_Thomas Franklin O'Meara, O.P._
Con người là một ranh giới của các thụ tạo linh thiêng và vật chất, tồn tại trong chân trời của vĩnh cửu và thời gian. (Summa contra gentiles)
Những lời của Thánh Tôma chứa đựng trong những trang sách của ngài không chỉ đơn thuần là những ký hiệu ngôn ngữ của các ý tưởng trừu tượng được đặt trong một logic đơn giản. Chúng nhằm diễn tả và chạm đến các thực tại thần linh và con người, đồng thời chứa đựng một động lực để nói với mọi người. Lịch sử về ảnh hưởng của chúng như vừa được mô tả thể hiện sức mạnh của chúng trong việc tác động đến khoa học và nghệ thuật, giáo hội và xã hội.
THẦN HỌC VÀ VĂN HÓA
Văn hóa cho phép thiên tài tỏa sáng, nhưng văn hóa thường nhận được sức sống mới từ những tinh thần sáng tạo. Các họa sĩ hay triết gia tài năng, không hề thoát khỏi sự giao thoa của thế giới và thời đại của họ, nhận ra rằng họ sống và làm việc từ những thế giới xung quanh. Một thiên tài vượt qua thời gian không phải bằng cách tránh né các hình thức và giới hạn của nó, mà bằng cách để sự thấu hiểu trong các chất liệu và mô hình tạo ra một thế giới. Văn hóa đã sinh ra thần học của Thánh Tôma, và trong hơn bảy trăm năm, văn hóa đã gọi ra những ứng dụng khác nhau từ ý tưởng của ngài. Đầu thế kỷ này, nhà nghiên cứu trung cổ người Đức Martin Grabmann đã phản ánh ý kiến của nhiều người khi ghi nhận, "Thánh Tôma chắc chắn là một nhà nghiên cứu văn hóa đặc biệt vĩ đại, thậm chí trong nhiều lĩnh vực vượt trội hơn những gì Dante đã đạt được." Thánh Tôma đã đưa ra một cấu trúc tổ chức cho thông tin cá nhân đến từ đời sống văn hóa cổ điển và thời giáo phụ; thứ hai, cả cá nhân và xã hội xuất hiện trong hệ thống này trong một sự khẳng định về tính cá nhân trong tổng thể của sự sáng tạo.[2] Thánh Tôma không soạn ra một lý thuyết hiện đại về lịch sử văn hóa. Tuy nhiên, vì ngài tiếp xúc với những phong trào của một thời đại vĩ đại, những ý tưởng của ngài có thể được rút ra như các khía cạnh của một thần học về văn hóa. Những quan điểm cơ bản của ngài là những nguyên tắc văn hóa: sự tốt đẹp của sự sáng tạo, lòng quảng đại của Đấng Tạo Hóa trong quyền năng sáng tạo, sự độc lập của các trật tự của hữu thể và ân sủng, khả năng của từ ngữ hoặc biểu tượng để tiết lộ những gì tốt đẹp hoặc thánh thiện. Như các sinh vật trong vũ trụ là những sứ giả của Đấng Tạo Hóa của chúng, các hình thức văn hóa có thể trở thành những bí tích của ân sủng.
Khi nói về sự hiện diện của Thánh Tôma trong văn hóa, chúng ta không chỉ đơn thuần nói đến hình ảnh của ngài trong một bức tranh hay những cuốn sách đóng bìa da của ngài. Thần học của ngài đã phục vụ như một chân trời tôn giáo cho các chính trị gia và tiểu thuyết gia. Các học giả cho chúng ta biết rằng họ có thể thấy ảnh hưởng của ngài trong các hiến pháp chính phủ, các văn bản của Giáo hoàng, hoặc các tường thuật thần bí. Đối với vô số người khác, cách suy nghĩ của ngài về những điều hữu hình và vô hình đến với họ trực tiếp thông qua các tác phẩm của ngài hoặc gián tiếp thông qua ảnh hưởng của ngài đối với Kitô giáo phương Tây và Giáo hội Công giáo. Các sách giáo lý, bài giảng, sách giáo khoa, và các văn bản của giám mục và giáo hoàng đã chứa đựng những chỉ dẫn chung xuất phát từ trường phái Tôma này hay trường phái khác.
Trong lịch sử của Công giáo, các dòng chảy văn hóa của Thời Trung cổ và Cải cách cũng như của thời kỳ Baroque và của thế kỷ XIX và XX đã là những kênh truyền bá thần học và ảnh hưởng của Thánh Tôma. Việc Thánh Tôma sử dụng tâm lý học Aristotle trong thế kỷ 13 đã giúp tìm được chỗ đứng cho thần học trong các trường đại học mới, trong khi cách tiếp cận của ngài về sự tương tác giữa ân sủng và tự nhiên trong những thập kỷ gần đây đã đi vào các thần học và chương trình của Công đồng Vatican II. Nếu Dante đã biến một số ý tưởng của vị tu sĩ Dòng Đa Minh này thành hình ảnh cho một cuộc hành trình toàn cảnh trong thơ ca, thì bảy thế kỷ sau, các nhà Tôma học đương đại đã thấy cách thức thần học này dẫn đến một đánh giá tích cực về các tôn giáo của con người. Một lý do cho sự hiện diện rộng rãi của Thánh Tôma là vì cách diễn giải thần học của ngài về Kitô giáo mang tính nhập thể sâu sắc, và Kitô giáo là một đức tin tập trung vào sự nhập thể. Chương này bàn về thần học trong các lĩnh vực văn hóa như tâm lý học, chính trị, nghệ thuật, tâm linh, giáo hội và các tôn giáo thế giới. Những chủ đề này cho phép chúng ta nhìn lại, từ những góc độ khác nhau, các chủ đề lớn trong thần học của Thánh Tôma.
Trong Nhà nguyện Tây Ban Nha tại tu viện Đa Minh Santa Maria Novella ở Florence, có một bức tranh lớn từ thế kỷ XIV miêu tả Thánh Tôma cầm cuốn Summa theologiae của ngài. Ngài ngồi giữa những người phụ nữ và đàn ông giống như các nàng Muse hay Euclid, đại diện cho nhân văn và khoa học. Bức tranh thể hiện qua các nhân vật, bao gồm cả Thánh Tôma, một trí tuệ tổng hợp nhìn vào toàn bộ sự sáng tạo, một tình yêu đối với cái đẹp, và một cộng đồng văn hóa nhân loại. Thánh Anbetô Cả đã ghi nhận cách nghệ thuật có thể dẫn đến chân lý: "Bất kỳ so sánh thánh thiện nào khác có thể được rút ra, ví dụ, từ các hình thức và hình ảnh, chúng tồn tại không phải như sự lừa dối mà như những lời giới thiệu vào chân lý... và chúng sử dụng mọi loại hình ảnh để miêu tả Thiên Chúa."[3] Thần học của Thánh Tôma không đòi hỏi một sự lựa chọn giữa Thiên Chúa và sự sáng tạo, cũng không nghi ngờ cái tôi hay giả định rằng mọi câu chuyện đều có một kết thúc bi thảm. Những ý tưởng và kết luận của ngài, không phải là một trò chơi lý thuyết hàn lâm, đã vươn tới những điều mới mẻ trong khi vẫn nuôi dưỡng sự tôn trọng đối với sự hiện hữu và cái đẹp của quá khứ. Như một nghệ sĩ vẽ những nét phác thảo ban đầu trên những trang giấy của một cuốn sổ phác thảo cho một bức tranh sau này, những trang sau sẽ vẽ ra một vài khía cạnh của cuộc sống đương đại mà các nguyên tắc của Thánh Tôma có thể đề cập và truyền cảm hứng.
A. TÂM LÝ HỌC
Summa contra gentiles nhận xét rằng con người sống trên ranh giới giữa tinh thần và vũ trụ, giữa vĩnh cửu và thời gian.[4] Thần học của Thánh Tôma rất gắn liền với tâm lý học: sự nhập thể, các bí tích, đạo đức và ân sủng xuất hiện trong một nhân học và một tâm lý học. Đối với thế kỷ XIII, phân tích mới nhất về nhân cách là tâm lý học của Aristotle. Bởi vì sự sáng tạo phản ánh trí tuệ và sự tốt lành của Thiên Chúa, loài người mặc dù có lịch sử đẫm máu vẫn luôn chứa đựng tiềm năng cho sự phát minh, sáng tạo và thánh thiện ở mọi thời điểm. Thomas Merton đã viết:
Thần học của Thánh Tôma là một thần học của sự hòa giải trí tuệ, thay vì duy trì sự tồn tại của nó bằng cách nhấn mạnh vào những đối lập tạo ra vấn đề, nó tự biện minh bằng cách thống nhất những đối lập và nhìn vượt ra ngoài giải pháp khuôn mẫu của các vấn đề. Sự hòa giải nguyên mẫu này hiện diện trong chính ơn gọi của ngài, mà trong khi sống với nó, ngài nhận ra mỗi ngày rằng việc đối mặt với những đối lập tưởng chừng như không thể hòa giải chẳng phải là vấn đề gì cả. Người ta có thể yêu mến và phụng sự Thiên Chúa trong thành phố, dạy các giáo sĩ Kitô giáo từ cuốn sách của một triết gia ngoại giáo.[5]
Con người được ban tặng những khả năng tuyệt vời: họ có thể tiếp cận vũ trụ bằng các phương trình toán học hoặc biến những viên đá xanh và vàng thành tranh khảm. Con người tự do, chủ động, hiểu biết là hình ảnh của Thiên Chúa.
Mặc dù Thánh Tôma định hướng thần học của ngài tập trung một cách năng động vào Thiên Chúa, nhưng nó vẫn có một chiều kích nhân bản trong đó. Phần thứ nhất của ST kết thúc với sự xuất hiện của con người. Hai Phần còn lại tập trung vào cuộc đối thoại giữa nhân cách con người với ân sủng được tạo dựng [ân sủng thụ tạo], và cuộc đối thoại siêu hình của Đức Giêsu thành Nazareth với ân sủng bất bất tạo dựng [ân sủng bất thụ tạo - Chúa Thánh Thần].[6] Trật tự siêu nhiên xuất hiện để phục vụ nhân loại để nhân loại có thể tôn vinh Thiên Chúa bằng nhiều cách. Cái nhìn tích cực này về nhân cách con người giải thích tại sao, miễn là các liệu pháp tâm lý không trở thành các hệ tư tưởng phi tôn giáo (như từng xảy ra với Freud), các khoa tâm lý học lại phù hợp với tư duy Công giáo. Trong những thập kỷ cuối của thế kỷ XX, Công giáo đã chấp nhận nhiều khoa tâm lý học vào thần học luân lý, linh đạo, giáo dục và thần học mục vụ. Hơn nữa, khoa tâm lý học lành mạnh là động lực và khuôn khổ nội tại của các linh đạo. Ví dụ, các lý thuyết của Jung đã được áp dụng vào linh đạo Carmelite, vốn được sinh ra từ kinh nghiệm, Kinh Thánh và học thuyết Thánh Tôma. Không có gì phải sợ hãi khi biết chính mình. Con người biết và yêu thương là một sự sáng tạo đặc biệt mà Thần Khí ân sủng đi vào. Tiếng nói của cái tôi chân thực là tiếng nói của bản tính con người về tự do và tình yêu, và nó có thể mang thông điệp từ Thiên Chúa duy nhất. Trong ST, Thánh Tôma đã khám phá sâu rộng về nhân cách lành mạnh.
Một sự nhấn mạnh rõ ràng vào tiềm năng của con người không phủ nhận những ảnh hưởng rộng khắp, và suy yếu từ tội nguyên tổ. Nhưng ẩn dụ cho tình trạng sa ngã của con người được Thánh Tôma chọn không phải là nô lệ hay cái chết mà là bệnh tật. Dù nguồn gốc hay tên gọi của nó là gì, sự suy yếu cá nhân đó có những khía cạnh tâm lý riêng. Tình trạng tội lỗi làm suy yếu nhân loại biểu hiện qua sự thiếu tương tác hài hòa giữa cảm xúc, phán đoán và ý chí. Một kiểu giảng thuyết tập trung vào con người bị ghét bỏ, bị phán xét bởi một vị Thiên Chúa giận dữ hoặc sự xấu xa và kiêu ngạo của mọi nỗ lực là đối lập với thần học của Thánh Tôma, cũng như một tôn giáo của thất bại, cố chấp và hèn hạ. Nhân cách con người, ngay cả khi nó dễ dàng phạm tội, vẫn bắt đầu và tiếp tục là người nhận lời mời gọi của ân sủng. Tội lỗi như một hành động cá nhân bắt nguồn từ các mức độ phức tạp của tự do và hành vi phạm tội. Nói một cách chặt chẽ, Thánh Tôma nhận xét, chỉ có hành động bạo lực và rối loạn nghiêm trọng sinh ra từ tự do có chủ đích mới xứng đáng với cái tên tội lỗi. Tội lỗi cá nhân là sự từ chối cuộc sống con người cũng như cuộc sống ân sủng, và điều đó xảy ra trong một thế giới tâm lý.
Tội nguyên tổ và tội lỗi cá nhân không phải là di sản duy nhất của tình trạng sa ngã của con người đang hoạt động trong mỗi người: các bệnh tật về cảm xúc cũng có thể tạo ra trở ngại cho ân sủng. Những biến dạng của bản tính, được tự do lựa chọn và thường xuyên chấp nhận theo thời gian trở thành những kẻ bạo chúa của nhân cách, ngăn chặn ân sủng cũng như chúng ngăn chặn cuộc sống con người. Chứng rối loạn thần kinh có thể ở mức độ lớn hơn hay nhỏ hơn cản trở việc thực hiện lựa chọn nhân đức. Ân sủng của Thiên Chúa chuyển động theo những cách huyền nhiệm và sâu kín, nhưng sự ám ảnh và tự cao tự đại, lo âu và trầm cảm sẽ cản trở ân sủng. Bệnh lý làm giảm tự do và giảm khung trách nhiệm tội lỗi. Thật vậy, các nhân cách nghiện ngập hoặc tự ti phổ biến ngày nay đã xuất hiện trong phân tích của Thánh Tôma về những người nam và nữ bị ràng buộc bởi những thói quen tiêu cực dai dẳng mà ngài gọi là tật xấu. Khi ngài theo đuổi chi tiết tâm lý học của các hoạt động con người rối loạn, ngài mô tả các hình thức khác nhau của chúng không phải trước hết là những hành động thoáng qua mà là những biến dạng của nhân cách. Chúng được sinh ra bởi những hành vi xấu lặp đi lặp lại và trở thành nguồn gốc của tội lỗi. Ngược lại, một tâm lý học tích cực và năng động mô tả một cái tôi có khả năng đáp ứng với hy vọng, tình yêu và ân sủng (hoặc bất cứ cách nào người ta gọi tên sự hiện diện của Thiên Chúa). Bởi bản tính và ân sủng, hình ảnh của Thiên Chúa có thể xua tan tôn giáo suy yếu, khép kín và chống lại chủ nghĩa độc tài và chủ nghĩa ưu tú với những giáo phái đi kèm về thất bại và sợ hãi. Ân sủng như một nguyên tắc sống mới, Thánh Tôma kết luận, cho phép các hành động của một công dân của vương quốc Thiên Chúa trở nên tự nhiên và thú vị (I-II, 110, 2).
Đối với Thánh Tôma, mỗi nhân cách cá nhân là một sự sáng tạo trực tiếp của Thiên Chúa, một sự hiện hữu được yêu thương, và mỗi người đều chờ đợi một sự hiện diện tiếp theo của ân sủng. Tiên vàn, rõ ràng Thiên Chúa không phải là kẻ kết án hay thù địch. Mỗi nhân cách được phú cho những hành động thích hợp của đời sống riêng của họ, và vì ân sủng là một nguyên tắc sống, đời sống Kitô hữu của cá nhân cuối cùng phải đúng là thế - một đời sống. Ân sủng đến với một cá nhân thông qua nhân cách của họ, và sự thánh thiện của họ sẽ tự bộc lộ từ địa hình tâm lý riêng của họ. Trách nhiệm và cam kết trước hết đến từ bên trong con người chứ không chỉ từ các mệnh lệnh tôn giáo không hơn gì sự vâng phục một quyền lực, một văn bản, hoặc một thị kiến. Văn xuôi xúc động của Merton khai triển cách ẩn dụ một thần học về ân sủng và nhân cách theo học thuyết Thánh Tôma.
Những hạt giống được gieo trong tự do của tôi mỗi khoảnh khắc, bởi ý muốn của Thiên Chúa, là những hạt giống của chính bản sắc của tôi, thực tại của tôi, hạnh phúc của tôi, sự thánh thiện của tôi. Đối với tôi, trở thành một vị thánh có nghĩa là trở thành chính mình. Do đó, vấn đề của sự thánh thiện và cứu rỗi thực sự là vấn đề tìm ra tôi là ai và khám phá ra bản ngã thật sự của mình.... Bí mật về bản sắc của tôi được giấu kín trong tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa. Vì vậy, chỉ có một vấn đề mà toàn bộ sự hiện hữu, sự bình an và hạnh phúc của tôi phụ thuộc vào: khám phá bản thân trong việc khám phá Thiên Chúa.... Nhưng mặc dù điều này có vẻ đơn giản, trong thực tế nó cực kỳ khó khăn. Thực ra, nếu tôi bị bỏ mặc một mình, điều đó sẽ hoàn toàn không thể. Vì mặc dù tôi có thể biết đôi điều về sự hiện hữu và bản tính của Thiên Chúa bằng lý trí của mình, không có cách nào bằng con người và lý trí mà tôi có thể đạt được sự tiếp xúc, sự chiếm hữu Người vốn sẽ là khám phá về việc Người thực sự là ai và tôi là ai trong Người.[7]
Thiên Chúa, Đấng tạo ra tôi và Đấng ban ân sủng cứu chuộc là một, và nhân cách của tôi có vị trí riêng về ơn gọi và bản sắc. Vì vậy, Merton có thể đưa ra ý tưởng bất thường rằng bản sắc, thực tại, hạnh phúc và sự thánh thiện của tôi có liên quan mật thiết với nhau, tất cả đều là con cái của tự nhiên và ân sủng.
Lòng nhiệt thành tôn giáo không giống như việc tìm kiếm tự do hay cuộc đối thoại suốt đời với ân sủng thiêng liêng. Sự hiện diện của Ngôi Lời và Chúa Thánh Thần là liều thuốc giải độc cho sự thờ phượng các vật thể và chủ nghĩa ưu tú kiểm soát Thiên Chúa, những đặc điểm của mọi chủ nghĩa cơ bản. Tâm lý học về ân sủng này, như chúng ta đã nhấn mạnh trước đây, là đối lập với mọi tôn giáo sinh ra từ sự ép buộc và lo lắng, và với mọi hệ tư tưởng đưa ra chủ nghĩa giáo điều và áp bức.
B. NGHỆ THUẬT
Thánh Tôma đã tiếp cận với thế giới nghệ thuật theo nhiều cách. Đầu tiên, ngài đưa ra một lý thuyết ngắn gọn về cái đẹp và các nghệ thuật thực hành. Ngài cũng sử dụng các phép loại suy được rút ra từ các nghệ sĩ và nghệ thuật cho thần học: ví dụ, Thiên Chúa như một nghệ sĩ, các bí tích như dấu chỉ, sức mạnh chiếu sáng của ánh sáng. Cuối cùng, có một khía cạnh thơ ca trong tư duy thần học của ngài; ngài thích thú với sự đa dạng của diễn ngôn và phát triển vai trò của ẩn dụ và ngụ ngôn. Hơn nữa, vị tu sĩ này còn sáng tác thơ cho phụng vụ.
Tư tưởng của ngài đã kết hợp các ý tưởng về nghệ thuật phổ biến vào thế kỷ XIII. Truyền thống tân Plato được đại diện bởi các tác phẩm của Pseudo-Dionysius khẳng định sự thống nhất giữa cái thiện và cái đẹp: Thiên Chúa là sự hòa hợp và sự rực rỡ cao cả đằng sau hữu thể và chân lý. Thánh Tôma đồng ý rằng vẻ đẹp của thụ tạo xuất phát từ căn nguyên hành động của Thiên Chúa và mang một sự giống nhau phảng phất với vẻ đẹp của Thiên Chúa.[8] Nhưng các tác phẩm của Aristotle cũng đưa ra một lý thuyết để hiểu các đặc điểm của một tác phẩm nghệ thuật: hình thức, sự rõ ràng, sự rực rỡ, và tác động nổi bật của một bức tượng được vẽ hoặc của kết thúc một vở kịch. Một nhà lý thuyết thẩm mỹ thứ ba, Augustine, nói về sự phù hợp và tỷ lệ của các phần trong cái đẹp. Thánh Tôma đã kết hợp ba cách tiếp cận này khi ngài giải thích rằng một tác phẩm nghệ thuật - có thể là một bài hát hoặc một bức tranh khảm nhưng cũng có thể là một chiếc ghế hoặc cái ly được sản xuất tốt - là một thực tại truyền đạt đến giác quan và tâm trí của chúng ta tổng thể các hình thức và đặc điểm nổi bật. "Cái đẹp là những thứ khi nhìn thấy mang lại niềm vui" (I, 5, 4, 1).
Vẻ đẹp vừa khách quan vừa chủ quan: nó được tìm thấy trong các hình thức tiếp xúc với thị giác, tri thức và thính giác của con người. Nghệ thuật là sự soi sáng của giác quan và tâm trí. Điều làm cho tác phẩm nghệ thuật khác biệt là sức hấp dẫn giác quan của chúng. Tác phẩm nghệ thuật mang lại niềm vui cho giác quan, ý nghĩa cho trí tuệ và cảm xúc cho tình cảm. Màu sắc, âm thanh và từ ngữ của nghệ thuật được tạo nên để trực quan dẫn dắt chúng ta đến chiều sâu ý nghĩa bên trong các hình thức biểu tượng; chúng tiết lộ cái vô hình trong cái hữu hình. Mặc dù có thể gây sốc với sự thiếu mạch lạc gồ ghề hoặc sự đồi bại kỳ quặc, những thứ xấu xí về mặt hình thức không thể là nghệ thuật của con người trong hình thức hay tác động của nó. Sáng tạo của con người có tiềm năng to lớn và vô số lựa chọn, nhưng nghệ thuật kết nối thiên nhiên, trí tuệ và đam mê sẽ không chế giễu thực tại hay phủ nhận con người. Mặc dù Thánh Tôma đã nhấn mạnh vẻ đẹp phản chiếu của Thiên Chúa trong thế giới tự nhiên, sự hiện hữu và ân sủng, trong một tác phẩm nghệ thuật cụ thể, ngài nhấn mạnh vẻ đẹp của đối tượng cụ thể này. Nghệ thuật mang tính nghịch lý: một mặt chúng ta thoáng thấy một thực tại nào đó khi nó tạm thời tách biệt khỏi dòng chảy thời gian, và mặt khác, chúng ta có một linh cảm về sự viên mãn trong tương lai nào đó. Những gì manh mún và thoáng qua chỉ ra điều gì đó lớn hơn khi nó tồn tại và tỏa sáng. Và cuối cùng đó là "vẻ đẹp của sự thật."[9]
Nghệ sĩ là người có tài năng và kỹ năng để tạo ra những sản phẩm. Sự phân biệt giữa mỹ thuật và các loại hình nghệ thuật khác không nổi bật trong thời Trung cổ, và Thánh Tôma nghĩ đến cả người làm yên ngựa lẫn nhà điêu khắc. Nghệ thuật là việc áp dụng đầy cảm hứng những kiến thức đúng đắn trong lĩnh vực của các vật thể (I-II, 57, 3). Trong các chương trước, chúng ta đã thấy Thánh Tôma đề cập đến Đấng Tạo Hóa như một nghệ sĩ theo nghĩa thời trung cổ. Nghệ thuật của Thiên Chúa hoạt động trong việc sáng tạo ra các sinh thể không phải từ ý chí thất thường mà từ kế hoạch và trật tự: "Thiên Chúa tạo ra các hiệu quả của Người theo sự khôn ngoan của Người."[10] Giống như người chỉ đạo toàn bộ cấu trúc của một nhà thờ, nguồn gốc thiêng liêng là một nghệ sĩ kiến trúc. Vẻ đẹp đặc biệt được gắn với Ngôi Lời của Thiên Chúa Ba Ngôi, Đấng như hình ảnh của Chúa Cha có ánh sáng thiêng liêng và vinh quang rực rỡ (I, 39, 8). Qua sự sáng tạo, Thiên Chúa tỏ lộ vẻ đẹp, và Ba Ngôi trong cộng đoàn nội tại chia sẻ sự sống của mình luôn tỏa sáng. Chúng ta đều được chia sẻ cả hai vẻ đẹp này. Nghệ thuật dẫn đến ánh sáng: Thánh Tôma, nhà tư tưởng về ánh sáng, là nhà thần học mà với ngài, Thiên Chúa đã lan tỏa ánh sáng theo nhiều cách khác nhau. Thực tại và ẩn dụ về ánh sáng xuất hiện thường xuyên trong các tác phẩm của ngài. Ánh sáng, sự phù hợp và sự rực rỡ giải thích mỹ học của đá hoặc biểu tượng. Giống như ánh sáng chiếu trên vùng đồi núi của nước Ý hay ánh sáng chiếu qua cửa sổ của các nhà thờ tại Pháp, Thiên Chúa như Đấng Hiện Hữu là nguồn gốc của vô số phương thức và thực thể là những ánh sáng tồn tại từ bóng tối của phi hiện hữu. Song song với mặt trời cho ánh sáng và chiếu sáng vạn vật, Thiên Chúa ban ân sủng và mặc khải, sự tham dự vào ánh sáng thiêng liêng sâu sắc hơn. Ân sủng là ánh sáng làm sinh động nhân cách và soi sáng ý thức bằng đức tin, bằng sự hiểu biết phong phú hơn và bằng sự thận trọng sáng suốt.
Một nền thần học nhập thể tất yếu có một sự khác biệt về mặt thẩm mỹ. Sự nhập thể mang Lời của Thiên Chúa, Đấng là sự khôn ngoan và vẻ đẹp, vào trong thực tại của đời sống con người. Chúa Kitô là hình ảnh của Thiên Chúa cũng như là đầu của nhân loại đang tiến bước qua lịch sử. Trong các biểu tượng tôn giáo, các bí tích và nghi lễ, màu sắc và cử điệu làm nên sự hiện diện linh thánh. Thánh Tôma viết rằng, nghệ thuật đã được đưa vào giáo hội từ rất sớm vì ba lý do: để dạy những chân lý cơ bản của đức tin; để trình bày thông qua các hình thức hình ảnh sự nhập thể của Ngôi Lời trong Chúa Giêsu và cuộc sống của các thánh như những tấm gương cho chúng ta; và cuối cùng là để kích thích lòng sùng kính, vì nhìn thấy thì mạnh mẽ hơn nghe thấy.[11]
Hình dung Thiên Chúa như một nghệ sĩ giúp soi sáng vấn đề phức tạp, không thể giải quyết về mối tương quan giữa Đấng Tạo Hóa và thụ tạo. Các nhà tư tưởng Kitô giáo và Hy Lạp đã nhấn mạnh khoảng cách, sự khác biệt về hiện hữu hay sự thiện hảo giữa cái Vô hạn và hữu hạn. Tuy nhiên, một chiếc cầu tương đồng của các khái niệm được rút ra từ những khía cạnh vô cùng mờ nhạt nhưng thực sự vươn từ các sinh thể của vũ trụ đến hành động thiêng liêng đã khởi đầu những nguyên tố cơ bản của hydro và oxy. Đấng Tạo Hóa có bị thay đổi bởi sự sáng tạo không? Chúng ta có thể hỏi: Nghệ sĩ có tìm thấy niềm vui, sự trọn vẹn trong việc làm nên vở kịch không? Chắc chắn có. Nhưng màu sắc của bức tranh hay các hành động trong vở kịch không gây nên sự ngạc nhiên hay mở rộng nghệ sĩ một cách đáng kể. Người nghệ sĩ đã hình dung ra mọi chi tiết từ nhiều lựa chọn. Với Thiên Chúa cũng vậy. Sự sáng tạo và lịch sử tôn vinh Thiên Chúa nhưng thành tựu của con người, cuộc sống và văn hóa, các sự kiện sinh ra từ điều thiện hay điều ác được phép xảy ra bởi Thiên Chúa, không làm ngạc nhiên Thiên Chúa.
Một tác phẩm nghệ thuật được tạo ra bởi trí thông minh, kế hoạch và bản năng. Một bài thơ được thôi thúc bởi khát vọng chia sẻ trải nghiệm, và một bản sonat mang dấu ấn của nhà soạn nhạc: cả hai đều là những món quà từ chiều sâu của tài năng. Chú ý đến khía cạnh chủ quan của tác phẩm nghệ thuật, Thánh Tôma đặt nghệ thuật trong nhân cách nơi tài năng, cảm xúc và trực giác gặp nhau. Nghệ thuật không hoàn toàn là vấn đề lý tính mà tuôn chảy từ mặt trực giác của nhân cách. Giống như vận động viên hay cha mẹ giàu lòng yêu thương hay vị thánh,[12] nghệ sĩ không chỉ suy nghĩ và nhìn thấy mà còn cảm nhận, chạm vào và chịu đựng. Thánh Tôma lưu ý cách lý trí, ý chí và cảm xúc "chứa đựng lẫn nhau" (I, 16, 4, 1), và cách chúng trải nghiệm và sáng tạo thông qua tương tác. Tri thức nghệ thuật là sự hiểu biết - nhưng là hiểu biết của trực giác và tuệ giác. Tuệ giác tiếp xúc trực tiếp với điều được yêu thương; trực giác sinh ra sự hợp nhất siêu lý tính, nhận thức với điều được biết. "Yêu thương kéo chúng ta đến với sự vật nhiều hơn là hiểu biết" (I-II, 22, 2). Trực giác được thôi thúc bởi cảm xúc và tình yêu, và kiểu tri thức này đến thông qua cảm xúc. Thánh Tôma giải thích tuệ giác và sự hiểu biết nghệ thuật thông qua sự xuất thần của đồng cảm và thấu cảm. Thông qua sự tương đồng, một sự kết hợp xuất hiện, một "đồng bản tính" (Connnaturality). Tình yêu và niềm vui làm tương đồng người biết và điều được biết hoặc người yêu và điều được yêu (II-II, 32, 3). Nghệ sĩ là một với đối tượng nghệ thuật. Bằng cách yêu cái đẹp trong các vật thể, họ có cảm nhận về cách làm việc và cách tạo ra, và vì vậy người sáng tạo sống từ sự đồng cảm với nỗ lực nghệ thuật.
Các khả năng - toán học, nghệ thuật hay thể thao – xuất phát từ di truyền và rèn luyện. Trong nghệ thuật, Aquinas giữ cho các lĩnh vực cuộc sống và ân sủng được phân biệt rõ ràng. Tài năng nghệ thuật xuất phát từ lĩnh vực tâm lý riêng của nó và không được ban bởi ân sủng hay mất đi vì tội lỗi. Những đường nét của một cá tính với tài năng và hạn chế của nó đến từ tự nhiên, từ gen và giáo dục. Mặc dù một đời sống đạo đức sẽ nâng cao điều kiện của bất kỳ nỗ lực nhân sinh nào, và mặc dù đức tin Kitô giáo sẽ mở ra những cánh cửa cho sự tương tác thực sự giữa ân sủng và tội lỗi, nhưng ân sủng và hành vi đạo đức không tạo ra tài năng vĩ đại. Cầu nguyện sẽ không biến một nhạc sĩ trung bình thành một Beethoven thứ hai, việc đọc Kinh thánh cũng không biến một họa sĩ tầm thường thành Monet. Nhân cách và sự hiện diện của ân sủng thiêng liêng ảnh hưởng đến mỗi cá nhân, nhưng những thiên phú tự nhiên có tính độc lập và sức mạnh riêng của chúng. Vì tội lỗi và thói xấu làm tê liệt nhân cách, chúng cũng có thể cản trở sự sáng tạo, nhưng, như lịch sử nghệ thuật cho thấy, sự phóng đãng và sự hẹp hòi không chấm dứt tài năng.
Trong một cách rất khiêm tốn, Thánh Tôma là một nghệ sĩ. ST (Summa Theologica) bao gồm vô số ý tưởng và trích dẫn không chỉ có trật tự mà còn có tính đối xứng. Ngài chú ý đến từ nguyên, thể loại văn học, và thậm chí cả biểu tượng của các con số.[13] Có những tư tưởng dạng châm ngôn, chẳng hạn như quan điểm rằng "đức tin hướng về chân lý cao nhất trong khi hy vọng bị cuốn hút bởi quyền năng uy nghiêm nhất" hoặc rằng các tạo vật được ban cho "món quà của việc trở thành một nguyên nhân."[14] Các chủ đề thần học của ngài hay các hình thức liên kết các phần theo cách riêng của chúng là thực sự rất đẹp. Nhưng trật tự và sự hấp dẫn không có nghĩa là thần học của ngài là một thần học thẩm mỹ. Nó quá chú trọng vào việc giải thích các thực tại để có thể được xem như vậy. Nhà thần học trở thành nhà thơ khi ngài sáng tác các bản văn cho phụng vụ của tu viện và Thánh Thể công cộng cho lễ Mình Thánh Chúa. Vì điều đó, ngài phải viết các đối ca và sắp xếp các bài đọc được chọn. Ngài đã viết một số thánh ca mà hình ảnh và vần Latin của chúng đã truyền cảm hứng cho nhiều người qua các thế kỷ: "Tantum ergo sacramentum, veneremur cernui" ("Cúi mình thờ lạy Bí tích cao sang"). Andreas Speer cho rằng sự đánh giá mang tính chủ quan và trải nghiệm của Aquinas về nghệ thuật không xuất phát từ lý thuyết thẩm mỹ mà từ phụng vụ. Phụng vụ chuyển tải và làm sống động kiến trúc của các nhà thờ chính tòa và tu viện qua biểu tượng và hành động. Thơ ca, ẩn dụ và thánh ca của Aquinas đã lay động tâm hồn của những người nam nữ chen chúc trong những không gian huyền bí được trang trí bởi các tác phẩm nghệ thuật.[15]
Chúng ta có thể thấy các khía cạnh của thần học của Thánh Tôma về hoạt động của con người giữa ân sủng và tội lỗi trong thơ của John of the Cross hay Gerard Manley Hopkins. Hoặc dưới những chiếc mặt nạ của tội lỗi và mỉa mai trong các tiểu thuyết của Graham Greene và Flannery O'Connor. Chúng ta có thể nghe thấy một khát vọng vui tươi nhằm bộc lộ điều thiêng liêng trong các nhà soạn nhạc như Francis Poulenc và Olivier Messiaen. Trong nghệ thuật, các hành động của con người hoặc tiếp nhận hoặc trốn chạy ân sủng, và các thế lực của cái ác, dù mạnh mẽ, không bao giờ được định trước hay cố định. Cả thần thánh lẫn con người đều không thiếu mạch lạc hay gây sốc. Sự bình thường trong cuộc sống và ân sủng tất yếu cung cấp khuôn khổ cho nghệ thuật cũng như cho thần học.
Mục tiêu của tài năng nghệ sĩ là mang lại sự thấu hiểu về thế giới tự nhiên và văn hóa con người. Cuối cùng, nghệ thuật là một sự sáng tạo chứ không phải là sự hủy diệt, và trải nghiệm thẩm mỹ là một sự khám phá, một sự chấp nhận mặc khải. Năng lượng trực giác của cá tính con người cũng quan trọng đối với thần học về cầu nguyện, chiêm niệm và huyền bí của Thánh Tôma. Sự chia sẻ thiên phú và cảm xúc trong hiện hữu, tính đồng bản thể đặc trưng của nghệ sĩ sáng tạo, có liên hệ với các nhà huyền bí, bởi vì lời cầu nguyện của người chiêm niệm mang tính trực giác, một sự hiểu biết được tiếp sức bởi tình yêu (III, 7, 2, 2; 45, 4).
C. LINH ĐẠO
Linh đạo là tâm lý học thần học. Một người lựa chọn và sắp xếp một số giáo huấn từ trong đức tin Kitô giáo. Nam giới và phụ nữ hình thành một cái nhìn về bản thân, thế giới và Giáo hội, nói ngắn gọn, một thần học về Chúa Giêsu Kitô mà họ cảm thấy có sức hấp dẫn. Trong các nhà thần bí và những nhà hoạt động xã hội ngôn sứ, trong các vị thánh được tôn kính phổ biến và trong các nhà sáng lập dòng tu, chúng ta gặp những cá nhân nổi bật đã hình thành thần học cá nhân của họ, tức là, một linh đạo. Từ "linh đạo," có nghĩa là đức tin được cá nhân hóa và áp dụng, là một khái niệm khá mới. Thánh Tôma không sử dụng thuật ngữ này theo nghĩa hiện đại; ngài dùng nó cho khía cạnh tâm linh của đời sống chúng ta, những năng lực cao hơn ham muốn xác thịt; chỉ một vài lần ngài ám chỉ đến đời sống của Thần Khí trong chúng ta, đời sống của ân sủng.[16] Lịch sử và tâm lý tạo ra một linh đạo: một thần học được thực hiện trong cầu nguyện, một sự sắp xếp cá nhân về các chân lý và quyền năng Tin Mừng, một mô hình niềm tin được kích thích bởi thời đại của chính mình. Ở các quốc gia và thời đại khác nhau xuất hiện những cá nhân mà cách giải thích cá nhân của họ về Tin Mừng hấp dẫn người khác; sự tiếp nhận nó nơi những người khác phản ánh những trải nghiệm tương tự với Tin Mừng. Một linh đạo, dù là Xitô hay Camêlô, có thể thu hút người theo vào một dòng tu, vào tu viện hay trường học của đấng sáng lập. Các mô hình cầu nguyện hay mục vụ - người ta nghĩ đến những người theo Charles de Foucauld hay Dorothy Day - cũng có thể thu hút Kitô hữu phục vụ xã hội. Một thời đại định hướng tâm lý, dù trong thời kỳ Baroque hay thời kỳ đương đại, đặc biệt quan tâm đến các linh đạo: ttimf kiếm trong đó những cách cầu nguyện và kỹ thuật thiền định.
Một linh đạo ảnh hưởng và tồn tại chỉ khi nó thu hút được những người đi theo, những tâm hồn đồng điệu trong nhiều nền văn hóa qua các thế kỷ. Kitô giáo rất phong phú đến nỗi có thể hoạt động trong nhiều linh đạo khác nhau: trong những hành trình và quan điểm thế giới đa dạng xuất phát từ các thời đại khác nhau. Các linh đạo minh họa thần học trở nên cụ thể, như chính trị và nghệ thuật. Giáo huấn của Thánh Tôma, với sự hỗ trợ của đại gia đình nam nữ Đa Minh, lan rộng khắp nơi. Nó chạm đến các nhà thần bí Đa Minh vùng Rhineland như Johannes Tauler và truyền cảm hứng cho một nhà thuyết giáo đại chúng như Johannes Nider. Trong thế kỷ XIV, Catherine thành Siena và John Dominici đã lấy các nguyên tắc thần học và kinh nghiệm cá nhân đưa vào các phong trào cải cách. Ở Tây Ban Nha trong thế kỷ XVI, những nhà sáng lập cộng đoàn tu sĩ đổi mới như dòng Tên của Ignatius Loyola hay dòng Camêlô của Teresa thành Avila và John thánh giá đã lấy cảm hứng từ Thánh Tôma. Trong sự ra đời của các trường phái tâm linh ở Pháp vào thế kỷ XVII, Pierre de Berulle là vị linh hướng cho nam nữ sáng lập các trường cầu nguyện và các tu hội, và ngài cũng đọc Thánh Tôma. Trong việc canh tân mục vụ của Giáo hội Pháp trong những năm 1950 dẫn đến Công đồng Vatican II hoặc trong các tác phẩm của Edith Stein hay Gerald Vann, người ta có thể thấy thần học tâm linh của Thánh Tôma.
Một nền thần học vĩ đại vừa mang tính lý thuyết vừa mang tính thực hành; nó là cách nhìn về Kitô giáo và là một cách sống. Thần học mạnh mẽ như thế lan tỏa sang linh đạo, và ngược lại. Nơi tu sĩ Tôma Aquinô, chúng ta thấy một giáo sư thánh thiện, một nhà thần học là một vị thánh. Các nguyên tắc linh đạo của Thánh Tôma giống như những nguyên tắc thần học của ngài: sự hiện diện của Ba Ngôi, đời sống con người, một vũ trụ của hành động, mặc khải và ân sủng được thực hiện trong đức tin và tình yêu cá nhân. Chúng ta thấy rằng, khi Thánh Tôma trưởng thành, cuộc đời ngài theo đuổi một tìm kiếm khá can đảm và độc lập về Thiên Chúa và thần học, về con người và mục vụ và giảng dạy. Theo lời của Ulrich Horst, "Thánh Tôma Aquinô trong tất cả các giai đoạn quan trọng của sự nghiệp học thuật đã bàn về những vấn đề xuất phát từ suy tư của ngài về lý tưởng nghèo khó Tin Mừng và việc theo Chúa Giêsu và các Tông đồ."[17] Các tác phẩm trưởng thành của ngài xem xét việc theo Chúa Kitô dưới ánh sáng Tin Mừng và truyền thống của các nhà thần học vĩ đại. Chúng cân bằng sự nghèo khó với mục vụ hiệu quả, giữa thực hành tôn giáo bên ngoài với định hướng nội tâm trung thực và khiêm tốn của tinh thần cá nhân hướng về Thiên Chúa.[18] Cầu nguyện và thần học của ngài tìm kiếm Thiên Chúa qua tri thức và đức tin, những điều tuôn chảy qua cảm xúc và tình yêu. Các tác phẩm của ngài là món quà và tài liệu của đời sống tâm linh của ngài; việc dạy học và viết lách không chỉ là mục vụ mà còn là thờ phượng. Thánh Tôma hầu như không viết gì về các kỳ tĩnh tâm, kỹ thuật thiền định, hay các loại thị kiến thần bí. Trong thời Trung cổ, linh đạo Kitô giáo không tách biệt thần học khỏi các suy tư về Chúa Kitô, luân lý, hay phụng vụ. Suy tư và đời sống Kitô giáo là một tổng thể, và các tường thuật của Kinh thánh hay các giải thích thần học về một bí tích nuôi dưỡng đời sống tâm linh.
Qua các thế kỷ, trường phái Đa Minh của các nhà chú giải về Thánh Tôma đã cố gắng giữ lại quan điểm của ngài rằng thần học là linh đạo, và linh đạo không chỉ là những thực hành khổ hạnh hay hướng dẫn cho các giai đoạn thiền định. Thánh Tôma bàn về đời sống hằng ngày và đời sống cầu nguyện trong các suy xét về Thiên Chúa, Chúa Giêsu Kitô, ân sủng và đời sống con người. Bởi vì quan điểm của ngài khẳng định sự tốt lành của tạo dựng và sự nhập thể của ân sủng, thần học của ngài đã truyền sức mạnh cho thần học chính trị và các linh đạo huyền bí phù hợp với các kiểu người nam nữ khác nhau. Chenu viết: "Cả Cải cách và Phục hưng, và cả nguồn gốc của hiện đại tính, đã xứ toạc vấn đề trung tâm - nhân loại và ân sủng của Thiên Chúa - khỏi sự thực hiện đa dạng của nó trong các linh đạo khác nhau. Thánh Tôma là bậc thầy tâm linh của một quan niệm về ân sủng và tự nhiên, và sự kết hợp của chúng được chiếu sáng rõ ràng từ sự sắp đặt ban đầu, nhưng đồng thời, mỗi quan niệm giữ một chân lý đặc biệt của riêng nó."[19]
Một số khuynh hướng nổi bật của linh đạo đối lập với thần học Tôma về đời sống tâm linh. Họ nhấn mạnh vào khoảng cách giữa thế tục và thánh thiêng, vào việc mô tả thần bí học như điều phi thường, hoặc họ giản lược đời sống Kitô hữu thành sự vâng phục ý Chúa hay ý của các nhà lãnh đạo giáo hội. Những hướng khác lại tạo ra một 'sân khấu' tôn giáo dựa trên ý chí thất thường hay cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, một chủ nghĩa khổ hạnh nghiêm ngặt tự áp đặt, hoặc giản lược Tin Mừng thành thập giá. Trong thần học của Thánh Tôma về con người như hình ảnh của Thiên Chúa và là môn đệ của luật yêu thương, sự thánh thiện xuất phát từ một sự trưởng thành tâm lý dựa trên sự khôn ngoan của Chúa. Bất kỳ hình thức từ bỏ bản thân nào cũng chỉ phục vụ cho sự sống. Trước mặt Chúa là Đấng Khôn Ngoan và Tình Yêu, không có chỗ cho sự vâng lời mù quáng, những ý định sùng kính nhưng không thực tế, hay tìm kiếm đau khổ như một mục đích tự thân. Do đó, tránh xa bất kỳ gợi ý nào cho rằng đời sống Kitô hữu là gò bó, tự hủy hoại, hoặc phi thực tế, thần học này không ủng hộ những nhóm tôn giáo kêu gọi hy sinh lý trí, tài năng hay cá tính cho các quyền bính. Nó không khuyến khích sự thụ động sợ hãi trước một ý chí thất thường của Thiên Chúa. Đau khổ là một điều xấu: đỉnh cao của đời sống Chúa Giêsu không phải là thập giá mà là giáo huấn và sự phục sinh của Người. Một phản ứng lành mạnh của con người đối với ân sủng không nên kiểm soát hay trốn tránh cá tính thông qua các ý tưởng sùng kính hoặc cơ cấu giáo hội. Linh đạo Tôma mang tính tích cực và năng động; nó thực tế về mặt tâm lý; nó nâng cao cá nhân. Những trải nghiệm của một đời sống (không phải những điều được phác họa một cách đa cảm trong các huyền thoại về một vị thánh xa xôi nào đó) sẽ hình thành nên những hình ảnh và sức hấp dẫn của điều thiêng liêng.
Một số học giả đã liệt kê những điều họ tin là những đường nét cơ bản trong linh đạo của Thánh Tôma Aquinô. Đầu thế kỷ này, Martin Grabmann đã sắp xếp nó xung quanh các chủ đề về sự khôn ngoan, bác ái và bình an, rồi kết nối ba điều đó với sự nhập thể của Chúa Giêsu Kitô. Gần đây, Walter Principe đã chọn các chủ đề về giá trị của mỗi người như hình ảnh Thiên Chúa và luật mới nội tâm của Thần Khí với các ơn của Người. Principe cũng nhấn mạnh sự toàn vẹn của con người, con người không phải là một nhị nguyên lỏng lẻo của thể xác và linh hồn. Đời sống Kitô hữu không chỉ quan tâm đến linh hồn, bây giờ hay trên thiên đàng, mà còn quan tâm đến con người với tính dục, ham muốn và cảm xúc là những khía cạnh của nhân cách được ân sủng chạm đến. Ý muốn của Thiên Chúa không bỏ qua đời sống của tôi mà bao gồm không chỉ trí tuệ và đức tin của tôi mà còn cả cảm xúc, toàn thể thân xác và linh hồn của tôi. Tất cả đều góp phần vào việc đưa ra quyết định luân lý và sống đời sống tâm linh. Nếu mỗi cá tính theo cách riêng của nó là độc đáo và nếu ân sủng truyền cảm hứng cho bản tính con người, thì Thiên Chúa dẫn dắt qua, chứ không phải tách rời khỏi, cá tính của tôi. "Thiên Chúa trong vĩnh cửu đang hiện diện tích cực ở đây và bây giờ để giúp tôi tìm ra ý Chúa. Chính ở đây và bây giờ mà tôi phải cố gắng phán đoán điều gì là tốt nhất, công bằng nhất và yêu thương nhất để làm."[20] Như đức tin sâu xa hơn các mệnh đề, ân sủng cũng hơn cả các nghi thức tôn giáo. Principe kết luận với một suy niệm về cách Chúa Giêsu Kitô, như con người và đấng cứu độ, hiện diện trong toàn bộ lịch sử nhân loại. "Chúng ta nên suy tư và khám phá sự hiện diện và ảnh hưởng tích cực, thường ẩn giấu, của Chúa Giêsu Kitô, Chúa Phục Sinh, trong toàn bộ đời sống Kitô hữu và trong toàn bộ lịch sử nhân loại. Vì Chúa Kitô là Chúa của toàn bộ lịch sử nhân loại và của vũ trụ chúng ta và sự phát triển của nó. Người can thiệp không phải để phá hủy những phát triển tốt lành của trật tự tạo dựng mà đúng hơn là để thúc đẩy sự tiến bộ của nó cho đến khi Người đến lần cuối khi quyền cai trị của Ngài sẽ hiện rõ và được tất cả công nhận một cách rõ ràng."[21]
Jean-Pierre Torrell vẽ ra một quỹ đạo của linh đạo Thánh Tôma từ Ba Ngôi đến con người sống trong thế giới. Linh đạo này là "một trình bày về toàn bộ thực tại của Tin Mừng trong một cân bằng năng động."[22] Ngài tìm thấy nguồn gốc của nó trong Kinh thánh (đặc biệt là trong thư Thánh Phaolô, và trong Tin Mừng theo Thánh Gioan và Matthêu), trong phụng vụ, và trong thánh Augustine và các nhà thần học Hy Lạp. Linh đạo Tôma, luôn sở hữu một tính khách quan cân bằng nào đó, bắt đầu với những người nam nữ chủ động và tự do, và với một ân sủng có ảnh hưởng sâu sắc. Chủ nghĩa thực tế tâm linh của nó đến từ tinh thần con người sống trong thế giới và trong thân xác, và từ tính khách quan của tạo dựng và ân sủng thiêng liêng. Sáng tạo là sự tốt lành và xã hội kêu gọi đổi mới; khổ hạnh và sự tách biệt không tồn tại cho chính chúng nhưng cho đời sống của ân sủng được tháp nhập. Một số chủ đề từ thần học của Tin Mừng theo Thánh Gioan như thờ phượng trong thần khí và trong sự thật và đời sống của con cái Thiên Chúa có ảnh hưởng sâu sắc. Đây cũng có thể được gọi là linh đạo giáo hội vì nó nhấn mạnh con người như sinh vật xã hội và vì nó mô tả một địa vị xã hội mới tuôn chảy từ người lãnh đạo của ân sủng, Đức Kitô phục sinh. "Nếu những yếu đuối thể xác của Đức Kitô che giấu thiên tính của Người, chúng vẫn mặc khải nhân tính của Người, và chính nhân tính này là con đường để chúng ta đạt tới thiên tính, như thư Rôma nói, 'Chúng ta được tiếp cận với Thiên Chúa qua Đức Giêsu Kitô' (5:1)" (III, 14, 1, 4).
Một người làm cho thần học của họ cụ thể trong chính cuộc sống của chính họ. Người viết tiểu sử của Thánh Tôma ghi nhận rằng ngài không chỉ khiêm tốn về những thành tựu của mình mà còn luôn "nhã nhặn và lịch thiệp."[23] Dù ở trong thư viện tu viện Đa Minh hay tranh luận trong một cuộc tranh biện công khai ở Paris, Thánh Tôma không bao giờ đánh mất sự thân thiện của người chiêm niệm hay tình yêu đối với sự tìm hiểu. Thần học của ngài hướng ra xa khỏi một tôn giáo của sợ hãi, rối loạn tâm thần, và chủ nghĩa luật lệ nghi thức. Giống như cuộc đời của chính ngài, chiêm niệm là một hành trình, và nghiên cứu là một tìm kiếm chân lý. Những ý tưởng trong các cuốn sách mới được khám phá qua một hành trình được thúc đẩy bởi hy vọng về đức hạnh của con người và bởi tình yêu đối với Thiên Chúa tự tỏ bày.
[Các đoạn văn về cầu nguyện lập lại những ý tưởng đã được trình bày trong Thường huấn số 2]
D. CHÍNH TRỊ
Trong vòng một trăm năm qua, các nguyên tắc của Thánh Tôma đã ảnh hưởng đến lý thuyết chính trị và các phong trào xã hội. Chúng đã đi vào cấu trúc của các dòng tu và các đảng phái chính trị. Tính phổ quát của đời sống xã hội được chia sẻ và phẩm giá con người xuất hiện trong tác phẩm của các nhà tư tưởng như Jacques Maritain và John Courtney Murray, trong lý thuyết gia về phát triển xã hội Louis Joseph Lebret, trong các cuộc thảo luận của các hội đồng giám mục và trong các tác giả của các văn kiện giáo hoàng từ Leo XIII đến Gioan Phaolô II. Các nhà thần học giải phóng Mỹ Latinh và các nhà thần học luân lý Bắc Mỹ đương đại công nhận món nợ đối với Thánh Tôma. Điều này có phần đáng ngạc nhiên, vì xã hội mà Thánh Tôma biết đến phần lớn là phong kiến trong trật tự chính trị và thiêng liêng trong các hệ thống thứ bậc tân-Platon. Tuy nhiên, thế kỷ XIII cũng đã có những đổi mới xã hội: đó là thời kỳ của những nhóm xã hội mới và những kiểu tổ chức mới. Thời đại đó chứng kiến sự trỗi dậy của các tổ chức như các trường đại học, của các cấu trúc ít hình thức hơn trong kinh doanh và thương mại, và của các cộng đồng Kitô giáo độc đáo như các tu sĩ dòng. Thánh Tôma sống trong thời kỳ khi sự chú ý đến luật La Mã tăng lên, thay thế các tục lệ địa phương và các hệ thống pháp lý vụng về trong khu vực, và khi việc trình bày và áp dụng luật giáo hội mở rộng.[24]
Theo quan điểm của Thánh Tôma, xã hội là một tập hợp của con người, một tập hợp có đời sống và mục tiêu riêng của nó mà không thành viên nào bị loại trừ. Các hình thức chính quyền tồn tại vì một mục đích: giúp con người đạt được định mệnh của họ.[25] Công ích chứ không chỉ tự do lựa chọn là tiêu chuẩn cho đời sống công dân. Hơn nữa, định mệnh con người vừa tự nhiên vừa siêu nhiên. Do đó, chính quyền nên thúc đẩy sự liên kết của con người vì sự sống, sinh sản và bảo tồn, nhưng họ cũng nên hỗ trợ đời sống tinh thần trong khoa học và nghệ thuật, trong đức tin và thờ phượng. Nhà nước lớn hơn các cá nhân và cộng đồng trong nó, nhưng sự vĩ đại của nó là phục vụ, phục vụ tự do, sự sống, hợp tác và nhân đức. Giống như trong vũ trụ, điều tốt lành của toàn bộ thụ tạo xuất phát từ một sự tương tác nhất định và lợi ích chung này làm phong phú các cá nhân. (I, 103, 2).
Nhà thần học Đa Minh khám phá các hình thức đời sống xã hội không chủ yếu từ quan điểm của các đoạn văn trong Kinh thánh mà từ các nguyên tắc dựa trên lý trí và kinh nghiệm, cùng với các văn bản của các nhà lý luận về luật pháp và quy trình chính trị.[26] Kinh Thánh Do Thái cung cấp một số cái nhìn thực tế về chính trị nhưng không có chương trình cụ thể. Luật Tin Mừng của Thần Khí mang đến cho người ta thêm sự hỗ trợ cho luật tự nhiên và công lý nhưng Tân Ước không phác thảo một hình thức chính quyền nào. Thánh Tôma không vạch ra mối liên kết từ Kinh Thánh đến bất kỳ loại quyền lực nào, dù là vua chúa hay giáo hoàng; lĩnh vực chính trị thuộc về lý trí xã hội của con người.[27] Tuy nhiên, không làm sụp đổ tự nhiên và ân sủng, Thiên Chúa có thể hoạt động không chỉ trong sách vở và nghi thức của giáo hội mà trong đời sống đạo đức của con người và trong các thể chế công bằng của nhân loại. Vai trò của Thần Khí là giúp tất cả trong xã hội theo đuổi nhân đức và nhận ra công lý và bất công ở đâu (I-II, 108, 1, 2).[28] Nhân loại và thế giới vốn tốt đẹp bất chấp những vết thương độc hại được thúc đẩy bởi thân phận con người, trong khi ân sủng luôn mở ra tiềm năng cho sự chữa lành và khai sáng. Chenu nhận xét: "Khi tôi học thần học, tôi được dạy rằng con người chỉ tồn tại tạm thời trên trái đất và thế giới chỉ là thực tại tạm bợ, bị định đoạt sẽ bị phá hủy khi con người bước sang thế giới khác... Nhưng tôi, một môn đệ của Thánh Tôma, đã phản ứng lại điều đó và tin rằng Nước Thiên Chúa đã hiện diện trong thế giới... 'Phát triển' đặt tên cho ảnh hưởng tiến bộ của con người trên vạn vật, nhưng ngày nay chúng ta gặp từ ‘giải phóng,’ mang ý nghĩa chính trị... Đối với Kitô hữu, luôn tồn tại biện chứng giữa tạo dựng và nhập thể."[29] Sự khẳng định về tạo dựng như môi trường của ân sủng khuyến khích nghiên cứu và sáng tạo ngay cả khi nó bảo vệ người nghèo, người lao động, thai nhi, người tâm thần tàn tật.[30]
Đóng góp của Thánh Tôma cho lý thuyết chính trị bắt nguồn từ các chủ đề lớn của Phần Thứ Hai trong ST; ở đó các hoạt động của hình ảnh con người của Thiên Chúa hỗ trợ lý trí chính trị thông qua sự thận trọng siêu nhiên. Xã hội giống như một nhân cách tập thể của con người. Thần học của Thánh Tôma thúc đẩy một nền chính trị của lạc quan và nỗ lực, bảo vệ chủ nghĩa đa nguyên của các nhóm làm việc vì công ích. Như Torrell nhận xét, "Sự phát triển của một thần học với viễn cảnh hướng tới thành đô tương lai của Thiên Chúa trao cho các hoạt động đa dạng này một phẩm chất đặc biệt, đó là việc bắt chước lòng quảng đại của Thiên Chúa."[31] Đời sống chính trị và luật pháp của con người nên phản ánh tính nhân vị và sáng tạo; ở đó ân sủng cũng có thể chữa lành các hệ quả của tội lỗi (như ích kỷ, bạo lực, thiếu khoan dung) và có thể mời gọi tất cả mọi người làm việc vì cộng đồng và công lý. Mặt khác, nhân học được ân sủng hóa của Thánh Tôma ngăn ngừa chủ nghĩa bè phái. Kitô giáo không chỉ là tiếng nói ngôn sứ cô đơn trong một thế giới xấu xa, cũng không phải là một giáo hội nhỏ bé với những ý tưởng cấp tiến về xã hội. Chính trị không phải là việc làm bẩn thỉu cũng không phải là một sự sắp xếp siêu hình của các luật lệ khiến dân chúng ngay lập tức trở nên hoàn toàn đạo hạnh. Đóng góp của tôn giáo cho chính trị bắt đầu với việc quan sát cách Thiên Chúa đã sắp xếp vũ trụ tốt đẹp nơi quyền năng sáng tạo được kết hợp với sự độc lập và tương tác của các thụ tạo và mở rộng đến các tiêu chuẩn công lý và tình yêu trong Kinh thánh. Khi rút ra những hướng dẫn cho đời sống đức hạnh của cá nhân từ cả tự nhiên và mặc khải, Thánh Tôma giả định sự ổn định của các thể chế được ban tặng bởi bản tính con người. Ngài không nghĩ rằng quyền bính chính trị và quyền cai trị được ban cho con người bởi tôn giáo, tức là, bởi đức tin, phép rửa, hay tư cách thành viên của giáo hội. Những quyền này đi kèm với bản tính con người. Giáo hội không thể loại bỏ hay thay thế quyền của cha mẹ hay các nhà lãnh đạo xã hội. Các xã hội và người cai trị tự nhiên không xuất phát từ phép rửa hay đức tin mà từ sự liên kết tự nhiên giữa nam và nữ để sống tốt đẹp. Nếu Thánh Tôma đôi lần nói về việc các vua phải phục tùng các linh mục, các nguyên tắc của ngài giải thích tiên đề đó như thần học theo nghĩa tổng quát. Trong thế giới chính trị, mạc khải và ân sủng nên làm nền tảng cho một lĩnh vực cao hơn của đời sống đức hạnh, nhưng không chi phối khía cạnh xã hội của tinh thần con người. Các nhà chính trị thế tục có quyền tự chủ thích hợp của họ. Pesch ghi nhận: "Thánh Tôma... không thể tưởng tượng một nhà nước không có nền tảng đức tin, nhưng điều quan trọng là trong lòng xã hội Kitô giáo của Châu Âu thời Trung Cổ, một động lực Kitô giáo đích thực lại mang đến sự phân biệt cơ bản giữa đức tin và chính trị, luật pháp và đạo đức."[32]
Nhiều hình thức chính trị đã đóng góp cho xã hội loài người. Về mặt trừu tượng, hình thức chính quyền tốt nhất là hình thức mà tất cả tham gia vào việc chọn lựa những người cai trị (I-II, 105, 1). Việc cai trị của một nhóm hay số đông có tiền lệ, nhưng theo suy nghĩ có trật tự của Thánh Tôma, sự cai trị của một người, khi người đó có sự sáng suốt và đức hạnh, thì vẫn ưu việt hơn cai trị của một nhóm. Quan điểm đó được hỗ trợ bởi kinh nghiệm của ngài về các thành phố và tỉnh bị nhóm cai trị nhưng liên tục bị xé nát bởi các cuộc chia rẽ. "Rõ ràng là sự thống nhất được thực hiện hiệu quả hơn bởi cái tự nó là một hơn là bởi nhiều" (I-II, 105, 1). Nếu định nghĩa chính trị tốt là hướng xã hội tới một cuộc sống tốt đẹp, thì chuyên chế bắt đầu khi người cai trị chỉ tìm kiếm lợi ích cho riêng mình, một quyền lực đơn độc vì một mục đích đơn độc. Công dân làm gì khi người cai trị trở nên bất công? Điều này có thể đạt đến một mức độ không thể chịu đựng nổi. Khi đó, xã hội có quyền yêu cầu chấm dứt những gì là phá hoại mang tính bản chất và kiên quyết đến lợi ích chung, vì cuối cùng, mục đích của những người cai trị và lập pháp là lợi ích chung trước hết, và sau đó là một trật tự công lý và đức hạnh cho phép tồn tại và đạt được lợi ích chung (I-II, 100, 8).
Công lý là phương tiện qua đó xã hội theo đuổi mục tiêu của mình. Công lý không có nghĩa là duy trì bất kỳ trật tự dân sự nào mà là mối quan hệ giữa người với người trong đó mỗi người đều nhận được điều mà họ xứng đáng (III, 61, 4 & 5). Trong các loại công lý khác nhau, công lý chung phục vụ công ích của toàn thể cộng đồng, công lý riêng bảo vệ quyền của cá nhân hay hiệp hội, và công lý pháp lý là biểu đạt (nhưng không phải thực hiện đầy đủ) của quyền trong luật pháp. Mục đích của luật là phục vụ trật tự của cộng đồng, thúc đẩy đức hạnh và hòa bình (I-II, 95, 1). Luật được tạo ra "bởi toàn thể cộng đồng hoặc bởi người đại diện cho nó" (I-II, 90, 3).
Các luật tốt về con người là những khía cạnh của "luật" mà nó là sự khôn ngoan thần linh.[33] Luật dân sự không tuyệt đối và bất biến, chúng cũng không phải lúc nào cũng đạo đức và đức hạnh. Luật xấu thực sự không phải là luật vì chúng lật đổ trật tự và sự tốt lành. Trong một quan điểm khá cấp tiến, anh em Đa Minh thời trung cổ cho rằng một luật bất công, một luật bạo lực với thụ tạo và áp bức con người, không nên được tuân thủ (I-II, 95, 2). Suy tư của con người về bản chất vốn có của nhân loại là một dạng luật của sự sáng tạo, nhưng luật tự nhiên này không phải là một tập hợp các quy tắc dễ dàng suy diễn và không có ngoại lệ. Lịch sử và văn hóa đã rút ra từ những suy tư của nhân loại các mức độ trưởng thành đạo đức khác nhau. Luật tự nhiên có các mức độ khả tri, chắc chắn và phổ quát khác nhau. Người ta nhận ra sự khác biệt trong cách tiếp nhận luân lý của con người, như lịch sử đã chứng kiến cả mức độ đức tin, mặc khải và ân sủng. Bản chất, luật pháp, nguyên tắc, xã hội - những điều này tồn tại trong một thần học mục đích luận vì một mục tiêu. Đối với Thanhs Tôma, mục tiêu của chúng là nâng cao gia đình nhân loại và phục vụ con người được ân sủng, những hoạt động hướng tới sự miên mãn cánh chung của cá nhân và công jddoongf trong những lĩnh vực sống vượt qua cái chết. Trong thần học hòa hợp này, luật pháp thường không đối lập với Tin Mừng. Tóm lại, điều quan trọng cần lưu ý là cả thực tại của các cộng đồng và xã hội lẫn các hình thức chính quyền không được ban cho bởi mặc khải thiên liêng đặc biệt mà đến từ bản tính con người với sự đa dạng văn hóa và tiềm năng chính trị của nó. Là Đấng Tạo Hóa của các hữu thể và bản tính, Thiên Chúa là gubernator mundi, "người điều khiển vũ trụ," nhưng không phải là vị vua chỉ định các vị vua trần gian. Trong phân tích cuối cùng, Cuối cùng, một thần học về sự sáng tạo và về cá nhân được tiếp sức bởi ân sủng là nguồn gốc của cái nhìn Kitô giáo về xã hội.
Tư tưởng xã hội của Thánh Tôma từ chối chủ nghĩa cá nhân hay chủ nghĩa pháp lý bằng cách nhấn mạnh thực tại và ưu tiên của công lý cộng đồng. Vì những ân huệ và đòi hỏi của xã hội có nền tảng trong bản tính con người và sự sáng tạo (I, 96, 4), luật dân sự hay sự kiểm soát của Giáo hội sẽ không bỏ qua con người để tạo ra một xã hội không tưởng phi thực tế. Điều quan trọng đối với cá nhân là tìm kiếm công lý không chỉ trong các sách luật hay lý thuyết mà còn trong chính đời sống. Lãnh đạo chính trị không chỉ là áp dụng luật pháp. Chính trị là nghệ thuật hơn là khoa học, "một loại nghệ thuật để đưa ra trật tự và thể chế cho đời sống con người" (I-II, 104, 4). Lãnh đạo chính trị là việc sử dụng các nguyên tắc vì lợi ích của một tập thể do đó, thực thi chính trị xuất phát từ lý trí thực tiễn và sự cẩn trọng tìm ra các chính sách cụ thể thúc đẩy cộng đồng con người. Trong khi mục tiêu của xã hội là đời sống tốt đẹp và đức hạnh, đôi khi điều này chỉ có thể đạt được từng bước một. Nhà lãnh đạo của cộng đồng không bắt buộc phải xóa bỏ mọi sự vô đạo đức ngay lập tức hay áp đặt bằng luật pháp mọi khía cạnh đức hạnh của đời sống con người (I-II, 96, 2 & 3; II-II, 10, 11). Người ta không thể bị ép buộc trở thành công dân đức hạnh hay thánh nhân. Thomas Gilby kết luận: "Thánh Tôma là nhà văn Tây phương đầu tiên chỉ ra sự khác biệt của chính trị với các khoa học khác và phân biệt hoạt động của luật dân sự với luật luân lý."[34]
Thánh Tôma là một người theo chủ nghĩa hiện thực xã hội. Ngài không nghĩ con người là thiên thần. Ngài nhận ra ảnh hưởng của các yếu tố tâm lý, xã hội, tôn giáo và giáo dục trên con người. Ngài không ảo tưởng về những khó khăn của đời sống chính trị: cả quân chủ lẫn hội đồng cộng hòa đều không bảo đảm chính quyền có trách nhiệm. Luật có thể được đánh giá và thay đổi; chiến tranh được chấp nhận phải đáp ứng một số điều kiện; việc giết vua và cách mạng được cho phép như phương sách cuối cùng thực hiện chống lại cái ác lan rộng. Tình trạng của thành phố và nhà nước nơi người ta sống ảnh hưởng đến đời sống con người. Tóm lại, nhà thần học làm nổi bật một công lý trong xã hội không chỉ nhìn vào các vấn đề riêng tư hay pháp lý mà vào sức mạnh hay sự bất hòa của nhà nước như một tổng thể.
Thánh Tôma đối lập với bất kỳ chủ nghĩa hư vô hay vô chính phủ nào tuyệt vọng về việc con người có khả năng đạt được bất cứ điều gì. Ngài phản đối việc lạm dụng sự sáng tạo vì ngài quý trọng cao độ món quà thiêng liêng của trật tự tạo dựng, và ngài lên án chủ nghĩa duy vật nông cạn, vô nhân đạo của nhục dục và tham lam. Đối lập với chủ nghĩa thực chứng bằng chủ nghĩa hiện thực, ngài không đồng ý với quan niệm hiện đại của nhà nước hay tập đoàn về tự do tuyệt đối, hoặc với việc hợp pháp hóa luân lý chỉ bằng luật dân sự. Cuộc đối thoại giữa tâm lý học con người và ân sủng thiêng liêng (và các cộng đồng và xã hội là những ngôi vị với bản chất và hình thức riêng của chúng) thách thức, một mặt, sự phủ nhận ân sủng và tương lai được ân sủng của chủ nghĩa thế tục, và mặt khác, sự sùng đạo cực đoan từ chối gia đình nhân loại hoặc quyền của người khác.
Trong hơn một trăm năm, các giáo hoàng đã dựa vào các nguyên tắc của Thánh Tôma để giải quyết các vấn đề xã hội, từ công đoàn lao động đến di truyền học: không phải ngẫu nhiên mà Giáo hoàng Leo XIII đã khởi xướng cả phong trào canh tân Tôma (Aeterni Patris, 1879) và dòng các thông điệp xã hội quan trọng hiện đại (Rerum Novarum, 1891). Về các vấn đề xã hội, cả Rerum Novarum ban đầu và Centessimus Annus sau này, kỷ niệm một trăm năm của thông điệp xã hội đầu tiên, đều xây dựng dựa trên cách tiếp cận của Thánh Tôma về giá trị nội tại của tạo dựng và con người. Tư hữu là tự nhiên và có lợi; tuy nhiên, công lý cũng cần được nâng cao bằng lòng bác ái. Các mức độ công lý cá nhân và xã hội, phê phán chủ nghĩa tư bản (quyền sở hữu và của cải không phải là tuyệt đối mà còn phải phục vụ lợi ích của toàn xã hội) cùng với việc bảo vệ quyền cá nhân, ủng hộ lợi ích chung và tôn trọng tư hữu được phát triển thành các nguyên tắc để hạn chế lòng tham vật chất và sử dụng tài nguyên cho người nghèo. Tư hữu là tự nhiên và có lợi nhưng công lý cũng cần được nâng cao bằng lòng bác ái. Giáo hoàng Phaolô VI, trong thông điệp về Thánh Tôma, đã đề cập rằng tư tưởng của ngài hỗ trợ các cơ cấu và yêu cầu chính đáng của xã hội chính trị. Tôn giáo không nên cản trở hoặc phủ nhận trật tự tự nhiên dưới danh nghĩa của chủ nghĩa tín lý mù quáng; Học thuyết Tôma bác bỏ một hệ thống chính trị dựa trên một hành động đức tin cá nhân mù quáng mà thực chất là một ý thức hệ thần học.[35]
Các giám mục tại Công đồng Vatican II đã viết rằng sự mong đợi về cánh chung, về một "đất mới" trong tương lai, không nên làm suy yếu mà phải kích thích mối quan tâm toàn cầu đối với sự sống trên hành tinh mà chúng ta đang sống. "Vì ở đây phát triển thân thể của một gia đình nhân loại mới, một thân thể mà ngay từ bây giờ đã có thể mang lại một số dấu hiệu báo trước của thời đại mới."
Cả Tin mừng lẫn học thuyết Tôma đều không phải là hướng dẫn cho sự thụ động, hay cho một niềm hy vọng phi chính trị về thiên đàng sắp đến. Thánh Tôma sẽ hoan nghênh các lập trường xã hội của Giáo hội kể từ Công đồng Vatican II: "Công đồng mang đến cho nhân loại ánh sáng được thắp lên từ Tin mừng và đặt vào tay họ những nguồn lực cứu độ mà chính Giáo hội, dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, nhận được từ Đấng sáng lập của mình. Vì con người xứng đáng được bảo vệ; xã hội loài người xứng đáng được đổi mới." Kể từ Công đồng đại kết của những năm 1960, lãnh đạo Công giáo đã từ bỏ việc coi sự phát triển của thế giới là xấu xa, và Giáo hội đã rời khỏi phòng thánh để tham gia vào đời sống công cộng. Bản chất nhập thể của thần học trong Summa Theologiae mong đợi các hình thức nhân đạo và cải cách xã hội.
[1] Đây là một chương từ cuốn sách Thomas Aquinas: Theologian của Thomas Franklin O'Meara, O.P., xuất bản năm 1997.
[2] Fritz Kern được trích dẫn trong Martin Grabmann, Die Kulturphilosophie des hl. Thomas von Aquin (Augsburg, 1925), p.15f.; về sự ngưỡng mộ của Dante đối với Thánh Tôma kết hợp với việc theo học thần học khá hạn chế, xem Kenelm Foster, "St. Thomas and Dante," The Two Dantes and Other Studies (London, 1977), p. 56f. Để khảo sát về chân dung Thánh Tôma trong hội họa và thi ca, hãy tham khảo các tác phẩm được trích dẫn trong chương bốn, chú thích 1. Một tiểu luận sâu sắc về Thánh Tôma và nghệ thuật là của Thomas Gilby, Poetic Experience: An Introduction to Thomist Aesthetics (New York, 1934); cũng xem các tác phẩm trong lĩnh vực này của Etienne Gilson, Jacques Maritain, và Umberto Eco. Để bắt đầu trình bày về biện chứng giữa tự nhiên và ân sủng trong xã hội và chính trị, Giáo hoàng Gioan Phaolô II trích dẫn Thánh Tôma: Genus humanum arte et ratione vivit ("Nhân loại sống bằng sáng tạo và trí tuệ"). Những lời này vượt qua ý nghĩa đương đại của văn hóa phương Tây, dù là Địa Trung Hải hay Đại Tây Dương. Chúng có một ý nghĩa áp dụng cho toàn thể nhân loại, nơi mà các truyền thống khác nhau cấu thành di sản tinh thần của nó và các giai đoạn khác nhau của nền văn hóa của nó gặp nhau... Văn hóa là một cách cụ thể của sự 'hiện hữu' và 'trở thành' của con người" (Man's Entire Humanity Is Expressed in Culture," in The Church and Culture since Vatican II. The Experience of North and Latin America, ed. J. Gremillion [Notre Dame, Ind., 1985], p. 189).
[3] Albert the Great, Super Dionysii Mysticam Theologiam et Epistolas,
Epistola 9 (Cologne, 1978), p. 533.
[4] SCG 2, 81.
[5] Thomas Merton, Conjecturesofa Guilty Bystander (New York, 1966), p. 187.
[6] Những phần trong [ ] là của dịch giả.
[7] Thomas Merton, Seeds of Contemplation (New York, 1949), p. 25f.
[8] "Mọi sự đều được cho là do vẻ đẹp thiêng liêng gây ra bởi vì chúng mang khía cạnh hài hòa thực sự, vốn là một phần của vẻ đẹp." (Thomas Aquinas, In Librum De Divinis Nominibus Expositio, c. 4, lect. 6 [Turin, 1950], p. 119)
[9] In Psalmos 44, 2, Opera Omnia (Rome, 1992), 6, p. 115.
[10] SCG 2, 24.
[11] In 3 Sent., d. 9, q. 1, a. 2, ad 3.
[12] Thánh nhân là một nhân cách đáp lại những món quà bản năng của Thần Khí (I-II, 68); các mối quan hệ gia đình được xây dựng trên một "sự kết hợp có nguồn gốc tự nhiên" (II-II, 26, 8); một trò chơi giống như sự chiêm niệm vì nó mang lại niềm vui trong chính hoạt động của nó (Zn I Sent. d. 2, q. 1, a. 5; see II—II, 168, 4).
[13] Xem J. Tonneau, "Appendice I," La Loi Nouvelle (Somme thdologique) (Paris, 1981), p. 98f.
[14] De Spe, q. 4, a. 4, ad 14, Opera Omnia, 3, p. 433.
[15] Andreas Speer, "Thomas von Aquin und die Kunst," Archiv für Kulturgeschichte 72 (1990): 343f. Giống như một số người cùng thời, thường là các nhà cầm quyền tôn giáo, Thánh Tôma phê phán việc hát đa âm và việc đưa lối hát "mang tính sân khấu" vào nhà thờ (II-II, 91, 2, 3 & 4). Ở nơi khác, ngài viết rằng để bù đắp cho những gì còn thiếu trong việc hát các thánh vịnh trong giờ kinh thần vụ, so với những nghi lễ ca ngợi thiên thần đầy vẻ đẹp, có thể bổ sung bằng việc viết về sự cao quý của các thiên thần [De Substantiis Separatis seu de Angelorum Natura, "Proemium, Opuscule philosophica [Turin, 1954], p. 21). Xem C. Pera, "Le Testimonianze della liturgia cattolica," Le Fonti del pensiero di S. Tommaso d’Aquino nella Somma teologica (Turin, 1979), p. 62f. Trong câu hỏi mở đầu về Kitô học, khi hỏi tại sao Lời lại trở thành xác phàm, ngài đề cập đến sự sa ngã của con người và sự cứu chuộc khỏi tội lỗi, và thêm rằng "lời chúc phúc của cây nến Phục Sinh (“Exultet”)" nhắc đến “tội hồng phúc,” sự sa ngã của Adam và Eve, đã xứng đáng nhận được một Đấng Cứu Thế như vậy (III, 1, 3).
[16] J.-P. Torrell, "'Spiritualitas' chez S. Thomas d'Aquin," Revue des sciences philosophiques et théologiques 73 (1989): 575f. Từ "linh đạo" thường được áp dụng cho hành động nhận thức trí tuệ; ít phổ biến hơn là những cụm từ như "sự gia nhập linh thiêng vào Chúa Kitô" (ám chỉ đến Bí tích Thánh Thể) [In 4 Sent., d. 9, q. 1, a. 1].
[17] Ulrich Horst, Evangelische Armut und Kirche (Berlin, 1992), p. 29.
[18] Ibid., 224.
[19] M.-D. Chenu, St Thomas d'Aquin et la théologie (Paris, 1955), 113. L. Hödl nhận xét: “Bạn sẽ tìm thấy linh đạo của Thánh Tôma trong 'Phần Hai' của Summa Theologiae: đó là một thần học ân sủng phức tạp và áp dụng” ["Lumen Gratiae," in Mysterium der Gnade (Regensburg, 1975), tr. 239]. Để có cái nhìn tổng quan về linh đạo của Thánh Tôma theo nghĩa hiện đại, tham khảo Matin Grabmann, The Interior Life of St. Thomas Aquinas (Milwaukee, 1951); Dominican Spirituality, ed. A. Townsend (Milwaukee, 1934); W. Principe, Thomas Aquinas' Spirituality (Toronto, 1984); “Affectivity and the Heart in the Theological Spirituality of Thomas Aquinas,” Spiritualities of the Heart (New York, 1990); S. Tugwell, Albert and Thomas. Selected Writings (New York, 1988); J.-P. Torrell, "Thomas d'Aquin," Dictionnaire de Spiritualité 15 (1990), 718f.; Mary Ann Fatula, "Contemplate Aliis Tradere: Spirituality and Thomas Aquinas, The Preacher," Spirituality Today 43 (1991): 19f.; B. M. Ashley, Thomas Aquinas. The Gifts of the Spirit: Selected Writings (Hyde Park, 1995).
[20] W. Principe, "Aquinas' Spirituality for Christ's Faithful Living in the World," Spirituality Today 44 (1992): 118f. Ông bổ sung thêm một góc nhìn sinh thái. "Thánh Tôma không phải là một người theo thuyết nhất nguyên; ngài vui mừng trước sự đa dạng của các loài thọ tạo (cũng như của các cá nhân) vì sự đa dạng này mang lại nhiều vinh quang hơn cho Thiên Chúa... Bảo tồn từng loài riêng lẻ đối với Thánh Tôma là một cách phục vụ cho vinh quang của Thiên Chúa" (122).
[21] Ibid., 129f.
[22] Torrell, "Thomas d'Aquin," tr. 772; Torrell nhìn thấy năm giai đoạn trong quan điểm của Thánh Tôma về hành trình thiêng liêng (ibid., 763f.).
[23] Bartholomew of Capua quoted in J. A. Weisheipl, Friar Thomas d'Aquino (New York, 1974), p. 255.
[24] Hai bộ Summa vĩ đại của Thánh Tôma chứa 193 tham chiếu đến tuyển tập luật giáo hội của Gratian và chín mươi mốt tham chiếu đến các tuyển tập về luật La Mã; xem Thomas Gilby, The Political Thought of Thomas Aquinas (Chicago, 1958),161; J. M. Aubert, Le Droit romain dans l'oeuvre de saint Thomas (Paris, 1955). Gilby đã thảo luận khá chi tiết về tư tưởng của Thánh Tôma (và của dòng Đa Minh nói chung) là độc lập và thực tiễn; phản ánh tầng lớp trung lưu đô thị và doanh nghiệp (p. 213, 312f.).
[25] Những điều sau đây được rút ra từ De Regimine Principum, cc. 1-5; xem Louis Lachance, L'Humanisme politique de Saint Thomas d’Aquin. Individu et État (Montreal, 1965).
[26] Ở nơi Aristotle sử dụng từ "chính trị" (political), Aquinas lại ưu tiên dùng từ "xã hội" (social). Xem E. Scully, “The Place of the State in Society according to Thomas Aquinas,” The Thomist 45 (1981): 407f.
[27] Otto H. Pesch, "Theologie und Politik," in Summa theologica, Die deutsche Thomas-Ausgabe 13 (Heidelberg, 1977), p. 7391.
[28] Thảo luận về Aristotle, Thánh Tôma nhận xét rằng một tình yêu tồn tại bên ngoài trật tự xã hội sẽ thuộc về hoặc quái vật hoặc thiên thần; xem Jacques Duquesne interroge le Père Chenu (Paris, 1975), 110.
[29] Ibid., 74.
[30] Clodovis Boff, "Saint Thomas Aquinas and the Theology of Liberation," Dominican Ashram 5 (1986): 128f.
[31] Torrell, "Thomas d'Aquin," 768.
[32] Pesch, "Theologie und Politik," p. 741.
[33] J. Collins, "God's Eternal Law," The Thomist 23 (1960): 497f.
[34] Gilby, The Political Thought, p. 315.
[35] Lumen Ecclesiae (Naples, 1975), #8; xem Pius XI, Studiorum Ducem [thông điệp về Aquinas từ năm 1923], AAS 15 (1923): 309f.; Y. Calvez và J. Perrin, The Church and Social Justice: The Social Teaching of the Popes from Leo XIII to Pius XII (1878-1958) (Chicago, 1961); M. Schuck, That They Be One: The Social Teaching of the Papal Encyclicals 1740-1989 (Washington, 1991). Để tham khảo một tập hợp các văn bản và trích đoạn từ các tác phẩm liên quan đến Thánh Tôma, xem Paul E. Sigmund, St. Thomas Aquinas on Politics and Ethics (New York, 1988); về các chủ đề chính và cách sử dụng của các giáo hoàng, xem Robert Barry, “Aquinas' Social Thought and Catholic Social Teachings: An Historical Perspective,” Providence 1 (1992): 131f.; J. Hennesey, “Leo XIII's Thomistic Revival: A Political and Philosophical Event,” Journal of Religion [Supplement] (1978): 185f.; các bài tiểu luận trong Oliver F. Williams và John W. Houck, Catholic Social Thought and the New World Order: Building on One Hundred Years (Notre Dame, Ind., 1993).
[Trích trong Tỉnh dòng Đa Minh Việt Nam, Thường huấn số 4/2024, tr. 52-87]