Bài thuyết trình này gồm năm phần. Trước hết, cần xác định đối tượng trình bày và nguồn tư liệu. Thứ hai, lược qua tiểu sử của thánh Vinh Sơn Liêm. Phần thứ ba xét lại các tác phẩm. Phần thứ bốn nhắc đến ảnh hưởng của ngài. Cuối cùng, để kết luận, chúng ta thử tìm hiểu sứ điệp mà ngài để lại cho chúng ta.
A. Căn cước
Chắc là anh em đã làm xong thẻ căn cước công dân có gắn chip, với tất cả những dữ liệu cần thiết liên quan đến lý lịch cá nhân. Chúng ta cũng muốn mở đầu bài nói chuyện về thánh Vinh Sơn Liêm với việc tìm hiểu căn cước của ngài. Dĩ nhiên, ở đây chỉ ghi nhận vài dữ liệu tổng quát, còn các chi tiết khác sẽ được đề cập trong phần thứ hai khi bàn về tiểu sử.
Tiếc rằng khi muốn khai căn cước thánh Vinh Sơn Liêm, chúng ta gặp nhiều lỗ hổng, hay nói theo thánh Tôma khi mở đầu Sách Tổng luận thần học về Thiên Chúa, chúng ta biết ngài không là ai, hơn là biết ngài là ai[1].Thực vậy, chúng ta không biết chính xác tên họ và ngày sinh của ngài.
1/ Tên họ
Về tên họ, các tài liệu chính thức của phụng vụ chỉ ghi rằng “Vincentius Liem a Pace” (Vicente Liem de la Paz). Trong bức thư viết vài ngày trước khi bị trảm quyết, ngài ký tên Vicente de la Paz y Liem (chứ không để họ). Mãi gần đây, không hiểu dựa vào đâu, người ta mới gắn thêm tên họ Việt Nam, nhưng lại không đồng nhất: Lê Quang Liêm (trùng tên với nhà vô địch giải cờ vua), Phạm Hiếu Liêm (hoặc Phan Hiếu Liêm), Nguyễn Thế Liêm.
Ở Việt Nam, trước đây Ngài thường được biết đến như là “Vinh Sơn Liêm” hoặc “Chân Phước Liêm” (trước khi được phong thánh năm 1988). Tuy nhiên đã có người lưu ý rằng không nên đồng hóa “Chân phước Liêm” với “Vinh Sơn Liêm” bởi vì đó là hai nhân vật khác biệt. Trong số các thánh tử đạo tại VN có hai vị mang danh là Liêm, một Việt và một Tây-ban-nha, và cả hai đều thuộc dòng Đa Minh. Vinh Sơn Liêm là người chúng ta đang bàn (sinh khoảng năm 1732, tử đạo ngày 7-11-1773, được phong chân phước ngày 20-5-1906), còn vị kia là giám mục Giêrônimô Hermosilla Liêm (sinh năm 1800 tại Santo Domingo de la Calzada, Đại diện tông tòa đia phận Đông, bị xử trảm ngày 1-11-1861 tại Hải Dương, dưới thời vua Tự Đức) cũng được ÐGH Piô X phong Chân Phước ngày 20-5-1906 cùng với Vinh Sơn Liêm.
2/ Ngài là ai?
Để xác định căn cước của một người, ngoài tên riêng, đôi khi người ta có thể sử dụng những biệt hiệu, biệt danh, hoặc một đặc điểm nhận dạng. Dĩ nhiên, cần phải ý thức kẻo bắt lầm người, bởi vì có thể đặc điểm ấy cũng gặp nơi người khác. Chúng ta vừa nhắc đến chân phúc Liêm, có thể hiểu về hai nhân vật. Chúng ta có thể thêm ba dấu chỉ tiêu cực và hai dấu chỉ tích cực.
a) Trước hết, ngài không phải là (ba không):
- Không phải là tu sĩ Đa Minh người Việt đầu tiên. Trong danh sách những tu sĩ Đa Minh giai đoạn một, Vinh Sơn Liêm đứng hàng thứ 8. Hai người Việt đầu tiên khấn dòng vào năm 1739 là cha Pio de santa Cruz và Gioan de Santo Domingo; kế đó có ba người khấn năm 1748, 2 người khấn vào năm 1749; cha Liêm cùng mặc áo với 3 anh em khác vào năm 1754 tại Manila[2].
- Không phải là tu sĩ Đa Minh đầu tiên chịu tử đạo ở Việt Nam. Trước đó 28 năm, đã có hai linh mục Gil de Frederich Tế và Mattheu Liciniana Đậu chịu trảm quyết ngày 22-1-1745, và cùng được phong chân phước với linh mục Vinh Sơn Liêm năm 1906,
- Không phải là tu sĩ Đa Minh Việt Nam đầu tiên được phong chân phước. Các thánh dòng Đa Minh tử đạo ở Việt Nam được tuyên phong chân phước vào ba đợt. Đợt thứ nhất năm 1900, gồm tám vị: Vinh Sơn Đỗ Yến (cũng quê ở Trà Lũ +1838), Đa Minh Trạch (+1830), Đa Minh Hạnh (+1838), Phêrô Tự (+1838), Đa Minh Tước (+1839), Tôma Dụ (+1839), Đa Minh Xuyên (+1839), Giuse Hiển (+1840). Vinh Sơn Liêm thuộc về đợt thứ hai, được Đức Piô X phong chân phước năm 1906, quen gọi là các thánh tử đạo Hải Dương. Thực ra, trong nhóm này chỉ có 4 vị thánh tử đạo tại Hải Dương (năm 1861), còn 4 vị khác thuộc thế kỷ XVIII.
b) Ngoài ba điều “không” vừa nói, có hai đặc điểm làm nổi bật chân dung của Vinh Sơn Liêm:
- Là một vị thánh tử đạo ở thế kỷ XVIII. Đây chỉ là một số ít (6 vị), bởi vì phần lớn các thánh tử đạo VN thuộc thế kỷ XIX (trong đó 58 dưới triều vua Minh Mạng, 50 dưới triều vua Tự Đức).
- Là vị thánh tử đạo đầu tiên người Việt. Đừng kể thầy giảng Anrê Phú Yên thuộc thế kỷ XVII (+1644, mới chỉ là chân phúc), cha Vinh Sơn Liêm là vị thánh tử đạo tiên khởi người Việt. Chi tiết này được ĐTC Gioan Phaolô II nhắc đến trong bài giảng lễ phong thánh 19-6-1988. Trong bức họa vẽ vào dịp lễ, ngài được đặt ở hàng đầu[3].
B. Nguồn tư liệu
Khi gõ Google tìm hiểu tiểu sử thánh Vinh Sơn Liêm, ta thấy hầu như các thông tin đều giống nhau, nghĩa là chép lại của nhau, chứ ít khi truy cứu nguồn gốc. Nói đúng ra, các nguồn tư liệu không được dồi dào lắm.
1/ Tài liệu quan trọng nhất là những bản bá cáo, điều tra liên quan đến vụ án phong chân phước, bắt đầu từ năm 1776, thời đức cha Santigo Hernandez, được tóm lại trong: S. Rituum Congregatio, Tunquinum, Beatificationis seu Declarationnis martyrii ven. servorum Dei Francisci Gil de Frederich, Matthaei Alonso Leziniana, Hyacinthi Castaneda et Vincentii a Pace ... Positio super martyrio, causa martyrii et signis sive miraculis, Romae 1904.
2/ Dựa trên hồ sơ của vụ án đã kết thúc, một cuốn sách được xuất bản tại Firenze để giới thiệu lý lịch của các tân chân phước: Alfonso M. Bianconi O.P., Vita e martirio dei beati Domicani Francesco Gil de Federich … decapitati per la fede cattolica nel Tonchino, Tipografía e Librería Domenicana, Firenze 1906. Các trang 97-111 được dành cho Vinh Sơn Liêm[4].
3/ Một nguồn tài liệu đáng kể là bộ lịch sử dòng Đa Minh ở Bắc Bộ của cha Marcos Gispert OP., Historia de las Misiones dominicanas en Tungkin, Avila 1927. Tác phẩm này ra đời 20 năm sau lễ phong chân phước, và dựa trên hồ sơ phong thánh. Các trang 271-283 được dành cho thánh Liêm. Tác phẩm này đã được các anh Bùi Công Huy và Vũ Thạch Vịnh chuyển ngữ sang tiếng Việt (2021).
4/ Sau cùng, một số bài viết được đăng trên hai tập kỷ yếu xuất bản tại Saigon trước năm 1975:
- Phạm Đình Khiêm, “Ánh vinh quang của dân tộc tại hải ngoại”, trong Bách chu niên các thánh tử đạo tại Hải Dương 1861-1961, Chân lý Saigon 1961, trang 65-67.
- Báo Liên Lạc số đặc biệt 95+96, (tháng 11-12, 1973): Kỷ niệm 200 năm Chân Phước Vinh Sơn Liêm tử đạo (1773-1973), 80 trang.
5/ Do tình cờ, tôi tìm được một tài liệu quý giá liên quan đến các chứng nhân vụ án phong chân phước Vinh Sơn Liêm cùng với 2 bức thư, được đăng trong một luận án nghiên cứu chữ quốc ngữ của Nguyễn Thị Thu Vân, Il Quốc Ngữ: l'origine e l'evoluzione della scrittura romanizzata del Vietnam in tre documenti inediti dell'Archivio Segreto Vaticano, Luận án tiến sĩ văn chương đại học La Sapienza Roma 2015. Sao chụp bản điều tra cuộc tử đạo của thánh Vinh Sơn Liêm, kèm theo 2 bức thư của ngài viết ngày 14 và 22 tháng 9 âm lịch (tức là 29-10 và 6-11) năm 1773 (Archivio segreto del Vaticano, Congregazione dei Riti, Processo n.3016)[5].
II. Tiểu sử
Khi phân tích các tài liệu vừa kể, chúng ta thấy phần lớn tập trung vào việc tử đạo và cuộc thẩm vấn trước đó, chứ không cung cấp nhiều chi tiết về những hoạt động trước khi bị bắt. Xin tạm chia cuộc đời của Vinh Sơn Liêm thành bốn chặng như sau: 1/ giai đoạn đào tạo; 2/ hoạt động linh mục; 3/ Cuộc xưng đạo và tử đạo, 4/ Tôn vinh.
A. Giai đoạn đào tạo
Giai đoạn này bao gồm thời gian từ khi sinh ra cho đến khi thụ phong linh mục.
1/ Thiếu thời
Như đã nói trên đây, chúng ta không biết chính xác tên họ của Vinh Sơn Liêm. Trên các thông tin Internet, có người thêm tên họ là Phạm Hiếu Liêm hay Lê Quang Liêm. Chúng ta cũng không có dữ kiện về ngày tháng năm sinh. Phần lớn các tài liệu ghi năm 1732, nhưng cũng có nơi ghi là khoảng năm 1731.
Về nơi sinh quê quán thì rõ hơn, tức là Thôn Đông, làng Trà Lũ, Phủ Thiên Trường, trấn Sơn Nam Hạ. Thân phụ, ông Antôn Doãn, là một thân hào trong thôn (có sắc Thiếu Khanh), và làm trùm họ. Thân mẫu, bà Maria Doãn, một người mẹ đạo đức, đứng đầu hội Mân Côi trong xứ, đã hết mình với việc giáo dục con cái.
Năm 12 tuổi, cậu Liêm vào tu trong nhà Đức Chúa Trời ở Lục Thủy. Qua sáu năm học tập, cậu đã tỏ ra là người thông minh đạo đức, nên được các cha dòng Đa Minh thời đó đang phụ trách giáo phận Đông Đàng Ngoài để ý. Cha chính Espinoza Huy đã chọn cậu vào số các thanh niên hưởng học bổng của Tây Ban Nha, gởi đi du học Manila (Phi Luật Tân) tại trường Juan de Letran[6]. Đó là năm 1750.
2/ Tu sĩ và linh mục
Sau ba năm học thành công xuất sắc, thầy Liêm xin gia nhập dòng Đa Minh và lãnh tu phục ngày 9-9-1753. Năm sau, thầy tuyên khấn trọng thể cùng với ba tu sĩ đồng hương và lấy biệt hiệu là Vinh Sơn Hòa Bình (Vincente de la Paz). Tiếp đó, thầy Vinh Sơn học thêm bốn năm thần học tại đại học Santo Tomás[7] và thụ phong linh mục năm 1758. Tiếc rằng không ai đi lục lọi hồ sơ trong văn phòng ở hai học viện Juan Letran và Santo Tomás, để xem thành tích học tập như thế nào.
Thụ phong linh mục rồi, Cha Liêm chuẩn bị trở về phục vụ quê hương. Ngày 3-10-1758, cha xuống tàu cùng với cha Domingo Pujol và cha Phaolo Huyên de Santa Trinidad, và về đến Trung Linh ngày 20-1-1759.
B. Tác vụ linh mục
Về Việt Nam, trước hết Cha Vinh Sơn được bổ nhiệm làm giáo sư chủng viện Trung Linh. Cha đã đem hết tài trí và nhiệt thành truyền đạt cho các chủng sinh những kiến thức cha đã thu thập được. Nhưng nguyện vọng của cha là loan báo Tin Mừng bình an cho anh em, nên chẳng bao lâu, cha rời chủng viện dấn thân vào cánh đồng truyền giáo. Cha lần lượt đảm nhiệm các xứ Quất Lâm, Lục Thủy, Trung Lễ, Trung Linh, Trung Lao, và từ khi cha Jacinto Gia bị bắt[8], cha kiêm luôn cả vùng Lai Ổn.
Hoạt động tông đồ của cha không chỉ hạn hẹp trong các giáo xứ, mà còn mở rộng đến các làng ngoại giáo, bất chấp những khó khăn nguy hiểm của thời cấm cách. Tại bất cứ nơi nào, Cha cũng luôn nhiệt tình yêu thương, giúp đỡ mọi người, nên ai cũng hết lòng thương mến. Cha khích lệ mọi người thêm can đảm, Cha an ủi những người buồn sầu, và không nề hà bất cứ điều gì vì lợi ích thiêng liêng của họ.
Công việc tông đồ của cha nói được là rất thành công. Nhưng bao giờ cha cũng khiêm tốn, coi những thành quả đó là do Chúa và của Chúa mà thôi. Cha thường nói với bạn hữu: “mình chỉ là dụng cụ của Chúa dùng mà thôi, làm được gì tốt đều là Chúa làm. Không có Chúa, mình làm được gì?” Trong các thư cha gửi cho Đức Cha và các Bề trên, ngày nay ta còn đọc được những dòng chữ cha viết như sau: “Xin Đức Cha và các Bề trên cầu nguyện cùng Chúa cho con, khi dâng lễ và trong kinh nguyện, để mỗi ngày con được hoàn thiện hơn, biết vui lòng đón nhận những khốn khó theo ý Chúa”.
Một ông hoàng em thứ sáu của chúa Trịnh Doanh trước khi từ trần đã lãnh nhận bí tích Rửa Tội nhờ công của các vị Thừa Sai và lời cầu nguyện của cha Vinh Sơn Liêm. Cha đón nhận tin đó như niềm vui của Giáo Hội Việt Nam, và ngày 17-6-1764 cha viết thư loan báo tin vui mừng này cho cha Pedro Yre Bề trên Giám tỉnh ở Manila và Đức Cha Bernado Vetaria.
C. Cuộc xưng đạo và tử đạo
Như đã nói trên đây, phần lớn các nguồn sử liệu về thánh Vinh Sơn Liêm đều xoay quanh việc ngài bị bắt và giết vì tội truyền bá đức tin. Trước khi đi vào nội dung vấn đề, thiết tưởng nên nói qua bối cảnh lịch sử Việt Nam thời ấy.
1/ Khung cảnh lịch sử
Tình hình chính trị của nước Việt Nam vào cuối thế kỷ XVIII khá rối ren. Đất nước bị phân chia làm hai miền, dưới quyền cai trị của Chúa Trịnh (Đàng Ngoài) và Chúa Nguyễn (Đàng Trong). Dòng Đa Minh được ủy thác phụ trách địa phận Đông Đàng Ngoài, nghĩa là dưới quyền Chúa Trịnh. Nhưng bên trên Chúa Trịnh còn có vua Lê (Lê Hiển Tông 1740-1786). Vào thời này, nhà Tây Sơn cũng đã bắt đầu nổi lên. Những vụ cấm đạo Kitô không hoàn toàn bắt nguồn từ lý do tôn giáo (đạo mới không phù hợp với các đạo cổ truyền) mà còn vì lý do chính trị nữa: người ta sợ các thế lực nước ngoài (Bồ Đào Nha, Hà Lan) ủng hộ phía địch (hoặc họ Trịnh hay họ Nguyễn), và các dân trong nước nổi dậy tham gia các phong trào khởi nghĩa chống chính quyền (phù Lê diệt Trịnh). Đó là xét về mặt nguyên tắc pháp lý (lập pháp); chứ trên thực tế (hành pháp), các quan địa phương muốn bắt các đạo trưởng để đòi tiền chuộc. Ngay cả khi bị giam tù, trong khi chờ đợi tuyên án, các đạo trưởng cũng có thể được đi lại nếu các giáo dân chịu khó đút tiền cho lính canh gác.
Những biến cố của cuộc đời cha Vinh Sơn Liêm diễn ra dưới thời vua Lê Hiển Tông (tức Cảnh Hưng: 1740-1786), và Chúa Trịnh Doanh (Minh Đô Vương: 1740-1767) và Trịnh Sâm (Tĩnh Đô Vương: 1767-1782). Các tác giả nước ngoài không phân biệt giữa Vua (chỉ có danh chứ không có thực quyền) và Chúa (người thực sự nắm quyền).
Ngoài những rắc rối về luật lệ, ông Phạm Đình Khiêm còn thêm một chi tiết mang tính chính trị. Năm 1767, Chúa Trịnh Sâm, sau khi đã xử tử một nhà sư về một tội thường phạm, muốn tránh thiên vị tôn giáo, liền ra lệnh bắt các linh mục và bổn đạo Thiên Chúa giáo.
2/ Bị bắt: 1-10-1773[9]
Quan phủ Thần Khê, trong nỗ lực lập công và lãnh thưởng từ triều đình, cũng như làm giàu bất chính từ tiền bạc của những người theo đạo Thiên Chúa, không chỉ sai thuộc hạ là Lê Văn Đô đi lùng bắt những người mà người ta gọi là các Hoa Lang đạo trưởng, mà còn treo thưởng cho những ai tố giác giúp bắt được các đạo trưởng ấy. Trong số những người đã cộng tác với viên quan phủ làm những điều xấu ấy, ngoài chánh tổng Trần Văn Hiến, đứng đầu tổng Xích Bích, còn có một thầy lang tên là Cẩn. Tên này cũng chính là kẻ đã muốn bắt giữ cha Castañeda khi cha đang di chuyển trên sông, nhưng cha đã thoát nạn nhờ trốn dưới hầm của chiếc ghe ấy. Vì thất bại trong cuộc truy bắt cha Castañeda đã làm cho ông tức điên, nên ông đã tìm cách bắt được một thừa sai khác. Lúc đầu ông nhắm đến thừa sai Âu châu, bởi vì các thừa sai này có trình độ cao hơn, và là đối tượng chịu án tử hình trong các sắc chỉ cấm đạo, nhưng những nỗ lực của ông ta không đạt được, nên ông ta quay sang phương án bắt bất kỳ thừa sai nào mà ông ta bắt được, ngay cả khi vị thừa sai ấy là người bản xứ.
Ngày 1-10-1773, dịp lễ Đức Mẹ Mân Côi, cha Liêm được các giáo dân họ Lương Đống đến xin cử hành lễ trong nhà thờ của họ. Cha đồng ý. Cha cũng muốn nhân dịp này để cử hành các bí tích cho giáo dân ở đây, vì cha Castañeda Gia chưa kịp thực hiện điều ấy, giờ đây ngài đang bị giam giữ ở huyện đường. Một người bên lương, chắc chắn là đã có được mật chỉ, trông thấy cha Vinh Sơn những người theo cha đi về họ Lương Đống, nên báo cho ông lang Cẩn. Ông không có binh lính trong tay, nên đã tập hợp những gia nhân của mình, cùng với một số lương dân khác trong làng của ông, ngay trong đêm ấy kéo đến Lương Đống. Trước lúc mặt trời mọc hôm sau, ông lang Cẩn và người của ông đã bao vây nhà ông nhiêu Nhuệ, nơi cha Vinh Sơn đang trú ngụ. Ông Cẩn đột nhập vào nhà, và như một con mãnh thú, ông nhảy bổ vào vị thừa sai hiền lành không tự vệ cũng chẳng cố gắng trốn chạy. Thêm nữa, kẻ hung hãn này, như đang đối xử với một kẻ thù không đội trời chung, hắn liên tục nắm tóc, xô cha Vinh Sơn ngã xuống đất, kéo lê cha, rồi đấm đá liên hồi, khiến cha đổ máu ướt cả áo. Cuối cùng, như thể vẫn còn sợ ngài trốn thoát, hắn còn sai người trói chặt cha lại, đồng thời trói cả hai thầy giảng ở cùng cha, là thầy Matthêu Vũ và thầy Giuse Bính. Sau đó, cả ba bị điệu đi trao nộp cho quan phủ Thần Khê. Và như thể chưa thỏa mãn với những đòn ác độc mà hắn đã làm với cha Vinh Sơn và các thầy giảng, tên lang Cẩn còn lôi ba vị đi diễn hành qua các ngả đường lớn của làng, nơi hàng ngày người dân vẫn họp chợ. Những ai am tường văn hóa Việt Nam hẳn đã hiểu việc tên Cẩn đưa các tù nhân đi qua các làng ngoại giáo ấy là có ý gì. Trước khi các tù nhân đến được huyện phủ, thì họ sẽ bị người đứng đầu tổng đó, gọi là chánh tổng, kết tội. Và viên chánh tổng Xích Bích đây là Trần Văn Hiến, như chúng ta đã nói ở trước, là người đầu tiên, nếu không muốn nói là người duy nhất tham gia “cách tích cực” vào vụ án này. Hắn giam giữ ba vị trong nhà hắn suốt 12 ngày, chờ xem giáo dân có đem tiền đến chuộc các ngài hay không, mà theo ý đồ của hắn, hắn nghĩ rằng “con mồi sẽ sập bẫy”. Thế nhưng, chờ hoài mòn mỏi không thấy ai đến chuộc, khiến những tù nhân vô tội phải chịu nhiều khổ sở, hắn mới báo cáo sự vụ lên quan phủ Thần Khê.
Viên quan phủ này đã có tin tức về những gì tên chánh tổng Xích Bích đã làm vài ngày trước, nhưng phần vì mưu đồ chính trị, phần do sự xảo quyệt, viên quan này không can thiệp gì, để xem tên chánh tổng to gan kia làm thế nào thoát khỏi mớ hỗn độn do chính hắn gây ra. Khi thấy chánh tổng Xích Bích tỏ lòng hết sức tùng phục mình và trao nộp những gì thuộc quyền của mình, viên quan phủ không tỏ ra tức giận vì tên chánh tổng tiếm quyền, bởi vì như vậy sẽ không hợp với con người gian giảo như hắn. Hắn lập tức ra lệnh làm một cái cũi để nhốt cha Vinh Sơn, và hai cái gông để đặt lên hai thầy giảng trẻ tuổi của cha. Những dụng cụ tra tấn đã chuẩn bị xong, và một toán lính được cử đến tổng Xích Bích. Ở đó, họ nhốt cha Vinh Sơn Liêm vào cũi, và đeo gông vào cổ hai thầy giảng.
Khi ấy, cha Castañeda Gia đang bị nhốt cũi ở sân huyện phủ, ngài thấy một đám đông quân lính và dân chúng tiến vào sân, dẫn theo một tù nhân bị đóng cũi như ngài. Thế là, ngài rất đỗi vui mừng nhận ra người anh em của mình, cha Vinh Sơn Liêm de la Paz. Thật không thể mường tượng được tình cảm của hai vị tu sĩ thánh thiện khi họ gặp nhau trong tình cảnh cả hai đều bị giam cầm, như hình ảnh của Đức Kitô chịu khổ hình, sau khi cả hai đã hiến dâng chính cuộc sống của mình để rao giảng về Người. Kể từ đó, số phận hai vị thừa sai này gắn liền với nhau. Quan phủ Thần Khê đã rất đỗi thất vọng khi không lấy được đồng cắc nào từ hy vọng giáo dân sẽ dùng tiền để chuộc cha Castañeda, nhưng giờ đây ông tin rằng mình sẽ có được nhiều hơn thế nếu giáo dân chịu chuộc cả hai vị thừa sai, hoặc không thì ông cũng được một phần thưởng to từ cấp trên vì có công bắt được hai vị đạo trưởng mà sắc chỉ của triều đình đã cấm.
Với sự tin tưởng ấy, một ngày sau khi cha Vinh Sơn Liêm bị nộp cho quan phủ Thần Khê, ông này liền áp giải cả hai cha thừa sai và hai thầy giảng trẻ tuổi đến thủ phủ của tỉnh để nộp cho Quan Án. Hai cha, mỗi cha bị nhốt trong một cũi riêng, còn hai thầy giảng phải đeo gông nặng nề, cứ vậy, họ bị giải đến Hưng Yên ngày 16-10-1773. Khác xa với những gì tên quan phủ tham lam ở Thần Khê mong đợi, tại Hưng Yên, hắn ta không những không được Quan Án khen thưởng, mà suýt nữa còn bị phạt vì những hành vi ấy. Quan Án không muốn những tù nhân này bị nhốt trong ngục thất, nên đã ra lệnh cho quan phủ đưa các tù nhân này về nhà riêng của mình để giam giữ. Ông không những không gây phiền nhiễu gì cho các ngài, mà còn để người dân, cả lương lẫn giáo, tự do vào thăm viếng.
Ông cũng ra lệnh đưa các thừa sai ra khỏi cũi, tháo gông cùm cho hai thầy giảng, và để các ngài tự do đi lại, thậm chí là ra phố nếu các ngài muốn. Bởi vì, theo ông, “không thể phá hủy đạo này, mà hành hạ hay giết hại những người lương thiện này cũng chẳng được lợi gì”. Với sự ưu ái mà Quan Án đã dành cho các thừa sai, không ai còn dám làm phiền các ngài nữa. Nhân vậy, các ngài dùng sự tự do ấy mà rao giảng, dạy dỗ và khuyến khích những người đến với các ngài. Nhiều người thích thú đến lắng nghe, và bỡ ngỡ vì thấy cha Castañeda nói tiếng Việt sõi đến thế nào. Với cha Vinh Sơn thì rất đỗi bình thường, vì ngài là người Việt Nam, đã nghiên cứu rất kỹ chữ Hán cùng những điển ngữ Hán Việt, vốn tạo nên sự tao nhã cho tiếng Việt, còn cha Castañeda thì từng truyền giáo bên Trung Hoa mấy năm, nên cũng am tường ngôn ngữ của đế quốc này. Viên quan phủ Thần Khê rất tức tối khi thấy những kẻ tù tội này giờ đây lại được kính trọng và được nhiều người lắng nghe. Cầm mình không nổi, hắn la lên rằng: “Các người đừng để ý đến lời những kẻ lừa bịp này nói. Các người không biết đạo này là đạo đã bị nhà vua lên án và cấm đoán sao? Hãy xem những đạo trưởng này đi, nếu các người theo đạo đó, các người hãy chuẩn bị tinh thần mà chịu phạt như họ”. Nhưng một trong những thính giả ở đó đã can đảm đáp lại rằng: “Năm nay trời phạt chúng ta, vì các quan bách hại đạo Chúa và những người theo đạo. Nhiều lần chúng ta thấy mỗi khi các đạo trưởng đó bị bắt, thì chúng ta thường bị trừng phạt bằng nạn đói và nhiều tai họa, rồi sau đó là các ôn dịch và tai ương khác nếu các cuộc đàn áp những người theo đạo ấy không sớm chấm dứt”. Những lời của người này đã bịt miệng tên quan phủ độc ác, nhưng, lòng kiêu hãnh của y bị tổn thương, y thề sẽ thực hiện mục đích xấu xa của y là giết hại tất cả những ai dám tuyên xưng niềm tin vào đạo Chúa.
Quá tức giận vì thấy thanh danh của mình bị sỉ nhục ngay tại thủ phủ của tỉnh, viên quan phủ Thần Khê đã đệ đơn khiếu nại lên tòa án triều đình ở Thăng Long, và triều đình đã lệnh cho y áp giải phạm nhân về kinh đô. Y nghĩ rằng đây là cơ hội để trả thù, cả với Quan Án là cấp trên của y ở Hưng Yên, nên y vội cho làm hai cái cũi ghi bốn chữ “Hoa Lang Đạo Sư”, nghĩa là: thầy dạy đạo Bồ Đào Nha, hay là đạo Kitô. Thế là, hai cha đáng kính lại bị đóng cũi, và hai thầy giảng Vũ và Bính lại bị đeo gông vào cổ, tất cả bốn người bị tên quan phủ ấy áp giải về tòa án của triều đình ở Kẻ Chợ, tức là thành Thăng Long, nay là thủ đô Hà Nội. Việc áp giải này được thực hiện với rất nhiều lính tráng và quân bảo vệ, vì chủ ý của tên quan phủ này là gây sự chú ý của quần chúng. Bởi thế, dẫu đoạn đường từ Hưng Yên về Thăng Long không xa, nhưng bọn chúng phải đi mất hai ngày mới tới nơi. Sau đó, bọn chúng đưa các tù nhân đi diễn hành qua các con phố ở Kẻ Chợ. Hôm đó là ngày 20-10-1773. Tại quảng trường trước cung điện của chúa, viên quan phủ ra lệnh cho đoàn diễn hành dừng lại, để tập trung sự chú ý của mọi người. Khi Chúa Trịnh Sâm biết về cuộc diễn hành đó, ông đã ra lệnh giam các tù nhân vào nhà tù và chờ ngày xét xử.
3/ Thẩm vấn
Cuộc xét xử sớm được thực hiện, các tù nhân đáng kính này bị đưa ra tòa nhiều lần. Tiếng đồn về những phiên tòa này nhanh chóng lan khắp kinh thành, người ta đồn rằng hai nhà truyền giáo đó là những người tài trí, nói năng lưu loát, trong đó lại có một người Âu châu da trắng mũi cao, nói tiếng Việt, thông thạo tiếng Hán, dung mạo lại đẹp trai. Tất cả những lời đồn này đều đúng. Điều này đã thu hút nhiều người hiếu kỳ đến xem phiên tòa và nhiều nho sĩ vào tù để xác minh thực hư của lời đồn. Thậm chí, chính Chúa Trịnh cũng đã nhiều lần triệu các tù nhân này đến trình diện để kiểm chứng.
Đến đây cha Gispert chen câu chuyện Hội đồng tứ giáo, nghĩa là một cuộc tranh biện giữa hai vị linh mục với đại diện của ba tôn giáo: Khổng giáo, Lão giáo và Phật giáo. Nhiều tác giả khác cũng lặp lại như vậy[10]. Tuy nhiên, như sẽ thấy sau, hồ sơ điều tra phong thánh không hề đề cập đến câu chuyện này. Đúng hơn, Chúa Trịnh đã đặt ra nhiều câu hỏi khác cho hai vị linh mục, trước là cha Gia, sau là cha Liêm[11].
Sau khi đã hỏi tên tuổi, nguyên quán, Chúa Trịnh hỏi:
- Ông đến nước này làm chi?
- Để dạy đạo thật của Đức Chúa Trời, ngõ hầu người ta biết và tuân giữ, và sau khi chết được lên thiên đàng.
-Tại sao ông không dạy đạo ấy cho dân chúng ở nước của ông, chẳng phải tốt hơn hay sao?
- Ở nước tôi, từ vua đến dân, tất cả mọi người đều biết đạo ấy từ nhiều thế kỷ rồi cho nên không cần người giảng đạo. Vì thế chúng tôi là những tôi tớ của Chúa, phải đi đến nước ngoài để dạy cho dân ngoại biết Chúa chân thật và tôn thờ ngài.
- Nói như vậy có nghĩa là giảng đạo cho dân của nước ông thì sẽ chẳng có công trạng gì hay sao?
- Những kẻ có nhiệm vụ coi sóc các linh hồn ở nước tôi cũng có công trạng không nhỏ bởi vì họ phải vất vả trong việc duy trì đức tin, đạo lý và phong hóa nơi các tín hữu. Còn chúng tôi là dòng giảng, chúng tôi phải rời bỏ quê hương và bày tỏ ánh sáng sự sống cho những người tự mình sẽ không thấy được. Chắc chắc điều này có công trạng lớn hơn.
Đến đây, Chúa muốn cha cử hành cho xem một vài lễ nghi tôn giáo. Cha Gia mặc áo lễ (casula) vào, rồi cầm lấy một cây thánh giá, hôn chân Chúa chịu nạn, thờ lạy, đọc kinh ăn năn tội và kinh Tin kính. Cha cũng làm như thế đối với một bức ảnh Đức Mẹ Mân côi khi đọc kinh Salve Regina. Sau cùng, cha quỳ xuống trước một bức tượng Chúa Giêsu, cung kính thờ lạy, và đọc kinh Lạy Cha bằng tiếng bản xứ.
Khi chứng kiến những nghi thức ấy, nhiều lần Chúa Trịnh nói: những điều này hay lắm. Sau khi cha Gia đọc xong kinh Lạy Cha, Chúa nói: Đủ rồi, và quay sang hỏi những câu khác: Nhà vua nước ông ăn mặc thế nào? Khi đi ra ngoài dinh, có mang lọng không? Nhà vua đi bộ hay ngồi trên kiệu? Có quân lính không? Tên gọi các quan chức là gì? Có phải nộp thuế cho vua không?
Sau đó, cha Gia được đưa ra khỏi phòng, và đến phiên thẩm vấn cha Liêm. Chúa Trịnh hỏi:
- Tây dương đạo trưởng không biết luật ngăn cấm đạo Hoa Lang ở nước này. Còn ông là người bản xứ, tại sao lại theo đạo ấy?
- Tôi đã theo đạo từ khi còn nhỏ, và tôi đi theo Tây dương đạo trưởng để đi giảng đạo.
Chúa không hỏi thêm gì nữa, và quyết định: Ông Gia sẽ bị chém, còn ông Liêm sẽ bị giam tù. Tuy nhiên cha Liêm phản đối: “Chúng tôi đều đi giảng đạo như nhau, cho nên hoặc là tha cả hai hay bị luận tội cả hai chứ”.
Câu chuyện còn đang bỏ ngỏ, thì bà thân mẫu của Chúa, nghe biết cha Gia là người Âu, cho nên muốn xem mặt. Bà đòi điệu cả hai cha đến. Cha Gia lại được yêu cầu mặc áo lễ và đọc kinh như đã làm cho Chúa Trịnh.
Sau khi xem lễ, bà thái hậu này hỏi cha Liêm một vài câu về đạo. Cha Vinh Sơn đã trả lời cách rõ ràng và không do dự, chứng minh rằng đạo Chúa là đạo thật. Bấy giờ, ở câu hỏi cuối cùng, bà hỏi: “Nếu như lời đạo trưởng nói, chỉ có đạo của các người là đạo thật, vậy những người không theo đạo ấy, chết rồi ra sao?” Cha Vinh Sơn trả lời: “Số phận của những ai không theo đạo, là vào hỏa ngục đời đời”. Câu trả lời này của cha đã khiến cho thái hậu vô cùng tức giận, bà ra lệnh nhốt hai cha vào lại cũi một lần nữa, và sau đó đến gặp Tĩnh Đô Vương để xin vua xử tử cả hai vị thừa sai này. Có lẽ cơn tức giận của bà thái hậu chưa đủ để vua ra án tử cho hai cha, nhưng quan phu Thần Khê vẫn chờ chực ở cửa công đã dâng sớ tâu với Chúa rằng:
Tâu bệ hạ, ngay từ xưa đã có lệnh cấm đạo Giatô ở đất nước ta. Từ trước tới nay, mưu đồ của các đạo trưởng này là cướp đất nước khỏi tay bệ hạ. Sở dĩ họ chưa đạt được mưu đồ là vì số tín đồ của họ còn ít. Nay mai số tín đồ theo họ đông bằng số tín đồ Phật giáo, chắc chắn họ sẽ lật đổ ngai vàng của bệ hạ. Chính đây là thời cơ họ chuẩn bị mưu đồ đó, nếu bệ hạ không ra án xử tử họ đi, bệ hạ sẽ thấy khó mà giữ được ngai vàng.
Lời vu cáo bỉ ổi này cộng thêm cơn phẫn nộ của bà thái hậu, đã khiến chúa Trịnh Sâm phải xem xét cách nghiêm túc vụ án này. Do vậy, ông ra lệnh cho các phán quan điều tra và xử lý các cha thừa sai theo luật định. Theo chỉ thị của Chúa, ngày 30 tháng 10, hai cha bị chuyển đến nhà tù dành cho các tù nhân phạm trọng tội, và bị nhốt trong cũi.
4/ Xử án
Các quan xử án, muốn chiều lòng Chúa Trịnh và thái hậu, đã nhanh chóng hoàn thành nhiệm vụ được giao. Chỉ sau bốn ngày, họ đã trình bản án tử hình đối với hai đạo trưởng, và án chăn voi hoặc nộp phạt 100 quan tiền đối với hai thầy giảng trẻ tuổi Matthêu Vũ và Giuse Bính. Các bản án được châu phê, và việc thi hành án đối với hai thầy giảng được thực hiện ngay hôm ấy, còn án trảm quyết hai cha thừa sai bị hoãn lại cho đến ngày 7-11-1773. Đến ngày xử án, hai tù nhân vẫn bị nhốt trong cũi, được quan quân khiêng ra pháp trường, theo sau là đám đông dân chúng đủ mọi thành phần. Khi đi qua hoàng cung, theo thông lệ, tù nhân sẽ được giữ lại xem Chúa có ân xá hay ra lệnh y án. Một viên quan lớn tiếng đọc bản cáo trạng, rằng cha Jacinto Castañeda, còn gọi là Cụ Gia, và cha Vinh Sơn Liêm de la Paz, bị kết án vì tội làm đạo trưởng Hoa Lang đạo, một đạo đã bị nghiêm cấm trên đất nước này.
Sau đó, một viên quan khác đứng lên và nói: “Mặc dù đúng là Hoa Lang đạo đã bị cấm từ lâu, nhưng cho đến nay, chưa một người bản xứ nào trên đất nước chúng ta bị kết án tử hình vì đã theo đạo này. Thế nên, không kết án tử hình đối với Cụ Liêm thì hợp lý hơn”. Lập luận của viên quan này có vẻ thuyết phục với tất cả mọi người, trừ cha Vinh Sơn, người phản đối rằng:
Lý do để kết án Cụ Gia cũng là lý do để kết án tôi, và thậm chí tôi còn đáng bị kết án theo luật pháp Nước Trời hơn, vì tôi chưa tuân giữ luật ấy được như cụ Gia. Nếu luật pháp nước ta có thể cho phép tha tội chết cho tôi, thì cũng phải tha tội chết cho cụ ấy, vì Cụ Gia là đạo trưởng, tôi cũng là đạo trưởng. Nếu chỉ giết Cụ Gia, còn tôi thì tha, án của vua không công minh. Tại sao cùng một việc mà vua lại tuyên án khác nhau. Điều hợp lý là tha thì tha cả hai, còn giết thì giết cả hai, bởi tôi là bạn đồng hành cùng cụ ấy.
Nghe những lời hào hiệp và cao thượng này, lẽ ra các quan lại phải cúi mình thán phục tinh thần của hai cha, nhưng nỗi sợ bị vua và thái hậu trách phạt đã khiến các quan lại ấy nhìn nhận sự việc cách khác đi, và do đó họ trở lại y án, là xử trảm cả hai thừa sai. Chính lúc ấy, khi đám mây u buồn vì sợ mất đi phúc tử đạo đã tan biến trên khuôn mặt cha Vinh Sơn, cha đã vui vẻ trở lại và hạnh phúc vì đã có niềm vui được hiến dâng mạng sống để làm chứng cho đức tin.
Từ đó, hai người bạn đồng hành này được đưa ra pháp trường Đồng Mơ ở ngoài thành, có rất nhiều binh lính áp giải và đám đông hiếu kỳ đi theo, để xem cuộc hành quyết. Các cha đáng kính đang bị nhốt trong cũi, tập trung cầu nguyện, và đọc lớn tiếng các kinh Sám Hối, kinh Tin Kính, và hát vang lời kinh Salve Regina (kinh Lạy Nữ Vương) cho tới khi ra đến pháp trường. Xế trưa, đoàn áp giải đưa hai tử tù đến pháp trường Đồng Mơ, họ đưa hai ngài ra khỏi cũi, tháo gông cùm khỏi chân tay và để các ngài ngồi ngoài trời, đang khi quân lính đóng cọc xuống đất. Rồi, hai chứng nhân tử đạo trao cho nhau nụ hôn bình an vĩnh cửu sau khi đã giao hòa với Chúa qua bí tích Sám Hối với lòng sùng kính mà mỗi người có thể hiểu rõ. Sau đó, các ngài tự cởi áo ngoài mình đang mặc mà trao tặng lại cho các quân lính. Tiếp đến, các ngài được yêu cầu ngồi xuống, rồi bị buộc chân vào cái cọc vừa được đóng xuống đất, để giữ người tù khỏi chạy, còn tay thì bị trói quặt lại sau lưng, và buộc vào một cái cọc khác.
Các đao phủ đã được chỉ định đứng cạnh các tù nhân, đợi chờ tín hiệu được các quan xử án đưa ra. Chiêng trống đổ hồi lên hiệu, đầu của cha Vinh Sơn Liêm rơi xuống đất chỉ sau một nhát chém, nhưng đầu của cha Jacinto Castañeda Gia phải chém ba nhát mới đứt lìa. Cuộc tử đạo đã hoàn tất. Đó là ngày 7-11-1773. Lúc ấy cha Liêm ở độ tuổi 42, còn cha Gia thì mới được 30.
Những người ngoại giáo ở Bắc Hà tin vào việc linh hồn di chuyển và nhập vào người khác, khi chứng kiến các cuộc hành quyết tại kinh thành, thì thường bỏ chạy khi thấy đầu các tử tù lìa khỏi xác, vì sợ rằng hồn người đã khuất sẽ nhập vào mình. Nhưng trong cuộc hành hình của hai cha Jacinto Castañeda Gia và Vinh Sơn Liêm, không ai phải sợ hãi chạy trốn cả. Ngược lại, họ cùng với các giáo dân ùa đến bên hai thân thể vô hồn, tranh nhau thấm máu để tôn kính, hoặc lấy đi một số di vật từ các ngài làm kỷ niệm hoặc để cầu phúc. Những giáo dân đã chứng kiến cuộc hành hình đã bật khóc khi đầu các ngài lìa khỏi cổ và lăn trên đất. Họ vội vàng thu lấy thi hài các đấng tử đạo, thậm chí cả cát đã thấm máu các vị anh hùng đức tin.
Viên quan thi hành án phẫn nộ khi thấy cảnh lộn xộn ấy, bèn lớn tiếng quát nạt: “Các người không coi ta ra gì sao? Sao lại dám lao vào tranh giành xác các tử tù như vậy?” Nhưng đám đông trả lời họ là các giáo dân theo đạo Chúa, trong đó có cả các binh lính, những người giờ đây cũng rời bỏ hàng ngũ, mà lao vào tranh xác hai đấng tử đạo như bao người khác. Viên quan đành bất lực đứng trông, đầy bất mãn, ông quay về triều trình diện và tâu lại với vua, không chỉ những việc đã xảy ra, mà còn nói với vua rằng các giáo dân tôn kính thi hài các đạo trưởng còn hơn cả khi các đạo trưởng ấy còn sống.
Nghe những lời ấy, Chúa Trịnh vô cùng tức giận, ngay hôm ấy, ông liền ban hành một chiếu chỉ cấm đạo gắt gao hơn, và đe dọa bất cứ binh lính nào theo đạo ấy đều phải bị án tử. Nhưng sau đó, do sự can ngăn của một số đại quan, vì e sợ sẽ có cuộc binh biến trong quân ngũ, nên ông đã giảm án tử thành án tù đối với các binh lính theo đạo. Người ta kể rằng, vì sắc lệnh cấm đạo ấy, mà ngày càng có nhiều cuộc đàn áp bắt bớ hơn, hậu quả là các Kitô hữu phải sống hoàn cảnh khó khăn hơn trong một thời gian dài. Nhưng các tín hữu cũng cảm thấy vui lòng vì những nỗ lực của họ đã được thành toàn. Thật vậy, khi cuộc hành quyết diễn ra, các giáo dân đã cố gắng để lấy được thi thể hai vị thánh tử đạo, cùng phần lớn lượng máu, xiềng xích, dây trói và tu phục của các ngài, rồi đem cất giấu ở một nơi an toàn.
Vài hôm sau, một số thầy giảng, theo lệnh của cha Chính Dòng, cùng các cha thừa sai Đa Minh trong địa phận Đông, đã đến Thăng Long (Hà Nội) để đưa thi hài hai vị tử đạo anh hùng về Trung Linh. Nhánh chính của con sông Hồng nối liền Hà Nội tới cửa sông Ninh Cơ, gần Trung Linh, nên rất thuận tiện cho việc đi lại. Do vậy, chỉ trong vòng chưa đầy hai ngày, con thuyền đưa thi hài và các thánh tích của hai vị tử đạo đã về tới Trung Linh. Tại đây, đã có sự hiện diện của các cha: Vicente Ausina, bề trên phụ tỉnh; Feliciano Alonso Phê, quyền đại diện Tông Tòa khi Đức cha Hernández Tuấn vắng mặt; Domingo Pujol; Manuel Esteban; Ignacio Quý de Santa Anna; Tôma Hoàng (Huân) và cha Phêrô de Santa Inés.
Sau khi tất cả những người hiện diện ở đó đã xác nhận đây đúng là thi hài, đầu và thân thể cùng các kỷ vật của hai tôi tớ Chúa, là các cha Vinh Sơn Liêm và Castañeda Gia, các ngài liền lập hồ sơ pháp lý cho tiến trình điều tra Tông Tòa, rồi sau khi hôn kính chân hai đấng tử đạo, các cha hiện diện ở đó đã ký nhận vào biên bản, tiếp đến, các ngài đặt di hài hai cha vào hai chiếc quan tài có khắc hai dòng chữ tương ứng: “Ông cụ Gia” và “Ông cụ Liêm”. Khi đã xong xuôi tất cả các nghi thức trong thánh lễ an táng, thi hài hai đấng đáng kính này được chôn cất ngay trong nền nhà thờ Trung Linh.
D. Tuyên phong chân phước
Tin tức cuộc tử đạo hiển hách của hai cha lan tới Manila, và Tỉnh dòng Rất Thánh Mân Côi đã tổ chức những thánh lễ trọng thể để tạ ơn Thiên Chúa về chiến thắng oai hùng của hai người con của Tỉnh dòng. Tham dự những thánh lễ ấy, không chỉ có các nhân vật lãnh đạo giáo hội và xã hội, mà còn có cả đại diện hoàng gia Tây Ban Nha tại đảo quốc này, cùng đông đảo dân chúng. Tại bán đảo Iberia (bán đảo Tây – Bồ) và cả ở giáo đô Roma, không khí vui mừng hân hoan cũng không kém cạnh nơi miền Viễn Đông xa xôi này, ngay khi tin tức về cuộc tử đạo được Đức cha Hernández Tuấn chuyển đến từ Macao. Khi này, Đức cha Hernández đang trên đường đi Batavia để dưỡng bệnh, và có chuyến thăm tới vị Quản lý của Tỉnh dòng tại Macao. Ngay sau khi hoàn tất việc an táng hai vị tử đạo, các cha thừa sai đã gửi cho Đức cha Hernández Tuấn một bản tường trình chi tiết về những gì đã diễn ra trong nhà tù và nguyên do đưa tới cuộc tử hình của hai cha Vinh Sơn và Giacinto. Đức cha Hernández đã thu thập thêm các tài liệu đáng tin cậy và nhanh chóng gửi tất cả về cho Thánh Bộ.
Đức Giáo hoàng Piô VI, trong bài diễn văn trước Hồng y đoàn ngày 13-11-1775, đã vô cùng xúc động nhắc tới cuộc tử đạo vinh quang của hai đấng. Trong đó, Đức Thánh Cha đã không ngần ngại khẳng định rằng cả hai cha đã nắm được trong tay triều thiên phúc tử đạo, và Đức Thánh Cha còn kể thêm rằng:
Khi đọc bản tường trình về cuộc tử đạo ấy, mắt tôi đã rưng rưng lệ, nhưng là những giọt lệ vui mừng và hạnh phúc, vì thấy rằng khi người ta càng cố che lấp ánh quang của chân lý đức tin, thì chân lý ấy càng tỏ rạng với những tia sáng rực rỡ chói lòa. Cái chết của hai người con của Giáo hội nhắc chúng ta nhớ lại thời kỳ Giáo hội sơ khai, khi nhờ máu của vô số các chứng nhân tử đạo, đức tin Kitô giáo đã được gieo vãi khắp nơi trên trái đất, và trước cả lạc giáo Nestorio, đức tin đã đến tới đế chế Trung Hoa, nơi mà miền Bắc Việt Nam lúc ấy là một tỉnh; và trong Chúa, chúng ta rất đỗi mừng vui vì ngày nay không thiếu những con người giàu nhân đức, đã can đảm đổ máu mình ra để khôi phục niềm tin đã được gieo nơi miền đất ấy. Vì vậy, để tỏ lòng tri ân và quý mến của chúng tôi dành cho anh em dòng Giảng Thuyết, là Dòng mà hai vị tử đạo ấy thuộc về, chúng tôi quyết định trao tước Hồng y cho cha Juan Tomàs Boxadors, người đã khôn ngoan và chính trực lãnh đạo Dòng Giảng thuyết suốt hai mươi năm qua để bảo vệ chân lý của Giáo hội. Chúng tôi muốn cha gia nhập Hồng y đoàn, theo ý nguyện Hồng y đoàn và của Tông Tòa, như các vị tiền nhiệm của cha là các Hồng y Cayetano, Justiniani, Galamini và Pipía đã từng đảm nhận sau khi rời vai trò Bề trên Cả của Dòng Giảng Thuyết.
Mười bảy năm sau ngày an táng hai vị tử đạo anh hùng, tức vào năm 1818, việc xác nhận thi hài lần đầu tiên được ghi nhận từ các thánh tích, hướng tới tiến trình điều tra Tông Tòa để phong chân phước cho hai tôi tớ Chúa. Việc ghi nhận này được thực hiện bởi Đức cha Ignacio Delgado (tên Việt là Y, sau này cũng trở thành một vị thánh tử đạo), Đại diện Tông Tòa tại miền truyền giáo Đa Minh. Đức cha đã ghi nhận thánh tích là thi hài của hai vị tử đạo ở trong tình trạng hoàn hảo như ban đầu. Ngài đã truyền lệnh làm ba cái hòm bằng gỗ chắc chắn, người Việt gọi là gỗ lim, một cái lớn gấp đôi có thể chứa được hai cái kia. Hai cái hòm nhỏ, Đức cha cho phủ ở bên ngoài một lớp sơn son mà đỏ rất tươi, được làm từ nhựa cây sơn ở địa phương, giúp cho gỗ có độ chắc chắn hơn rất nhiều.[12] Trên nắp mỗi chiếc hòm, Đức cha cho khắc tên tương ứng của vị tử đạo có thánh tích chứa bên trong, nội dung đơn giản là: “Cụ Gia” và “Cụ Liêm”. Nhưng không phải các thánh tích được chứa trực tiếp trong hai chiếc hòm này, mà được chứa trong hai cái quách bằng đất sét nung, vốn được sử dụng rộng rãi ở miền Bắc Việt Nam, để bảo quản xương cốt của tổ tiên. Hai cái quách được chứa thánh tích được đặt riêng trong hai chiếc hòm tương ứng, và trên mặt quách, Đức cha cho đặt một thẻ bài bằng chì, trên đó có khắc dòng chữ bằng cả tiếng Annam và tiếng Latin. Chẳng hạn, trên cái quách đựng thánh tích của thánh Castañeda có ghi:
“Đây là xương của Jacinto Castañeda đấng kính, đấng đã chết vì niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô, và tử đạo tại Hà Nội năm 1773, được tôi, với quyền tài phán do Tông Tòa ủy thác, chứng thực trong tiến trình điều tra Tông Tòa.
Giám mục Ignacio Delgado, Đại diện Tông Tòa.”
Thẻ bài trên cái quách còn lại cũng ghi dòng chữ tương tự, chỉ khác biệt duy nhất là ở tên của vị tử đạo, “Vicente Liem de la Paz”.
Việc xác nhận thi hài lần thứ hai được thực hiện thời Đức cha Maximo Fernandez (tên Việt là Định), đề ngày 14/11/1903, theo sự ủy quyền của Roma để tiến hành điều tra phong chân phước. Các thánh tích được khai quật ở độ sâu 3 mét trong nhà thờ Trung Linh theo đúng những ghi nhận của Đức cha Delgado Y, theo cách sắp xếp và trật tự đã được mô tả, và được bảo quản trong tình trạng hoàn hảo, mặc dù những hòm gỗ bên ngoài cũng đã hư hỏng khá nhiều do ẩm ướt. Đức cha cho tách biệt những thánh tích phải gửi về Roma, gửi tới Manila và Madrid, những thánh tích nào phải để lại Việt Nam. Những thánh tích còn để lại Việt Nam được đặt trở lại trong chiếc quách cũ, còn những thánh tích phải chuyển đi thì được đặt trong các chiếc quách làm bằng loại gỗ vàng tâm[13], và cũng được niêm phong bằng thẻ bài có khắc chữ tương tự với dòng chữ trên chiếc quách ban đầu, chỉ thêm vào đó hình cây thánh giá, biểu tượng của đức tin. Sau khi thu thập những miếng ván rời rạc từ các cỗ quan tài đã chứa đựng thánh tích trong rất nhiều năm, Đức cha Maximo Fernandez Định đã cho đóng thành một bàn thờ nhỏ, đặt trong nhà nguyện riêng của vị Đại diện Tông Tòa, ở Tòa Giám mục Bùi Chu.
Sau cùng, ngày 20/5/1906, Đức Giáo hoàng Piô X đã long trọng phong chân phước cho hai vị tử đạo anh hùng Jacinto Castañeda Gia và Vinh Sơn Liêm, cùng với hai vị đã nhận triều thiên tử đạo trước đó 28 năm là các cha Francisco Féderich Tế và Mateo Liciniana Đậu, cùng bốn vị tử đạo sau hai cha Gia và Liêm 88 năm: Jeronimo Hermosilla Vọng (cũng gọi là Liêm), Valentín Berriochoa Vinh, Pedro Almato Bình, và Giuse Khang. Tất cả các chân phước này đã được Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II tuyên phong lên bậc hiển thánh ngày 19-6-1988.
[1] “De Deo scire non possumus quid sit, sed quid non sit” (Summa Theologiae. I pars, q.3, proemium).
[2] Phan Tần Thành, Tim hiểu Dòng Đa Minh, Học Viện Đa Minh, Gò Vấp TPHCM 2016, trang 505.
[3] Theo giải thích của Đức Ông Vinh Sơn Trần Ngọc Thụ: Đứng hàng thứ nhất chính giữa hình là sáu vị đứng đầu danh sách 117 Thánh Tử Đạo Việt Nam, được XƯỚNG DANH trong nghi thức SUY TÔN đó là: Linh mục Anrê Dũng Lạc, thanh niên chủng sinh Tôma Thiện và Cụ Trùm gia trưởng Emmmanuel Lê Văn Phụng, đại diện chính thức cho 96 vị thánh Việt Nam, thuộc ba miền Bắc Trung Nam. - Hai Giám mục Dòng Đa Minh Hermosilla Liêm và Valentino Vinh, đại diện cho 11 thừa sai Tây Ban Nha Dòng Đa Minh (6 giám mục – 5 linh mục) và 27 vị khác quốc tịch Việt Nam thuộc gia đình Đa Minh, (11 linh mục, 6 thày giảng, 3 linh mục và 7 giáo dân dòng Ba Đa Minh)
- Linh mục Théophane Vénard Ven, (áo chùng đen, cổ có ba gạch trắng) đại diện cho 10 thừa sai Pháp thuộc Hội Thừa Sai Paris. (gồm 2 giám mục, 8 linh mục). Cũng ở hàng đầu từ trái qua phải là: Linh mục Phaolô Lê Bảo Tịnh, Hai vị Dòng Đa Minh tử đạo tiên khởi trong danh sách 117 là cha Vinhsơn Phạm Hiếu Liêm là cha Castaneda Gia (quỳ phía trước). Quỳ phía bên phải: Quan Thái bộc Micae Hồ Đình Hy. - Sau lưng là ba vị gia đình cụ Án Đa Minh Phạm Trọng Khảm, với con trai Luca Phạm Trọng Thìn và người em Giuse Phạm Trọng Tả. - Riêng thánh nữ Annê Lê Thị Thành cũng đứng ngay gần giữa bức tranh, đại diện duy nhất của nữ giới Giáo hội Việt Nam. Thánh nữ đã 60 tuổi, nhưng họa sĩ đã xin phép được vẽ trẻ hơn một chút tính theo tuổi của Nước trời.
- Linh mục Théophane Vénard Ven, (áo chùng đen, cổ có ba gạch trắng) đại diện cho 10 thừa sai Pháp thuộc Hội Thừa Sai Paris. (gồm 2 giám mục, 8 linh mục). Cũng ở hàng đầu từ trái qua phải là: Linh mục Phaolô Lê Bảo Tịnh, Hai vị Dòng Đa Minh tử đạo tiên khởi trong danh sách 117 là cha Vinhsơn Phạm Hiếu Liêm là cha Castaneda Gia (quỳ phía trước). Quỳ phía bên phải: Quan Thái bộc Micae Hồ Đình Hy. - Sau lưng là ba vị gia đình cụ Án Đa Minh Phạm Trọng Khảm, với con trai Luca Phạm Trọng Thìn và người em Giuse Phạm Trọng Tả. - Riêng thánh nữ Annê Lê Thị Thành cũng đứng ngay gần giữa bức tranh, đại diện duy nhất của nữ giới Giáo hội Việt Nam. Thánh nữ đã 60 tuổi, nhưng họa sĩ đã xin phép được vẽ trẻ hơn một chút tính theo tuổi của Nước trời.
[4] Thực ra còn một tác phẩm khác nữa, xuất bản cùng năm: Giuseppe Clementi, Gli otto martiri tonchinesi dell’Ordine di s. Domenico solennemente beatificati da Pio Papa X nell’anno 1906, Roma 1906
[5] Có thể tải tài liệu PDF từ https://text.123docz.net › document › 8836053-tesi-1 hoặc: https://iris.uniroma1.it/bitstream/11573/917822/1/Tesi%201.pdf
[6] Trường San Juan de Letran được thành lập năm 1620 tại Manila do ông Jeronimo Guerreo, người Tây Ban Nha, lúc đầu dành để dạy các trẻ mồ côi, dần dần trở thành trường cao đẳng công giáo (1690). Năm 1738, vua Tây Ban Nha cấp 6 học bổng cho các sinh viên Hoa, Nhật, Việt. Cha Vinh Sơn Liêm ở vào số những sinh viên đầu tiên được hưởng học bổng. Địa chỉ website của Colegio de San Juan de Letran: https://www.letran.edu.ph/Colegio/History
[7] Đại học Santo Tomás được thành lập do đức cha Miguel de Benavides OP., tổng giám mục Manila, ngày 28-4-1611 tại Manila và được coi như đại học cổ kính nhất tại Á châu, được tặng danh hiệu “hoàng triều” (royal) năm 1680 và “giáo hoàng” (pontifical) năm 1902. Địa chỉ website https://www.ust.edu.ph/university-history/
[8] Cha Jacinto Castaneda sinh ngày 13-1-1743 tại Xativa (tỉnh Valencia, TBN), gia nhập dòng Đa Minh ngày 30-12-1756 và khấn dòng ngày 11-1-1759. Ngày 8-9-1761, rời quê hương đi Manila và tiếp tục thần học tại đây, thụ phong linh mục ngày 2-6-1765. Lúc đầu cha được cử đi làm việc ở Phúc Kiến, nhưng bị nhà cầm quyền trục xuất. Bề trên cử cha sang Việt Nam, và cha đến nhiệm sở ngày 22-1-1770. Sau 6 tháng học tiếng Việt, cha được cử đến Phú Thái. Cha bị bắt ngày 11-7-1773, và bị xử trảm cùng với cha Vinh Sơn Liêm ngày 7-11-1773, lúc mới được 30 tuổi đời và 8 năm linh mục!
[10] X. Marcos Gispert, Historia de las misiones dominicanas en Tungkin, Avila 1927, p.277.Có lẽ cha Gispert lấy lại ý tưởng của cha Manuel Moreno (Trinh, 1867-1925), người đã dịch tác phẩm sang tiếng Tây Ban Nha và đăng trên Correo Sino-Annamita vol. 31 năm 1902 trang 121 và là tác giả Sử ký địa phận Trung (1916).
[11] X. A. Bianconi, Vita e martirio dei beati domenicani, Firenze 1906, trang 103-107. Chính thánh Liêm cũng thuật lại chuyện này trong thư gửi cho cha Chính dòng.
[12] Đây là kỹ thuật sơn son thếp vàng rất đặc trưng ở ngoài miền Bắc, giúp tuổi thọ của vật dụng làm từ gỗ này có thể tăng lên 400 đến 500 năm.
[13] Vàng tâm là loại gỗ có độ chắc chắn cũng không thua gì với loại gỗ lim, thường được dùng nhiều ở vùng Hải Hậu, Nam Định.