10/06/2019 -

Chứng từ

2778


Người Lữ Khách Kinh Mân Côi

Thánh Josemaria Escriva sinh tại Barbastro, Tây Ban Nha. Ngài lấy được học vị tiến sĩ thần học tại Đại Học Lateranô, Rôma và sống gần như trọn vẹn đời mình trong thế kỉ 20. Cha Escriva có lòng sùng mộ sâu sắc với Bí tích Thánh Thể. Suốt nhiều năm, ngài phục vụ những người nghèo và bệnh tật trong các khu ổ chuột ở Madrid. Năm 1928, ngài thành lập Opus Dei, một tổ chức của giáo dân và linh mục có sứ vụ mời gọi mọi người nên thánh. Hoạt động tông đồ rất có hiệu quả, Opus Dei đã nhận được sự ủng hộ chính thức của phía Giáo Hội vào năm 1950 từ Chân phước Giáo hoàng Piô XII.

Thánh Josemaria Escriva soạn thảo rất nhiều sách, phần lớn trong số đó được chuyển dịch ra nhiều thứ tiếng với triệu ấn bản được phát hành trên toàn thế giới. Viktor Frankl, một nhà tâm lí học, thần kinh học nổi tiếng và là nhân chứng của nạn diệt chủng, từng gặp thánh Escriva. Ông đã bị ấn tượng và thôi thúc đến độ đã mô tả ngài như “quả bom nguyên tử đầy thần khí”.

Lòng Sùng Kính Kinh Mân Côi

Năm hai tuổi, Josemaria mắc phải một chứng bệnh không rõ và được dự báo sẽ qua đời. Người mẹ đạo hạnh đã đem ngài đến đền thờ Đức Maria Torreciudad ở Aragon, Tây Ban Nha và nguyện cầu cho ngài trước bức tượng Nữ Vương các Thiên Thần có từ thế kỉ thứ XI. Thật kì diệu, ngài đã được cứu chữa. Mẹ ngài quả quyết việc chữa lành đó phát xuất từ Đức Maria. Biến cố này đã hình thành nơi ngài lòng sùng kính Đức Maria một cách mãnh liệt và bền bỉ. Khi còn là sinh viên thần học, ngài thường xuyên đi đến thành phố Sarragosa để viếng thăm ngôi thánh đường Đức Mẹ Pilar. Cũng chính tại nơi đây, ngài đã cử hành thánh lễ đầu đời linh mục. Suốt đời, ngài luôn tạ ơn về việc được chữa lành khi còn trẻ, ngài dõi theo tiến trình xây dựng Vương cung thánh đường dâng kính Đức Maria ở Torreciudad. Ngôi thành đường này tiếp tục được điều hành bởi những thành viên của Opus Dei và trở thành điểm hành hương nổi tiếng của toàn Châu Âu.

Thánh Josemaria cũng được biết đến là người có tình yêu đặc biệt với các thánh đường của Đức Maria và những nơi mà Mẹ đã hiện ra. Ngài viếng thăm Fatima không dưới chín lần. Trong vài dịp, cha Escriva viếng thăm trò chuyện với trẻ nhỏ còn lại duy nhất của Fatima là nữ tu Lucia dos Santos. Ngài thích bách bộ trên những con đường ở Rôma để chiêm ngắm và tôn kính Đức Maria qua những bức bích họa về Mẹ. Ngài cũng đã vài lần viếng thăm Lộ Đức. Bên cạnh đó, cha Escriva còn tổ chức một chuyến hành hương đến đền thờ Đức Mẹ Mân Côi ở Pompei. Năm 1951, một năm sau khi Opus Dei được chính thức công nhận, cha tổ chức một chuyến hành hương đến Thánh Điện Loreto, trao phó Opus Dei cho Đức Maria. Một trong những ngôi thánh đường mà cha yêu thích nhất là ngôi thánh đường được dâng hiến cho Đức Maria ở Sonsole, Tây Ban Nha. Trong tiếng Tây Ban Nha, sonsole có nghĩa là “mặt trời của chúng ta”, và có ý chỉ đến đôi mắt tuyệt đẹp của bức tượng Đức Maria ở đây. Ngài thực hiện rất nhiều chuyến hành hương đến những thánh đường ít được biết đến hơn. Tiên cử như vào năm 1970, cha Escriva đến Mexico tổ chức một buổi cầu nguyện đặc biệt tại Vương Cung Thánh Đường Đức Maria Guadalupe. Trong bản di chúc, cha khuyến khích các hội viên hãy thường xuyên tổ chức các chuyến hành hương về bên Mẹ.

Thánh Josemaria không bao giờ đảm nhận bất cứ một trách nhiệm nào nếu điều đó không tỏ lộ cho thấy tình yêu đối với Đức Maria. Ngài biết chắc rằng Đức Giêsu chỉ có thể được nhận biết thực sự khi chúng ta tìm kiếm Đức Maria. Vì ý định của Thiên Chúa là qua Mẹ, chúng ta sẽ được đón nhận và trở về với Chúa Giêsu. Một điều mà ngài luôn lặp đi lặp lại là “tất cả chúng ta cùng với thánh Phêrô đến với Chúa Giêsu qua Đức Maria”. Gần như tất cả các bài giảng của cha Escriva đều được kết thúc bằng việc đề cập đến Đức Maria, cổ võ lòng sùng mộ Áo Đức Bà và chỉ rõ tháng Năm là khoảng thời gian đặc biệt cho lòng sùng kính Mẹ. Mỗi khi về phòng, ngài đều hôn kính bức tượng Đức Maria; bức tượng đó sau này được biết đến với cái tên: “Nữ vương các Nụ Hôn”. Trong một lần, sau khi thánh Josemaria tôn kính bức ảnh của thánh Juan Diego, ngài nói cho những người có mặt ở đó là ngài muốn được chết như thế. Ý Chúa, khi ngài qua đời năm 1975 bên cạnh ngài là bức họa Đức Mẹ Guadalupe được treo ngay trên tường.

Chiến Sĩ Kinh Mân Côi

Song thân của cha Escriva là những Kitô hữu rất đạo đức. Khi còn trẻ, các ngài đã nêu gương cho cha về việc đọc Kinh Mân Côi tại gia. Năm 10 tuổi, Escriva đã mang chuỗi Mân Côi trong cặp xách ở mọi nơi ngài đến. Ngài xem Kinh Mân Côi như vũ khí, vị hướng dẫn ngài trong quyền năng của Chúa Giêsu và Đức Maria. Đó còn là phương thức để bày tỏ với Đức Maria là ngài yêu mến Mẹ. Khi hành hương, thánh Josemaria luôn thực hành Kinh Mân Côi như một phần của chuyến hành hương. Ngài sẽ đọc Kinh Mân Côi từ khi bắt đầu cho đến khi đến ngôi thánh đường cũng như trên chuyến trở về. Thậm chí khi ở đền thờ, ngài còn đi vòng quanh thánh đường đọc Kinh Mân Côi.

Trong đời linh mục, cha Escriva đọc Kinh Mân Côi mỗi ngày và viết một tác phẩm rất hay về Kinh Mân Côi chỉ trong vòng một ngày. Trong cuốn sách này, ngài nhấn mạnh Kinh Mân Côi phải được đọc với một tinh thần hăng say chứ không phải là một cách vội vã và hấp tấp. Ngài còn nhấn mạnh rằng Kinh Mân Côi không chỉ dành cho những bé gái mà còn cho người trưởng thành và bất kì ai không phân biệt già trẻ, lớn bé. Dựa vào lời bảo hộ của Đức Kitô: “Chỉ những ai nên như trẻ nhỏ thì mới được vào nước trời”, ngài đã hướng dẫn mọi người rằng chỉ có Kinh Mân Côi mới có thể giúp chúng ta hóa nên như trẻ thơ và thể hiện tình yêu của chúng ta đối với Đức Trinh Nữ. Cho đến ngày nay, Kinh Mân Côi vẫn còn được cất lên hằng ngày tại ngôi thánh đường mà ngài đã xây dựng để dâng kính Đức Maria ở Torreciudad, Tây Ban Nha. Một phần trong luật sống của các hội viên Opus Dei là ngài mong muốn họ hãy noi theo ngài thực hành Kinh Mân Côi hằng ngày.

Trích từ Donald H. Calloway, MIC,
Champions of the Rosary, Marian Press, 2016

114.864864865135.135135135250