Đinh Minh Tiên
18 Hôm ấy, Đức Giê-su cầu nguyện một mình. Các môn đệ cũng ở đó với Người, và Người hỏi các ông rằng: "Dân chúng nói Thầy là ai?" 19 Các ông thưa: "Họ bảo Thầy là ông Gio-an Tẩy Giả, nhưng có kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, kẻ khác lại cho là một trong các ngôn sứ thời xưa đã sống lại." 20 Người lại hỏi: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai? " Ông Phê-rô thưa: "Thầy là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa." 21 Nhưng Người nghiêm giọng truyền các ông không được nói điều ấy với ai.
Để trở thành môn đệ thực thụ của Đức Kitô, một người phải làm 3 việc: Thứ nhất, người đó phải nhận ra Ngài là ai, địa vị quan trọng của Ngài trong cuộc đời, và những gì Ngài truyền dạy. Thứ hai, người đó phải mong muốn theo Ngài và làm những gì Ngài truyền dạy. Sau cùng, người đó phải thực thi tất cả những điều đó. Đây là một tiến trình khó khăn và không thể thi hành với sức lực con người; nhưng Thiên Chúa không những đã ban đầy đủ ơn thánh qua công nghiệp của Đức Kitô lại còn ban Thần Khí vào tâm hồn con người để giúp con người nhận ra, ao ước, và làm theo sự thật.
Các bài đọc hôm nay giúp chúng ta nhận ra tiến trình nhận ra – ao ước – và thi hành sự thật. Trong bài đọc I, ngôn sứ Zechariah phác họa Kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa cho con người: Ngài sẽ ban Thần Khí của ơn thánh và cầu nguyện xuống trên dòng dõi David và dân cư Jerusalem để giúp họ biết sống đẹp lòng Thiên Chúa và tha thiết cầu nguyện, đồng thời sẽ giúp họ biết nhận ra và than khóc Đấng họ sẽ đâm thâu là Đức Kitô để ăn năn trở lại và nhận được ơn cứu độ. Trong bài đọc II, thánh Phaolô giúp các tín hữu nhận ra: khi họ chịu Phép Rửa là họ đã “mặc lấy” Đức Kitô. Vì thế, họ không được phép kỳ thị chủng tộc hay phân chia giai cấp, vì tất cả đều là những chi thể của một thân thể là Đức Kitô. Trong Phúc Âm, tuy Phêrô nhận ra và tuyên xưng “Thầy là Đức Kitô;” nhưng ông chưa mong muốn một Đấng Thiên Sai chịu đau khổ. Đức Kitô khuyến khích các ông phải can đảm đi theo con đường này mới có thể trở thành môn đệ của Ngài.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Khi chúng ngước nhìn lên Ta mà chúng đã đâm thâu, chúng sẽ khóc than như người ta khóc than đứa con một.
1.1/ Khác biệt về văn bản:
- MT và nhiều bản cổ dịch, “Khi chúng ngước nhìn lên Ta mà chúng đã đâm thâu.” Túc từ “Ta” ở ngôi thứ nhất, ám chỉ Người nói là Đức Chúa. Khi Gioan trích dẫn câu này, thánh sử viết “Chúng sẽ nhìn lên Đấng mà chúng đã đâm thâu” (Jn 19:37). Túc từ “Đấng” ở ngôi thứ ba, người nói không phải là Đức Chúa.
- LXX đọc sai động từ dqr (đâm thâu) thành rqr (chửi rủa). Chữ d và chữ r viết rất giống nhau trong tiếng Do-thái, và dễ bị lẫn lộn với nhau. Vì thế, họ phiên dịch khác hoàn toàn: “Chúng sẽ nhìn lên Ta mà chúng đã chửi rủa.” Mặc dù đọc sai động từ, LXX đọc giống MT ở chỗ “Ta,” ở ngôi thứ nhất.
+ Hadadrimmon có thể là thần bão Hadad hay thần chính thức Rimmon của Damascus (2 Kgs 5:18), mà cái chết của ông được dân chúng than khóc mỗi năm khi thời tiết đổi qua mùa khô.
+ Vị trí của Megiddo nằm trên trục lộ giao thông chính của hai miền Nam Bắc Palestine, nên thường là nơi của những trận chiến lớn tôn giáo hay chính trị trong lịch sử. Vua Josiah là một vị vua tốt lành của Do-thái đã tử trận tại đây và dân chúng than khóc sự ra đi của nhà vua.
1.2/ Ý nghĩa thần học của trình thuật:
(1) Thần khí ơn thánh và cầu nguyện: Khi Thiên Chúa muốn đập tan quân thù để cứu dân chúng, trước tiên Ngài đổ thần khí ơn thánh và cầu nguyện xuống trên họ. Thần khí ơn thánh ám chỉ thái độ biết sống đẹp lòng Thiên Chúa (x/c Gen 6:8, 33:8, 34:11) để nhận được ơn lành. Thần khí cầu nguyện để dân chúng biết nhận ra điều phải và kêu cầu lòng thương xót của Thiên Chúa (2 Sam 12:22; Isa 27:11). Cầu nguyện với Thiên Chúa là điều không thể thiếu trong cuộc sống con người; nhưng để biết cách cầu nguyện, con người cần được Thánh Thần soi sáng và hướng dẫn.
Việc giải thoát hay ban ơn là việc của Thiên Chúa; nhưng con người cần nhận ra sự cần thiết của việc giải thoát hay ban ơn và mong muốn bằng việc kêu xin Ngài ban ơn hay giải thoát. Thiên Chúa gởi Thần Khí xuống trên con người để họ nhận ra sự thật, những gì đáng ước mong, và khơi dậy lòng ăn năn xám hối vì tội lỗi đã lìa xa Thiên Chúa (Eze 36:37). Việc Thiên Chúa hứa sẽ tuôn đổ Thần Khí xuống trên con người đã được loan báo trong (Isa 44:3). Điều này được thực hiện khi Đức Kitô được vinh quang trên Thập Giá (Jn 7:39). Đó là lời hứa ban Thánh Thần và tất cả ơn lành thiêng liêng từ trời gồm chứa trong Đức Kitô.
(2) Trên nhà David và dân cư của Jerusalem: Một cách tổng quát, những nhà lãnh đạo của Thiên Chúa sẽ nhận được Thánh Thần trước như các tông đồ trong ngày Lễ Năm Mươi, sau đó sẽ lan ra cho toàn dân. Một cách đặc thù, “nhà của David” hay “con vua Dadid” ám chỉ Đức Kitô, Thánh Thần Thiên Chúa ngự trên Đức Kitô là đầu của thân thể, và từ Ngài, Thánh Thần lan xuống cho tất cả chi thể. Dân cư ở Jerusalem không phải chỉ những người sống tại Jerusalem; nhưng còn tất cả mọi người thuộc Giáo Hội.
(3) Họ sẽ nhìn lên Ta Đấng họ đã đâm thâu và sẽ than khóc: Tại sao không vui mừng mà phải than khóc? Than khóc vì con người nhận ra Đức Kitô phải chết là tội của con người. Than khóc vì những kẻ đã đóng đinh Đức Kitô nhận ra họ đã đóng đinh Người Con Một của Thiên Chúa. Con người vẫn và sẽ tiếp tục than khóc vì họ không ngừng phạm tội phản bội tình thương của Thiên Chúa. Đức Kitô nói “Phúc cho kẻ than khóc, vì họ sẽ được yêu ủi” là thế. Nếu họ nhìn lên Đức Kitô chịu đóng đinh mà không nhận ra tình thương Thiên Chúa và tội lỗi của họ, làm sao họ có thể được cứu thoát?
Họ sẽ khóc than như người ta khóc than đứa con một. Họ sẽ thương tiếc, như người ta thương tiếc đứa con đầu lòng: Còn nỗi đau đớn nào hơn nỗi đau đớn của cha mẹ mất đứa con một, người con duy nhất họ có. Câu này gợi lại cho chúng ta sự than khóc của người Ai-cập khi các thiên thần tiêu diệt những đứa con đầu lòng của họ. Hay nỗi đau đớn của các bà mẹ mất con khi vua Herode tiêu diệt tất cả các con trẻ tại Bethlehem và các vùng phụ cận từ 3 tuổi trở xuống. Ngôn sứ Zechariah có ý muốn nói con người phải than khóc cho tội mình như thế, vì tội lỗi của họ mà Đức Kitô, Người Con Một của Thiên Chúa, đã phải đóng đinh vào Thập Giá và bị quân lính lấy lưỡi đòng đâm thâu.
2/ Bài đọc II: Nhờ đức tin, tất cả anh em đều là con cái Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô.
2.1/ Tất cả anh em chỉ là một trong Đức Kitô.
(1) Đức Kitô đã kiên kết chúng ta nên một: Thánh Phaolô nói với các tín hữu Galat: “Thật vậy, nhờ đức tin, tất cả anh em đều là con cái Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô. Quả thế, bất cứ ai trong anh em được thanh tẩy để thuộc về Đức Kitô, đều mặc lấy Đức Kitô.” Đức tin vào Đức Kitô đòi hỏi phải có trước khi một người lãnh nhận Phép Rửa. Khi lãnh nhận Phép Rửa, người tín hữu trở thành con cái của Thiên Chúa. Khi thánh Phaolô nói “người tín hữu mặc lấy Đức Kitô” là có ý muốn nói họ trở nên một phần thân thể hay chi thể của Ngài.
(2) Chúng ta không được chia cắt thân thể Chúa: Nếu các tín hữu đã trở nên những chi thể của Đức Kitô, bổn phận của tất cả là xây dựng Nhiệm Thể này sao cho mỗi ngày đạt tới mức thập toàn. Họ không được phép chia cắt thân thể của Ngài bằng việc “phân biệt Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Kitô.”
2.2/ Anh em là những người thừa kế theo lời hứa: “Nếu anh em thuộc về Đức Kitô, thì anh em là dòng dõi ông Abraham, những người thừa kế theo lời hứa.”
Một số người Do-thái cho nếu Dân Ngoại muốn trở thành con cháu Abraham, họ phải chịu cắt bì.” Thánh Phaolô trong Thư hôm nay và Thư Rôma đả phá quan niệm này. Ngài lý luận: Abraham được Thiên Chúa hứa ban cho một dòng dõi là vì đức tin của tổ phụ vào Thiên Chúa, chứ không do bởi việc cắt bì. Cũng vậy, khi một người tin vào Đức Kitô, họ trở thành con Thiên Chúa và thuộc dòng dõi Abraham. Họ được thừa kế những gì Thiên Chúa hứa nhờ lòng tin, nên không cần phải cắt bì.
3/ Phúc Âm: "Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa."
3.1/ Căn tính của Đức Kitô: Sắp đến giờ Đức Kitô phải lên Jerusalem để bắt đầu Cuộc Thương Khó và từ giã các môn đệ, Ngài muốn biết sau một thời gian sống với, mặc khải và giáo dục, các môn đệ đã nhận ra Ngài là ai chưa. Sau khi cầu nguyện, Chúa Giêsu hỏi các môn đệ:
(1) "Dân chúng nói Thầy là ai?" Câu hỏi này chỉ để giúp các môn đệ suy nghĩ trước khi Chúa hỏi các ông câu thứ hai. Các ông thưa: "Họ bảo Thầy là ông Gioan Tẩy Giả, nhưng có kẻ thì bảo là ông Elijah, kẻ khác lại cho là một trong các ngôn sứ thời xưa đã sống lại." Tất cả những danh xưng này không đủ để diễn tả căn tính của Đức Kitô, chúng chỉ nói lên phần nào đặc tính của Chúa Giêsu qua cái nhìn nhân loại: can đảm nói và bênh vực sự thật như Gioan Tẩy Giả, có khả năng làm nhiều phép lạ như ngôn sứ Elijah, hay có những lời dạy dỗ khôn ngoan của một ngôn sứ. Chúa Giêsu hỏi tiếp:
(2) Các con bảo Thầy là ai? Đây là câu hỏi không dễ trả lời vì câu trả lời không những phải nói lên căn tính của Chúa mà còn phải nói lên niềm xác tín của các tông đồ vào Ngài. Phêrô, tuy là một người mau mắn, nhưng nói năng không trôi chảy, đã mạnh dạn tuyên xưng: "Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa." Trong trình thuật của Matthew, Chúa Giêsu nói với Phêrô: "Này anh Simon con ông Jonah, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 16:17a). Điều này cho thấy để biết căn tính của Đức Kitô vượt quá trí khôn con người; để hiểu, họ cần được sự mặc khải của Thiên Chúa qua Thánh Thần của Ngài.
3.2/ Đấng Thiên Sai phải chịu đau khổ: Tuy tuyên xưng đúng căn tính của Đức Kitô, Phêrô vẫn chưa hiểu đúng Kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa; vì khi Chúa Giêsu nói: "Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy." Phêrô đã kéo Chúa ra một nơi và can ngăn Người: "Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!" Nhưng Đức Giêsu quay lại bảo ông Phêrô: "Satan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người" (Mt 16:22-23).
Rồi Đức Giêsu nói với mọi người: "Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. Ai giữ sẽ mất, ai liều sẽ giữ lại được.” Để trở thành môn đệ của Đức Kitô, một người phải bỏ tất cả những ý riêng không hợp với ý của Thiên Chúa và làm theo thánh ý của Ngài. Ngoài ra, người đó còn phải chấp nhận con đường đau khổ, nghĩa là phải bắt chước Đức Kitô vác Thập Giá hằng ngày để mưu cầu ơn cứu độ cho mình và cho tha nhân.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
Chúng ta cần xin Thánh Thần Chúa soi sáng để nhận ra Đức Kitô và những chân lý Ngài truyền dạy. Chúng ta cần xin Thánh Thần Chúa thúc đẩy để mong ước những điều tốt lành từ Thiên Chúa và chê ghét tội lỗi của mình. Sau cùng, chúng ta cần xin Chúa Thánh Thần ban sức mạnh giúp chúng ta đủ sức thi hành điều chúng ta mong muốn.
Jude Siciliano, OP
Học Viện Đa Minh dịch
Kính thưa quý vị,
Đôi khi Đức Giêsu được những thành viên của nhiều nhóm đạo đức gọi là Rabbi. Nhưng Người là một kiểu thầy dạy khác lạ. Trong Tin mừng theo thánh Mátthêu, chúng ta nghe thấy rằng Người giảng dạy không như những những vị khác đã dạy, nhưng “Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư ” (7, 28-29).
Một trong những cách thức các thầy Rabbi dạy là đặt câu hỏi. Những vị thầy giỏi thì đặt những câu hỏi sao cho hướng đến những câu trả lời của người hỏi đặt ra hơn là chỉ cho họ câu trả lời. (Có câu nói đùa rằng: một sinh viên hỏi Rabbi, “Thưa Rabbi, tại sao thầy luôn trả lời bằng một câu hỏi khác?” Vị Rabbi trả lời, “Thế tại sao tôi không nên trả lời bằng một câu hỏi?”)
Nếu Rabbi đưa ra câu trả lời, thì đó là câu trả lời của thầy. Nhưng nếu thầy hỏi câu hỏi đúng, thì ông có thể có một câu trả lời khác và câu trả lời của đồ đệ được ghi nhớ và được tiếp thu. Thêm nữa, nếu Rabbi đưa ra câu trả lời thì vấn đề đã được xác định rồi. Nhưng nếu câu hỏi khác được hỏi thì vấn đề tiếp tục được mở rộng cho việc tìm kiếm và khám phá thêm. Trong bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu hỏi các các môn đệ một câu hỏi quan trọng. Người không đưa ra câu trả lời, nhưng cho họ thời gian và thêm kinh nghiệm để tìm ra câu hỏi của riêng họ.
Khởi đầu Tin mừng của mình, tác giả Luca thuật lại việc cha mẹ Đức Giêsu tìm kiếm Người sau khi họ phát hiện ra Người không cùng đi với họ trong đoàn hành hương từ dịp lễ Vượt qua ở Giêrusalem. Sau ba ngày tìm kiếm, họ thấy đứa con trai 12 tuổi của mình trong đền thờ, “đang ngồi giữa các thầy dạy, nghe và hỏi họ” (2,46).
Khi Đức Giêsu hỏi các môn đệ: “đám đông bảo thầy là ai?” Họ đã ở với Người một thời gian và đã thấy và đã nghe khi Đức Giêsu nói những nhu cầu của dân chúng, dạy đám đông và đối đáp trước những tấn công từ nhóm đạo đức. Những lời đáp đầu tiên của họ với Đức Giêsu được rút ra từ những điều họ đã quan sát và đã nghe người khác nói.
Thế rồi, Đức Giêsu đưa ra câu hỏi, “Còn anh em bảo Thầy là ai?” Câu hỏi của vị Thầy đòi hỏi các môn đệ trở về lòng mình, rút ra từ những kinh nghiệm ở cùng Đức Giêsu và rút ra quyết định của riêng mình. Phêrô đáp thay cho cộng đoàn: “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa”. Câu trả lời của ông không chỉ là một chút thông tin để mang theo trong cả phần đời còn lại. Ông sẽ có Đức Kitô hằng sống với ông và sẽ có thêm cho kinh nghiệm, sự hấp thụ và hành trình. Câu hỏi của Đức Giêsu sẽ luôn gắn chặt trong trí nhớ và ý thức của ông và ông sẽ phải trở lại lòng mình để trả lời nó nhiều lần nữa khi ông biết hơn về “Đấng Kitô của Thiên Chúa”.
Dù cho lời đáp của Phêrô đúng, nhưng ông sẽ phải củng cố nó cách quyết liệt để hợp với những sự kiện bi thảm sẽ nảy sinh khi ông tiếp tục theo Đức Giêsu. Đối với ông và các môn đệ khác “Đấng Kitô của Thiên Chúa” nghĩa là người cai trị đầy quyền lực sẽ lãnh đạo dân Israel và đánh đuổi người Rôma. Nhưng Đức Giêsu phá tan khái niệm đó khi Người khiển trách các môn đệ. Người hướng sự ám chỉ đến chính mình từ “Đấng Kitô của Thiên Chúa” đến “Con Người”.
Sứ điệp trước bài Tin mừng hôm nay thuật lại phép lạ hóa bánh cho 5000 người ăn (9,10-17). Cách trình bày này hẳn sẽ đề nghị các môn đệ rằng Đức Giêsu là Đấng Mêsia hằng được mong đợi, “Đấng Kitô của Thiên Chúa”. Cuối cùng, đây là Đấng Mêsia bắt đầu một thời đại mới. Điều này đủ thực, nhưng Đức Giêsu thêm rằng người ta chỉ vào được thời đại mới này khi họ có tình yêu hy sinh – sự hy hiến này đã được Đức Giêsu thực hiện trên thập giá. “Rồi Đức Giêsu nói với mọi người…” – Đức Giêsu đưa ra một lời mời gọi phổ quát cho bất kỳ ai khao khát chấp nhận nó. Nhưng những ai chấp nhận phải dám từ bỏ tất cả: tham vọng, những cách thức nhận biết tha nhân, những ưu tiên hằng ngày, những thói ích kỷ của họ - cuộc sống của họ chính là thế!
Nghe lời đáp của Phêrô Đức Giêsu hướng sự ám chỉ đến chính mình từ “Đấng Kitô của Thiên Chúa” tới “Con Người”. Trong các Tin mừng, thuật ngữ này ám chỉ đến Đức Giêsu. Đây là một danh hiệu ưa thích dành cho Đức Giêsu trong Tin mừng Luca và mang các tầng ý nghĩa. Trước hết, đơn giản nó có nghĩa là “con người”. Nhưng nó cũng là danh hiệu thiên sai được dùng 70 lần trong Tin mừng nhất lãm và 12 lần trong Tin mừng Gioan. Nó xuất hiện trong sách Đaniel (7,13) để mô tả “ai như con người”, đại diện cho dân Israel mới và hiện ra trên mây trời để nhận vương quốc từ Đấng Lão Thành. “Con Người” được dùng thường xuyên qua các sách Tin mừng và thường ám chỉ sự vượt qua và cái chết – như trong bài Tin mừng hôm nay.
Sau khi Đức Giêsu phục sinh, Phêrô sẽ mở rộng câu trả lời của ông cho câu hỏi của Đức Giêsu. Trong chương 3 quyển thứ 2 của Luca, Công vụ tông đồ, sau khi Phêrô và Gioan chữa trị người què ở cổng Đền thờ (3,1-26), Phêrô nói với đám đông và ám chỉ Đức Giêsu như: tôi tớ của Thiên Chúa, Đấng Thánh và Đấng Công Chính, Tác giả của Sự sống, và Đấng Mêsia. Rõ ràng trong các sách Tin mừng, Phêrô có nhiều thiếu sót và những hành động sai lầm, nhưng nhờ kết quả của việc Đức Giêsu phục sinh và quà tặng của Thánh Thần, cuộc đời Phêrô đã thay đổi. Lời đáp của ông cho câu hỏi của Đức Giêsu tăng trưởng vì những sự kiện làm thay đổi cuộc sống nhờ vào sự vượt qua và sự phục sinh của Đức Giêsu.
Kinh nghiệm của Phêrô dạy rằng chúng ta không thể dùng câu trả lời của người khác để trả lời cho câu hỏi mà Đức Giêsu đã hỏi các môn đệ và tiếp tục hỏi chúng ta, “Còn anh em bảo Thầy là ai?” Câu hỏi này đòi chúng ta phải trả lời mỗi ngày. Chúng ta trả lời câu hỏi này bằng những quyết định mà chúng ta có liên quan đến chọn lựa của các bạn bè chúng ta; chúng ta sử dụng thời gian của mình ra sao; đầu tư cho các nguồn của chúng ta; đối xử với tha nhân, đặc biệt ý nghĩa tối thiểu; một sự sẵng sàng để được nhận biết như các môn đệ Đức Kitô; và sự thực hành từ chối bản thân trước của cải của người khác.
Đức Giêsu hứa trong quá trình từ bỏ cuộc sống hằng ngày của mình, chúng ta sẽ tìm lại được. Thế gian khuyên chúng ta tìm kiếm lợi lộc riêng mình, cẩn trọng và tìm kiếm bằng nỗ lực tối thiểu. Tôi đang giữ lại cho bản thân những gì? Tại sao? Đức Giêsu đòi hỏi sự rủi ro và lòng quảng đại khi người khác cần đến mình. Ở chỗ khác có nói hạt giống được tích trữ sẽ mục nát. Đó không phải sự tối thiểu mà tôi có thể làm – nhưng là hết khả năng.
Đức Giêsu không phải là người thích đau khổ, việc chọn đau khổ vì mục đích đau khổ. Hơn thế nữa, có lẽ được hướng dẫn bởi những ngôn sứ như Dacaria (trong bài đọc 1), Người đã nhận ra vai trò thiên sai như một người bị ruồng bỏ, đau khổ và thập giá. Người dạy cho Phêrô biết khái niệm về Đấng Mêsia. Đấng Mêsia sẽ phải đau khổ và trong hành động cũng dạy cho chúng ta cách thức để theo Người bằng cách sống cuộc đời của chúng ta. Theo Đức Giêsu làm cho chúng ta mở ra với cùng cách đối xử mà thế thế gian đã gây ra cho Người. Tuy nhiên, nó không kết thúc bằng cái chết, nhưng trong sự chung chia trong sự phục sinh và sự sống mới của Đức Giêsu.
Tín hữu Galat đề nghị cách thức những ai cùng với đời sống mới mà Đức Giêsu trao tặng, phải nhìn chính họ và thế giới. Khi chúng ta chịu thua thiệt như các môn đệ và đón nhận thập giá của Đức Kitô, thì chúng ta đã bước vào mối tương quan sâu xa với Thiên Chúa và với cả người khác. Vì đời sống mới, chúng ta sẽ thấy được giá trị của mỗi và mọi người. Đó là lý do chúng ta được Đức Giêsu gọi để thể hiện sự ưa thích tối thiểu. Vì Đức Giêsu chúng ta chia sẻ cách ngang bằng như con cái của Thiên Chúa. “Không còn chuyện phân biệt Do thái hay Hy lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Ki-tô”