu ở vị trí của chúng con, Đức Thánh Cha sẽ đáp trả thế nào cho lời mời gọi đi đến các biên cương, sống các giá trị Tin Mừng cách không giả dối (sine glossa), trở nên ngôn sứ Phúc Âm? Ngài mời gọi chúng con thi hành sứ vụ nào?” Và các câu hỏi còn đi xa hơn “Ngày hôm nay, chúng con cần nhấn mạnh điều gì? Đâu là những ưu tiên hàng đầu?”

Đức Thánh Cha Phanxicô bắt đầu rằng, chính ngài cũng là một tu sĩ, và ngài thực sự cảm nghiệm được các đại biểu đang muốn nói về điều gì.[2] Vị Giáo hoàng xuất thân từ dòng tu gần đây nhất là Đức Thánh Cha Camaldolese Gregoriô XVI, được bầu chọn năm 1831. Sau đó, Đức Phanxicô quy chiếu vào những lời của vị tiền nhiệm để trả lời các câu hỏi: “Đức Bênêđictô XVI nói với chúng ta rằng, Giáo Hội lớn lên nhờ chứng tá, chứ không phải nhờ vào số người gia nhập đạo. Chứng tá thực sự có sức lôi cuốn là những thái độ sống vốn  không phổ biến, đó là lòng quảng đại, không tư lợi, hy sinh, quên mình để chăm lo cho người khác cách phù hợp. Đó là chứng tá “tử đạo” của đời tu. Nó như “tiếng chuông cảnh tỉnh” cho con người. Bằng đời sống của mình, các tu sĩ nói cho con người về “những gì đang xảy ra.” Những người này đang nói với tôi điều gì đó! Họ vượt lên trên ranh giới phàm trần. Đức Thánh Cha tiếp tục trích dẫn lời của Đức Bênêđictô XVI, “thật vậy, đời sống thánh hiến phải làm cho Giáo Hội tăng trưởng bằng sự hấp dẫn của mình”[3].

Đúng vậy, “Giáo Hội phải trở nên hấp dẫn. Hãy đánh thức thế giới! Trở nên những chứng tá của một lối cư xử, một lối hành động, một lối sống khác! Sống một lối sống khác là điều có thể làm được trong thế giới này. Chúng ta đang nói về viễn tượng cánh chung, về các giá trị của Nước Trời đã nhập thể tại đây, trong thế giới này. Vấn đề ở đây là từ bỏ mọi sự mà bước theo thầy Giêsu bằng một cách thức đặc biệt, cách thức ngôn sứ. Đó chính là lời chứng mà tôi mong đợi nơi anh chị em. Các tu sĩ cần trở thành những người nam và nữ có thể đánh thức thế giới”.

Đức Thánh Cha Phanxicô trở lại với những tư tưởng ngài đã từng đề cập đến, bằng cách khai triển sâu xa hơn: “Anh chị em phải trở nên những chứng nhân thực sự của một lối cư xử và hành động khác. Nhưng trong đời sống, thật khó để mọi sự được rõ ràng, chính xác, và được phác thảo gọn ghẽ. Cuộc sống thật phức tạp, bao gồm cả ân sủng lẫn tội lỗi. Ai không phạm tội thì không phải là một con người. Chúng ta ai cũng mắc lỗi lầm và cần nhận ra sự yếu đuối của mình. Một tu sĩ nhận ra mình yếu đuối và là một tội nhân không làm mờ nhạt lời chứng rằng người ấy được mời gọi để cho đi, chính xác hơn, người ấy còn làm cho lời chứng thêm mạnh mẽ; và điều này có ích cho mọi người. Vì vậy, điều tôi mong chờ nơi anh chị em là hãy sống chứng tá. Tôi mong muốn lời chứng đặc biệt này từ các tu sĩ”.

Tránh xa chủ nghĩa bảo thủ và thắp sáng con đường tương lai

Tiếp tục trả lời các câu hỏi đầu tiên, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đề cập đến một điểm then chốt trong suy tư của ngài: “Tôi thực sự xác tín rằng, những thay đổi lớn lao trong lịch sử được nhận thức khi thực tại được nhìn không phải từ trung tâm, nhưng từ vùng ngoại biên. Đây là một vấn nạn cần giải thích: thực tại chỉ được thấu hiểu với điều kiện nó được nhìn từ vùng ngoại biên, và không phải chúng ta có những góc nhìn giống hệt nhau.” Để thực sự hiểu thực tại, chúng ta cần rời khỏi tâm điểm yên tĩnh và an bình, mà hướng đến những khu vực ngoại biên] Hiện diện ở ngoại biên sẽ giúp chúng ta nhìn thấy và hiểu đúng hơn, phân tích thực tại chính xác hơn, xa tránh trung ương tập quyền và những giải pháp mang tính ý thức hệ.

Cho nên, “đứng ở trung tâm hình cầu không phải là một chiến lược tốt. Để thấu hiểu, chúng ta phải đi vòng ngoài, để nhìn thấy thực tại từ những điểm nhìn khác nhau.”[5] Chúng ta phải tập thói quen suy nghĩ. Tôi thường xuyên tham khảo lá thư của cha Pedro Arrupe, người đã từng là Tổng quyền dòng Tên. Đó là một bức thư được gởi đến Trung tâm Nghiên cứu và hoạt động Xã hội - Centros de Investigación y Acción Social (CIAS). Trong lá thư này, cha Arrupe đề cập đến cái nghèo và nói rằng, thỉnh thoảng, tiếp xúc thực sự với người nghèo là một việc cần thiết. Điều đó rất quan trọng với tôi: cần phải làm quen với thực tại thông qua kinh nghiệm, cần dành thời gian đến vùng ngoại biên để thực sự trở nên quen thuộc với thực tại và những trải nghiệm cuộc sống của con người. Nếu không như vậy, chúng ta có nguy cơ trở thành những người chủ trương bảo thủ hoặc ý thức hệ trừu tượng, vốn không lành mạnh”[6].

Đức Giáo Hoàng dừng lại một vấn đề cụ thể là mục vụ cho giới trẻ. “Những ai làm việc với giới trẻ không chỉ đơn giản bằng lòng với việc nói về những thứ xem ra trật tự và gọn gàng như trong một cỗ máy ; đối với giới trẻ, những điều đó sẽ chỉ đi tai này qua tai kia mà thôi. Chúng ta cần một thứ ngôn ngữ mới mẻ, một cách thức mới để trình bày. Thiên Chúa yêu cầu chúng ta làm điều này, đó là rời khỏi tổ ấm, những nơi an toàn đang bao bọc chúng ta, để được sai đi. Ngay cả những người sống đời dâng hiến trong nội vi đóng kín cũng có thể cảm nghiệm nỗi bận tâm đang khi cầu nguyện sao cho Tin Mừng được loan báo. Lệnh truyền của Tin Mừng “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16,15) có thể được giải thích theo quan điểm là hướng đến ngoại biên địa lý và hiện sinh. Đó là cách thế cụ thể nhất để nên giống Đức Giêsu, Đấng đã đi tới mọi biên cương. Quả thực, Đức Giêsu đã làm như vậy. Thực bản thân tôi không cảm thấy khó chịu khi đi đến vùng ngoại biên : anh chị em nên cảm thấy thoải mái khi đến với bất kỳ người nào”.

Bởi vậy, điều ưu tiên trong đời sống thánh hiến là gì ? Đức Giáo Hoàng trả lời : “Đó chính là sứ vụ ngôn sứ của Nước Trời, một ưu tiên bất khả nhượng. Chúng ta phải nhấn mạnh vào việc trở thành những ngôn sứ, và không được giả hình, giả bộ. Lẽ dĩ nhiên ma quỷ sẽ ra sức cám dỗ chúng ta, và một trong những cám dỗ ấy là chỉ tỏ ra giống như các ngôn sứ. Tất nhiên, không thể chỉ giả bộ là ngôn sứ mà thực chất không có. Chính bản thân tôi đã chứng kiến những sự việc rất buồn về vấn đề đó. Không ! các tu sĩ chính là những người nam và người nữ thắp sáng con đường đi tới tương lai”.

Trong buổi phỏng vấn của tạp chí Civiltà Cattolica, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã tuyên bố rõ ràng rằng, các tu sĩ được mời gọi đi vào một lối sống ngôn sứ. Đây là nét riêng biệt nơi những con người này : “Nói cụ thể, trở thành những ngôn sứ bằng cách thể hiện một Đức Giêsu đang sống trên trần gian, và công bố cách thế mà Nước Thiên Chúa sẽ nên hoàn hảo. Một tu sĩ không bao giờ được từ bỏ vai trò ngôn sứ. […] Chúng ta hãy suy nghĩ về những việc mà các vị thánh vĩ đại, những đan sĩ và nam nữ tu sĩ đã làm, kể từ thời thánh Antôn Viện phụ. Đôi khi, trở thành các ngôn sứ cũng gồm cả việc trở nên ruido (tiếng Tây Ban Nha nghĩa là ồn ào). Tôi không biết cách diễn tả nó… Ngôn sứ gây ồn ào, náo động, ai đó có thể nói là ‘lộn xộn.’ Nhưng trong thực tế, đặc sủng của người tu sĩ cũng giống như chất men vậy : vị ngôn sứ đang loan báo tinh thần của Tin Mừng”[7].

Vì vậy, làm thế nào để sống đặc sủng ngôn sứ đặc biệt của chính mình ? Với Đức Giáo Hoàng Phanxicô, có một nhu cầu “cần phải củng cố tính thể chế , vốn là thiết định của đời sống tận hiến, và không được nhầm lẫn giữa thể chế với những công tác mục vụ tông đồ. Vế trước tồn tại lâu dài, còn vế sau phai nhòa dần đi.” Đức Giáo Hoàng nói tiếp : “Đặc sủng thì tồn tại, và mạnh mẽ ; còn công việc thì phai dần. Đôi khi, thể chế và công việc bị nhầm lẫn với nhau. Thể chế thì sáng tạo, luôn tìm kiếm những lối ra. Theo cách này, những khu vực ngoại biên có thể thay đổi, và luôn có thể đưa ra bảng liệt kê khác nhau”.

“Đặc sủng không phải là một bình nước cất”

Sau đó, các câu hỏi tập trung xung quanh chủ đề ơn gọi. Chúng ta đang chứng kiến một sự thay đổi sâu sắc về địa lý nhân văn của Giáo Hội, cũng như những thay đổi nơi các thể chế dòng tu. Các ơn gọi tại Châu Phi và Châu Á đang gia tăng,  chiếm phần lớn trong tổng số. Tất cả những điều này đặt ra một loạt các vấn đề thách thức : việc hội nhập các đặc sủng, việc phân định ơn gọi và tuyển chọn các ứng sinh, những thách thức của công cuộc đối thoại liên tôn, việc tìm sự đại diện quân bình hơn trong tổ chức lãnh đạo của các hội dòng, và cách tổng quát hơn, nơi cấu trúc của Giáo Hội. Vì thế, các Bề Trên mong Đức Giáo Hoàng đưa ra vài hướng dẫn liên quan đến tình trạng này.

Đức Phanxicô nói rằng ngài đặc biệt lưu tâm đến những thay đổi trong đời sống thánh hiến về phương diện địa lý và việc “tất cả những nền văn hóa đều có thể được Thiên Chúa mời gọi, Người hoàn toàn tự do trong việc ban nhiều ơn gọi tại nơi này và ban ít ơn gọi tại nơi khác. Thiên Chúa muốn nói gì với chúng ta qua việc Người gởi đến nhiều ơn gọi xuất thân từ các Giáo Hội non trẻ nhất ? Tôi không biết. Nhưng tôi tự nhủ cũng phải đặt câu hỏi về vấn đề này. Thánh ý của Thiên Chúa thể hiện cách này hay cách khác trong tất cả những sự việc đó. Có nhiều Giáo Hội đã sản sinh dồi dào hoa trái. Trước đây, có một thời các Giáo Hội đó kém phong phú, nhưng bây giờ đã khác rồi. Dĩ nhiên, việc hội nhập các đặc sủng đòi phải suy xét kỹ lưỡng. Đặc sủng thì duy nhất, nhưng như thánh Inhaxiô đã từng nói, nó cần phải được sống phù hợp theo không gian, thời gian và con người. Đặc sủng không phải là một bình nước cất. Nó cần phải được sống một cách mạnh mẽ, hăng hái, cũng như cần được giải thích lại dưới góc độ văn hóa. Tuy nhiên, quý vị sẽ nói rằng có nguy cơ mắc phải sai lầm. Đó là một sự liều lĩnh. Dĩ nhiên rồi, chúng ta luôn có thể gặp phải sai lầm, không ai nghi ngờ điều đó. Nhưng, chúng ta sẽ không dừng lại, bởi vì lúc đó, chúng ta có nguy cư mắc sai lầm tệ hại hơn. Thật vậy, chúng ta cần luôn nài xin sự tha thứ, và cảm thấy xấu hổ vì những thất bại mục vụ do thiếu can đảm. Lấy ví dụ, chỉ cần suy nghĩ về những trực giác tiên phong của Matteo Ricci từng bị người đương thời bác bỏ”[8].

“Tôi không ám chỉ việc thích nghi các tập tục địa phương” – Đức Giáo Hoàng nói tiếp – “Đây là một vấn đề não trạng và nếp nghĩ. Ví dụ: có những dân tộc suy tư trực quan hơn là trừu tượng, hay ít nhất theo suy tư trừu tượng theo cách khác với người Tây phương. Chính tôi đã sống sự khác biệt này khi còn là Giám tỉnh Dòng Tên tại Argentina. Tôi nhớ rằng mình và một người anh em Dòng Tên đã phải rất cố gắng trao đổi với nhau về các vấn đề, ngay cả những sự việc đơn giản trong cuộc sống thường nhật; anh ấy đến từ vùng đất nơi dân tộc Guarini sinh sống, một dân tộc đã phát triển lối suy nghĩ hết sức cụ thể. Chúng ta cần can đảm sống và đối diện với những thách thức này khi cùng nhau bàn bạc về những vấn đề quan trọng. Tóm lại, tôi không thể đào tạo một người trở nên tu sĩ nếu tôi không lưu tâm, xem xét đời sống, kinh nghiệm, não trạng và bối cảnh văn hóa của người đó. Đây là con đường. Đây là điều mà những tu sĩ thừa sai vĩ đại đã thực hiện. Tôi nghĩ đến những cuộc phiêu lưu mạo hiểm phi thường của tu sĩ Dòng Tên người Tây Ban Nha Segundo Llorente, một nhà truyền giáo chiêm niệm và can trường tại Alaska. Người tu sĩ ấy đã không chỉ học hỏi ngôn ngữ địa phương, nhưng còn học hỏi lối suy nghĩ cụ thể của người dân nơi này[9]. Vì vậy, hội nhập các đặc sủng là việc cơ bản, nhưng điều này không bao giờ đồng nghĩa với việc tương đối hóa các đặc sủng ấy. Song, chúng ta không được làm cho các đặc sủng trở nên cứng nhắc và đồng bộ. Khi đồng bộ hóa các nền văn hóa, chúng ta cũng đồng thời giết chết đặc sủng”. Đức Giáo Hoàng đã kết luận một cách đầy xác quyết như thế, chỉ ra sự cần thiết của việc “đưa những người thuộc nhiều miền văn hóa khác nhau vào ban lãnh đạo trung ương của các Dòng và Hội Dòng, vì chính họ sẽ biểu lộ những cách thức đa dạng trong việc sống đặc sủng”.

Đức Phanxicô thừa nhận những rủi ro, kể cả trong việc “tuyển mộ ơn gọi,” từ những Giáo Hội trẻ hơn. Đức Thánh Cha đã nhắc lại một trong những sự việc đã xảy ra như sau: tại Thượng Hội đồng Giám mục khóa thông thường về Đời sống Thánh hiến và Sứ vụ năm 1994, các Giám mục Philippines đã chỉ trích chuyện “buôn bán tập sinh”, ý muốn nói các Hội Dòng nước ngoài ồ ạt đến đảo quốc này mở những nhà thu nhận ơn gọi để đem về Châu Âu. Đức Giáo Hoàng nói: “Chúng ta cần tỉnh táo trước những tình huống như vậy”.

Đức Thánh Cha Phanxicô cũng đã từng sống ơn gọi tu sĩ trước khi là linh mục. Ngài than phiền rằng, nhận thức về một ơn gọi cụ thể vẫn chưa được khai triển cho đầy đủ. Ngài đề cập đến một tài liệu liên quan chưa được xuất bản, và cần được xem lại lần nữa. Nó sẽ được hoàn thành và gợi ý cho những suy tư thêm phần dễ dàng. Đức Giáo Hoàng lưu ý Đức Hồng y João Braz de Aviz, Tổng trưởng Bộ Đời Sống Thánh Hiến và Tu Đoàn Tông Đồ, và Đức Tổng Giám Mục José Rodríguez Carballo, Tổng Thư ký của Bộ, cùng đang hiện diện trong Hội nghị, hãy xem xét vấn đề này. Đức Thánh Cha kết luận : “Tôi thực sự không tin rằng, khủng hoảng về ơn gọi tu sĩ không linh mục là một dấu hiệu thời đại để nói rằng ơn gọi đó đang đến hồi chấm dứt. Chúng ta cần phải tìm hiểu kỹ càng “điều gì Thiên Chúa đang mời gọi chúng ta.” Trả lời một câu hỏi liên quan đến việc các anh em không linh mục có được làm bề trên trong các Hội Dòng giáo sĩ không, Đức Thánh Cha đã đáp lời rằng, đây là một vấn đề giáo luật và cần được giải quyết theo phương diện đó.

Đào tạo là một công việc thủ công, không phải là hoạt động của cảnh sát

Sau đó, Đức Giáo Hoàng Phanxicô lắng nghe một vài câu hỏi về việc đào tạo. Ngài chỉ ra những ưu tiên: “Đào tạo các ứng sinh là điều cốt yếu. Có bốn cột trụ trong việc đào tạo : tâm linh, tri thức, cộng đoàn và tông đồ. Bóng ma cần phải xua đuổi là hiểu đời tận hiến như là một sự trốn chạy hay thoát khỏi một thế giới “bên ngoài” đầy phức tạp và khó khăn. Bốn cột trụ này phải được hội nhập vào đời sống tu trì ngay từ những ngày đầu gia nhập Tập viện, và không nên sắp xếp chúng theo trình tự trước sau. Chúng phải được tương tác lẫn nhau”.

Đức Giáo Hoàng quan tâm đến một thực tế là vấn đề đào tạo ngày hôm nay không dễ dàng: “Văn hóa ngày nay phong phú và đối kháng hơn những gì chúng ta đã trải nghiệm ở thời đại mình cách đây nhiều năm trước. Văn hóa thời ấy đơn giản và trật tự hơn. Ngày nay, việc hội nhập văn hóa mời gọi một thái độ khác. Ví dụ : những rắc rối không được giải quyết một cách đơn giản bằng cách cấm đoán việc này hay không được làm việc làm kia. Đối thoại cũng như trao đổi là điều cần thiết. Để tránh những vấn đề này, trong một số cộng đoàn đào tạo, những người trẻ đã phải cắn răng chịu đựng, cố gắng không phạm lỗi, chấp hành luật lệ với thật nhiều nụ cười chỉ để chờ một ngày nào đó, họ được bảo rằng : ‘Tốt. Bạn đã hoàn thành việc đào tạo.’ Đấy là đạo đức giả vốn là kết quả của tinh thần giáo sĩ trị, là một trong những sự dữ tệ hại nhất. Tôi đã nói rất nhiều với các Giám mục trong Hội Đồng Giám mục Châu Mỹ Latinh (CELAM) mùa hè vừa qua, được tổ chức tại Rio de Janeiro : chúng ta cần chế ngự xu hướng giáo sĩ trị trong các nơi đào tạo và cả chủng viện. Tôi đã tóm tắt bằng một lời khuyên  nhận được khi còn trẻ : ‘Nếu anh muốn đi tiếp, hãy suy nghĩ rõ ràng và trình bày lờ mờ !’ Đó là cổ suý cho một thứ đạo đức giả. Chúng ta cần tránh xa thói xấu đó bằng bất cứ giá nào.” Thực ra, tại Rio, Đức Giáo Hoàng nhận ra tình trạng giáo sĩ trị là một trong những nguyên nhân gây ra sự “thiếu sự trưởng thành và tự do Kitô giáo” trong Dân của Chúa [10].

Ngài nói tiếp: “Nếu đại chủng viện quá lớn, thì phải được chia thành những cộng đoàn nhỏ hơn, tại đó, các vị phụ trách đào tạo làm thành một nhóm, sẵn sàng đồng hành với những người trẻ được uỷ thác cho họ. Việc đối thoại phải nghiêm túc, chân thành và không sợ hãi. Cần phải nhắc lại rằng ngôn ngữ của người trẻ trong giai đoạn đào tạo ngày hôm nay khác với ngày xưa. Chúng ta đang sống trong một bước chuyển mình mang tính lịch sử. Đào tạo là một công việc nghệ thuật, chứ không phải là một hành động của cảnh sát. Chúng ta phải huấn luyện trái tim họ. Nếu không, chúng ta đang tạo ra những quái vật nhỏ. Và rồi những người này lại đúc nặn nên Dân Chúa. Điều này thực sự khiến cho tôi nổi da gà”[11].

Đức Giáo Hoàng nhấn mạnh: việc đào tạo không nên chỉ nhắm vào sự trưởng thành cá nhân nhưng còn lưu ý đến mục đích tối hậu của đào tạo là Dân Thiên Chúa. Trong công cuộc huấn luyện này, rất cần phải suy tư về những người mà họ sẽ được sai đến: “Chúng ta luôn phải nghĩ đến các tín hữu, Dân của Thiên Chúa. Họ là những người cần phải được đào tạo để trở thành những chứng nhân cho sự phục sinh của Đức Giêsu. Nhà đào tạo phải tâm niệm rằng, các ứng sinh trong giai đoạn đào tạo được kêu gọi để chăm lo cho Dân Chúa. Trong mọi sự, phải luôn đặt mối ưu tư Dân Chúa lên hàng đầu. Hãy thử nghĩ đến các tu sĩ đầy chua ngoa[12]: họ không được huấn luyện cho Dân Chúa. Cuối cùng, chúng ta không cần đào tạo nên những nhân viên quản trị, những nhà điều hành, nhưng là những người cha, người anh em, những người đồng hành”.

Cuối cùng, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đề cập đến một nguy cơ nữa: nhận vào chủng viện ứng sinh đã bị loại khỏi một hội dòng vì những vấn đề liên quan đến đào tạo hay vì những lý do nghiêm trọng là một vấn đề nan giải. “Tôi không nói đến những người biết mình là tội nhân: tất cả chúng ta đều là tội nhân, nhưng không phải tất cả chúng ta đều hư hỏng. Các tội nhân được chấp nhận, nhưng những người hư hỏng thì không”. Ở đây, Đức Giáo Hoàng nhắc lại quyết định quan trọng của Đức Bênêđictô XVI liên quan đến những trường hợp lạm dụng: Đây phải là bài học cho chúng ta để có đủ can đảm mà tiếp cận với việc đào tạo con người như một thách đố quan trọng, và luôn luôn nhớ đến Dân của Chúa.

Sống tình huynh đệ bằng cách “xoa dịu những xung đột”

Thượng hội đồng Giám mục về loan báo Tin Mừng cách mới mẻ đã kêu gọi các tu sĩ, qua nếp sống huynh đệ, hãy trở nên những chứng nhân cho Tin Mừng có sức mạnh làm triển nở nhân tính. Được gợi hứng lời kêu gọi này, cử toạ đã hỏi Đức Giáo Hoàng về cách thức để các tu sĩ sống tình huynh đệ với nhau : “Làm sao có thể vừa chu toàn sứ vụ vừa chia sẻ trọn vẹn nếp sống cộng đoàn? Làm sao có thể chống lại khuynh hướng cá nhân chủ nghĩa? Chúng con nên cư xử như thế nào với người anh em đang gặp khó khăn hay những người gây ra xung đột? Làm sao có thể hoà hợp công lý và lòng thương xót trong những trường hợp nan giải”?

Đức Giáo Hoàng Phanxicô kể lại ngày hôm trước ngài vừa gặp thầy Alois, tu viện trưởng của cộng đoàn Taizé: “Có nhiều người Công giáo, Canvin, Luther cùng chung sống với nhau tại Taizé. Họ sống một cuộc sống huynh đệ thực sự. Họ là mẫu người tông đồ gây ấn tượng mạnh cho người trẻ. Cộng đoàn huynh đệ luôn bao hàm chứa sức mạnh kêu mời mọi người đến với nhau. Ngược lại, những bệnh hoạn của cộng đoàn luôn tạo nên sức mạnh phá hủy. Cám dỗ chống lại tình huynh đệ là cản trở lớn nhất cho sự thăng tiến đời sống thánh hiến. Thánh Gioan Berchmans từng thú nhận rằng việc đền tội lớn nhất của ngài là đời sống cộng đoàn. Sống huynh đệ là điều khó, nhưng nếu không nỗ lực để sống, thì đời sống chung sẽ chẳng sinh hoa trái gì. Thậm chí ‘công tác tông đồ’ có thể là sự trốn tránh đời sống huynh đệ. Người nào không thể sống tình huynh đệ, người đó không thể sống đời sống tu trì được”.

Đức Giáo Hoàng nói tiếp : “Tình huynh đệ tu trì với tất cả sự đa dạng của nó là một kinh nghiệm của tình yêu vốn trải qua nhiều xung đột. Xung đột trong cộng đoàn là điều không thể tránh được. Theo một nghĩa nào đó, chúng cần phải xảy ra, nếu cộng đoàn thực sự đang sống những mối tương quan thẳng thắn và chân thành. Cuộc sống là thế. Nó không gợi ra suy nghĩ rằng cuộc sống cộng đoàn, trong đó có những anh em, chẳng gặp phải khó khăn nào trong cuộc sống. Một điều gì đó bất bình thường nếu cộng đoàn không có xung đột nào. Thực tế cho thấy xung đột luôn nảy sinh trong mọi gia đình và mọi nhóm người. Và xung đột cần phải được đối diện trực tiếp; không được phớt lờ nó. Che đậy xung đột chỉ tạo ra một nồi áp suất dần dần sẽ nổ tung. Một cuộc sống không có xung đột, chẳng còn là cuộc sống nữa”.

Những căn cứ này rất có giá trị. Chúng ta biết rằng một trong những nguyên tắc nền tảng của Đức Giáo Hoàng Phanxicô là : “hiệp nhất thì tốt hơn xung đột”. Những lời ngài nói với các tu sĩ cần phải được hiểu dưới ánh sáng tông huấn Niềm vui của Tin Mừng (số 226- 230); trong đó, ngài đặt vấn đề về “việc chấp nhận chịu đựng xung đột, giải quyết và biến xung đột thành mối dây liên kết hướng đến một tiến trình mới” (số 227). Phải nhắc lại rằng, đối với Đức Giáo hoàng, việc kiện toàn con người không bao giờ là một công việc dành riêng cho cá nhân, nhưng là của tập thể, của các thành viên trong cộng đoàn. Xung đột, theo nghĩa này, có thể hoặc thậm chí phát triển thành một tiến trình của sự trưởng thành.

Trong bất cứ trường hợp nào, xung đột cũng cần phải được đồng hành: chúng ta không bao giờ được hành động như vị tư tế hay thầy Lêvi trong dụ ngôn Người Samari nhân hậu, họ chỉ đi ngang qua. Nhưng phải làm sao ? Đức Giáo Hoàng nói: “Tôi nhớ lại câu chuyện của một bạn trẻ 22 tuổi đang chán nản cùng cực. Tôi không nói về một tu sĩ, nhưng là một bạn trẻ sống với bà mẹ goá làm công việc giặt giũ cho một gia đình giàu có. Cậu thanh niên này bỏ làm và chìm đắm trong rượu chè. Người mẹ không thể giúp đỡ gì cho cậu. Mỗi buổi sáng, trước khi đi làm, đơn giản bà chỉ nhìn con trai bằng ánh mắt dịu dàng. Hiện nay, chàng thanh niên ấy đã có vị trí xứng đáng. Cậu đã vượt qua được vấn đề của chính mình, bởi vì cuối cùng, cái nhìn dịu dàng từ người mẹ đã lay động lòng cậu. Chúng ta hãy có được sự dịu dàng đó, kể cả sự dịu dàng mẫu tử. Chúng ta hãy nghĩ về sự dịu dàng mà thánh Phanxicô đã sống trong cộng đoàn của ngài. Sự dịu dàng giúp vượt qua những xung đột. Nếu điều đó chưa đủ, thì có lẽ phải thay đổi cộng đoàn.

Đức Phanxicô nói tiếp: “Đúng là đôi khi chúng ta đã quá tàn nhẫn. Tất cả chúng ta đều trải qua cám dỗ muốn phê phán vì thỏa mãn cá nhân hay tìm lợi ích riêng cho mình. Đôi khi, những vấn đề trong đời sống huynh đệ xuất phát từ nhân cách yếu đuối, và trong trường hợp này, cần tìm đến một chuyên viên, một nhà tâm lý. Chúng ta không nên lo sợ điều này, chúng ta đừng sợ không chịu đựng nổi những phương pháp trắc nghiệm tâm lý. Nhưng đừng bao giờ hành xử như người quản lý khi giải quyết những xung đột trong đời sống huynh đệ. Chúng ta có liên lụy với nhau.

“Tình huynh đệ là thứ rất tinh tế. Trong sách kinh phụng vụ của Argentina, Thánh thi Kinh chiều I Lễ trọng kính thánh Giuse, thánh nhân được kêu cầu chăm sóc Giáo Hội với sự dịu ngọt của Thánh Thể- ternura de eucaristía. Đây chính là cách thức chúng ta đối xử với anh em. Chúng ta cần xoa dịu những xung đột. Tôi nhớ lại Đức Phaolô VI đã nhận một lá thư vẽ nhiều bức tranh của một em bé. Đức Phaolô VI nói rằng : đặt một lá thư như vậy lên mặt bàn đầy ắp những hồ sơ cần giải quyết giúp ích cho ngài rất nhiều. Sự dịu hiền mang lại sự tốt đẹp cho chúng ta, sự dịu ngọt của Thánh Thể không che dấu xung đột, nhưng đúng hơn, giúp ta đối diện với nó như những người trưởng thành”.

Những mối quan hệ hỗ tương giữa các tu sĩ và Hội thánh Địa phương

Về điểm này, các Bề trên Thượng cấp đã hỏi Đức Giáo Hoàng nhiều câu hỏi liên quan đến những hoạt động của cộng đoàn tu trì trong bối cảnh của các Giáo Hội địa phương và mối tương quan của họ với Giám mục: Làm sao để đặc sủng của các dòng khác nhau vừa được tôn trọng vừa được thăng tiến giúp ích sự phát triển của Giáo Hội nơi họ sống và làm việc? Làm sao củng cố mối hiệp thông giữa các đặc sủng riêng biệt và các hình thái khác nhau của đời sống Kitô hữu hầu Dân Chúa được phát triển của và làm sứ vụ được thăng tiến?

Đức Giáo Hoàng Phanxicô trả lời rằng, từ nhiều năm nay,  thỉnh cầu duyệt xét lại những tiêu chuẩn định hướng do Thánh bộ Tu sĩ và Thánh bộ Giám mục ban hành năm 1978 (Mutuae Relationes), liên quan đến những mối quan hệ giữa giám mục và tu sĩ trong Giáo hội. Đức Giáo hoàng đưa ra quan điểm đã đến lúc phải làm việc này, bởi vì văn kiện trên rất hữu ích vào thời điểm đó, nhưng bây giờ đã lỗi thời. Đặc sủng của các hội dòng khác nhau cần được tôn trọng và thúc đẩy bởi vì chúng cần thiết trong giáo phận. Ngài nói tiếp : “qua kinh nghiệm, tôi biết rằng những vấn đề có thể nảy sinh giữa một giám mục và các cộng đoàn tu trì. Ví dụ như nếu một ngày nào đó, hội dòng quyết định rút khỏi một trong những công việc của họ do thiếu hụt nhân sự, thì vị giám mục đột nhiên cảm thấy gặp phải một vấn đề nan giải. Chính tôi cũng đã trải qua những kinh nghiệm khó khăn như vậy. Lần kia, tôi được thông báo rằng một công việc sắp bị để trống và tôi không biết phải làm gì. Rồi tôi chỉ được thông báo khi mọi sự đã xong. Tuy nhiên, tôi cũng có thể nói về những kinh nghiệm tích cực khác. Nói tóm lại, tôi đã gặp những vấn đề đó, nhưng tôi cũng biết rằng không phải lúc nào các giám mục cũng rành rẽ về đặc sủng và công việc của các dòng tu. Chúng tôi, các giám mục, cần hiểu rằng những người thánh hiến không phải là những công chức, nhưng là quà tặng làm cho giáo phận thêm phong phú. Thiết lập các cộng đoàn tu trì trong giáo phận là điều rất quan trọng. Đối thoại giữa các giám mục và các tu sĩ cần phải được lưu tâm sao cho các giám mục không vì thiếu hiểu biết về đặc sủng của họ mà xem các tu sĩ đơn giản là những công cụ hữu dụng”. Vì lý do này, Đức giáo hoàng đã giao cho Bộ Tu sĩ nhiệm vụ xem xét các phản hồi về văn kiện Mutuae Relationes và xét duyệt lại.

Những biên cương của sứ vụ: sống ngoài lề, văn hóa và giáo dục

Những câu hỏi cuối cùng được đặt ra liên quan đến biên cương sứ vụ của người thánh hiến. Đức Giáo Hoàng thường nói về “đi ra”, “lên đường” và “những biên cương”. Do đó, Hội nghị các Bề trên Thượng cấp hỏi rằng những biên cương đó có thể là gì để chúng ta lên đường: “Cha nhận định thế nào về sự hiện diện của đời sống thánh hiến giữa thực trạng có sự loại trừ trong thế giới chúng ta? Nhiều hội dòng dấn thân vào công việc giáo dục, cha nhận định thế nào về công việc phục vụ này. Cha có lời khuyên nào cho những tu sĩ đang dấn thân vào lãnh vực này?

Trước hết, Đức Giáo hoàng nói: “những biên cương địa lý chắc chắn vẫn còn và cần phải sẵn sàng để lên đường. Nhưng cũng có những biên cương mang tính biểu tượng vốn không xác định trước và không giống nhau đối với từng người, nhưng cần phải tìm kiếm dựa trên nền tảng đặc sủng nơi mỗi hội dòng. Do đó, mỗi hội dòng cần biện phân trong khi thực hiện đặc sủng riêng của mình. Những tình huống trong đó con người bị loại trừ chắc hẳn vẫn là những ưu tiên hàng cho sự biện phân này. Tiêu chuẩn đầu tiên là gửi những người giỏi giang và tài năng nhất đến với những hoàn cảnh con người bị loại trừ và sống bên lề này. Những hoàn cảnh này có nhiều nguy hiểm, đòi hỏi chúng ta lòng can đảm cùng đời sống cầu nguyện sâu xa. Các bề trên cần nâng đỡ và khuyến khích những người đang dấn thân cho công việc này”. Đức Giáo Hoàng nhắc nhở rằng để cho lòng nhiệt thành lôi kéo luôn là điều nguy hiểm. Điều này có thể nảy sinh từ việc chúng ta sai đi các tu sĩ tốt lành, nhưng chính họ lại chưa được chuẩn bị kỹ lưỡng cho những tình huống mà họ sẽ gặp phải tại biên cương của những người bị loại trừ. Chúng ta không được đưa ra những quyết định liên quan đến [sứ vụ cho] những người bị loại trừ khi chưa bảo đảm một sự biện phân và trợ giúp thích đáng.

Bên cạnh thách đố dấn thân cho những người bị loại trừ này, Đức Giáo hoàng đề cập đến hai thách đố quan trọng khác hiện nay, đó là văn hóa và giáo dục trong các nhà trường và đại học. Đời sống thánh hiến có thể phục vụ đắc lực trong những lĩnh vực này. Ngài nhắc lại: “Khi các các cha phụ trách báo Civiltà Cattolica đến thăm tôi, tôi đã đề nghị với các ngài về những biên cương của tư tưởng, tư tưởng độc đoán và bệnh hoạn. Như Tổng Quyền Dòng Salêdiêng biết, tất cả mọi sự đã được bắt đầu từ giấc mơ đưa nền giáo dục tới biên cương. Giấc mơ này của thánh Don Bosco đã thúc đẩy các tu sĩ của ngài đi đến những vùng ngoại vi Patagonia. Chúng ta có thể đưa ra thêm nhiều ví dụ khác nữa”.

Các cột trụ của nền giáo dục, theo Đức Giáo Hoàng, là “truyền thụ kiến thức, hướng dẫn làm các công việc và truyền đạt những giá trị. Đức tin cần được truyền thụ qua những cột trụ này. Nhà giáo dục sẽ phải tùy vào người thụ huấn, vị ấy nên xem xét làm sao để công bố Đức Giêsu Kitô cho một thế hệ đang có nhiều thay đổi”. Từ đó, Đức thánh cha khẳng định: “Giáo dục ngày hôm nay là một sứ vụ vô cùng quan trọng”. Và ngài nhắc lại một vài kinh nghiệm của ngài ở Buenos Aires liên quan đến việc chuẩn bị cần thiết để tiếp nhận và giáo dục các trẻ em, những thiếu niên trai và gái, những thanh niên đang sống trong những hoàn cảnh phức tạp, đặc biệt những người trong gia đình chia rẽ: “ tôi nhớ đến trường hợp của một cô bé rất buồn bã, cuối cùng em đã tin tưởng cô giáo mà nói ra lý do về tâm trạng của mình: ‘người bạn trai của mẹ em không thích em”. Số trẻ em đến trường có cha mẹ ly hôn chiếm tỷ lệ rất cao. Hoàn cảnh sống mang đến những thử thách mới mà đôi khi chúng ta khó có thể hiểu thấu. Làm sao chúng ta có thể công bố Đức Kitô cho những em bé này? Làm thế nào chúng ta có thể công bố Đức Kitô cho một thế hệ đang thay đổi. Chúng ta cần phải cẩn thận đừng phân phát một loại vaccin chống lại đức tin đã được truyền đạt cho chúng”.

Sau ba tiếng đồng hồ, khoảng 12 giờ 30, Đức Giáo hoàng cáo lỗi vì phải kết thúc cuộc trò chuyện. Ngài mỉm cười nói: “Chúng ta để dành một số câu hỏi cho lần sau”, vì ngài có cuộc hẹn với nha sĩ. Trước khi nói lời chia tay Hội nghị, Đức thánh cha Phanxicô công bố năm 2015 là năm dành cho đời sống thánh hiến. Những lời của Đức thánh cha được cử toạ hoan nghênh bằng một tràng pháo tay dài. Hướng nhìn vị Tổng trưởng và vị Thư ký Bộ Đời sống Thánh hiến và Tu Đoàn Tông đồ, Đức Phanxicô mỉm cười nói : “Đó là lỗi của họ, đó là ý kiến của họ, thật là nguy hiểm khi hai người này sóng đôi với nhau”. Tiếng cười vang lên trong cả khán phòng hội nghị.

Khi rời đại sảnh, đức Phanxicô nói : “Cám ơn anh chị em, tôi cám ơn vì hành động đức tin mà anh chị em đã thể hiện trong cuộc gặp gỡ này. Xin cám ơn vì những gì anh chị em đã làm, về tinh thần đức tin và lòng nhiệt tâm phục vụ. Cám ơn vì chứng tá của anh chị em, vì những chứng nhân tử đạo vẫn tiếp tục được dâng hiến cho Giáo Hội, cũng như những sỉ nhục mà anh chị em phải chịu. Đây chính là Đường Thánh giá. Xin hết lòng cám ơn anh chị em”.

Học Viện Đa Minh,

ngày 15 tháng 09 năm 2014.

Mừng kính Nữ Vương Các Thánh Tử Đạo

Bổn mạng Tỉnh Dòng Đa Minh Việt Nam


[1] Nguyên tác Wake up the Word, Conversation with Pope Francis about the Religious life của Antonio Spadaro, SJ. (original text in Italian, Civiltà Cattolica, translated into English by Fr. Donald Maldari SJ).

[2] Khi còn là Giám tỉnh dòng Tên tại Argentina, tu sĩ J.M.Bergoglio đã cho xuất bản tác phẩm Meditaciones para religiosos, San Miguel, Ediciones Diego de Torres, 1982. Đây là một quyển sách sưu tập loạt bài suy niệm dành cho các anh em trong dòng. Chúng rất hữu ích trong việc soi sáng một vài chủ đề then chốt mà HY Bergoglio sẽ khai triển sau này.

[3] Đức Bênêđictô XVI, Bài giảng trong Thánh lễ khai mạc Thượng Hội đồng Giám mục khu vực Châu Mỹ Latinh và khu vực các đảo và quốc gia vùng Caribê tại Thánh điện Aparecida (13.05.2007). Đức Phanxicô đã bàn đến chủ đề này của vị tiền nhiệm của mình một vài lần. Ngài cũng mượn chủ đề đó trong bài giảng tại Nhà nguyện Santa Marta hôm 01.10, và thêm vào : “Khi nhìn thấy lời chứng khiêm nhường này, lời chứng của sự hiền lành, hòa nhã, người ta hiểu được sự cần thiết của điều mà ngôn sứ Dacaria đã nói : ‘Ước gì tôi được đến với bạn !’ Họ sẽ cảm nhận được sự cần thiết ấy khi đối diện với chứng tá từ đức bác ái, đức bái ái khiêm nhường không giả dối; sự khiêm nhường, không phải để tự đề cao mình, nhưng luôn yêu mến và phục vụ.” Đức Phanxicô cũng lặp lại lời Đức Bênêđictô XVI hôm 04.10, trong chuyến thăm Nhà thờ Chánh tòa San Rufino tại Assisi, cũng như trong Tông huấn Niềm Vui của Tin Mừng.

[4] Xc. J.M.Bergoglio, Nel cuore dell’uomo. Utopia e impegno, Milan: Bompiano, 2013, tr.23 ; Đức Giáo Hoàng Phanxicô, La mia porta è sempre aperta. Une conversazione con Antonio Spadaro, Milan: Rizzoli, 2013, tr.86ff.

[5] Đức Phanxicô đã nhấn mạnh xác tín này trong Tông huấn Niềm Vui của Tin Mừng, ngài viết : “Mô hình của chúng ta ở đây không phải là phạm vi, lĩnh vực hoạt động, vốn không lớn hơn những phần nhỏ của nó, nơi mà mọi vị trí đều cách tâm điểm những khoảng cách bằng nhau, và không có khác biệt gì giữa chúng. Thay vào đó, nó phải là khối đa diện, có thể phản ánh được sự hội tụ của tất cả các phần của nó, mỗi phần của nó bảo vệ sự rõ ràng của nó.” (236)

[6] Đức Phanxicô rất quen thuộc với bức thư này của cha Pedro Arrupe và cũng trích dẫn nó trong bài phỏng vấn của mình với báo Civiltà Cattolica, ngài diễn tả bức thư đó như một “nguồn gợi hứng.” Xc. Đức Giáo Hoàng Phanxicô, La mia porta è sempre aperta…, tr. 117.

[7] Sđd. 63f.

[8] Thực tế người ta đã không hiểu thấu đáo khi trong sứ vụ truyền giáo, các tu sĩ Dòng Tên đã cố gắng thích nghi việc loan báo Tin Mừng vào các nghi lễ và tập tục địa phương. Điều này gây ra sự quan ngại, và đã có một số ý kiến trong Giáo Hội phản đối lại tinh thần của những cố gắng tiếp cận đó; họ sợ rằng, những thích nghi đó có thể làm vẩn đục sứ điệp Kitô giáo. Những chọn lựa ngôn sứ như thế thường không được chấp nhận, bởi vì chúng vượt quá quan niệm thông thường thời bấy giờ.

[9] Cha Segundo Llorente (Mansilla, Mayor, León [Tây Ban Nha], 18.11.1906 – Spokane, Washington [USA] 26.01.1989), một Tu sĩ Dòng Tên đã trải qua hơn 40 năm sống đời thừa sai tại vùngt Alaska. Ngài là đại diện cho Hội Dòng Mỹ ở bang Alaska, một trong những nơi mà ngài được xem là một người đồng sáng lập. Cha Segundo được mai táng tại một nghĩa trang người Da Đỏ tại De Smet, Idaho, nơi chỉ có những người Mỹ da đỏ bản xứ mới được chôn cất. Khi cha đến Akulurak năm 29 tuổi, bài toán khó đầu tiên bao gồm không chỉ việc học ngôn ngữ Eskimo, nhưng còn là nói về Thiên Chúa cho những con người có lối suy nghĩ hoàn toàn khác biệt với lối suy nghĩ Châu Âu. Cha đã viết 12 quyển sách về các kinh nghiệm truyền giáo của mình.

[10] Sđd. Bài nói chuyện trong hội nghị với các điều phối viên của Hội Nghị Giám mục Châu Mỹ Latinh (CELAM), được tổ chức chung tại Centro Studi di Smaré, Rio de Janeiro, 28.07.2012.

[11] Nguyên văn : We must form their hearts. Otherwise we are creating little monsters. And then these little monsters mold the People of God. This really gives me goose bumps.

[12] Nguyên văn: Just think of religious who have hearts that are as sour as vinegar.

114.864864865135.135135135250