Thứ năm sắp tới, Phụng vụ sẽ mừng lễ nhớ thánh Phaolô VI, Giáo hoàng. Ngài qua đời ngày 6 tháng 8, lễ Chúa Hiển dung; vì thế ngày kính được dời sang ngày 29 tháng 5, ngày thụ phong linh mục của ngài (29/5/1920).
Đức thánh cha Phaolô VI được biết đến qua nhiều văn kiện được ban hành để thực thi các quyết nghị của công đồng Vaticanô II, nhưng có một văn kiện ít được quan tâm, được ban hành cách đây 50 năm, trong khuôn khổ Năm toàn xá 1975.
Văn kiện bàn về niềm vui Kitô giáo, một đề tài xem ra xa lạ đối với đời sống Giáo hội, nhưng ký thực là một đặc trưng của Kitô giáo.
Xin gửi đến mọi người bản dịch văn kiện, không dài lắm.
Cầu xin Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta được hưởng niềm vui, kể cả giữa những cơn thử thách.

Gaudete in Domino (Hãy vui lên trong Chúa)
Tông huấn của Đức Thánh Cha Phaolô VI về Niềm vui Kitô giáo
ban hành vào lễ Hiện xuống, ngày 9 tháng 5 năm 1975
GIỚI THIỆU
Cách đây 50 năm, vào lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, giữa năm Toàn xá 1975, Đức Thánh Cha Phaolô VI đã ban hành tông huấn bàn về niềm vui Kitô giáo, mở đầu bằng những lời “Hãy vui lên trong Chúa” – trích dẫn từ thánh Phaolô (Pl 4,4) được phụng vụ lặp lại nhiều lần trong mùa Vọng. Vào thời điểm chính trị của nước Việt Nam lúc ấy, có thể quả quyết rằng hầu hết đồng bào không được nghe nói tới văn kiện này. Nói đúng ra, ngay cả bên Âu châu, tông huấn này cũng ít gây chú ý của dư luận. Xem ra niềm vui không phải là một đề tài nghiêm túc của thần học! Tuy nhiên, khi đọc kỹ tông huấn này, chúng ta thấy rằng “niềm vui” là một tư tưởng nòng cốt của Kitô giáo, bởi vì gắn liền với mầu nhiệm Nhập thể và Phục sinh. ĐTC nhấn mạnh đến sự cần thiết của niềm vui Kitô giáo, và thúc giục các tín hữu hãy vun trồng niềm vui như là một hồng ân của Thánh Linh giữa một thế giới đầy dẫy đau khổ và tranh chấp. Niềm vui Kitô giáo bắt nguồn từ sự kết hợp sâu xa với Thiên Chúa, và được diễn tả qua tình liên đới, canh tân bản thân và hòa giải.
Văn kiện này gồm 7 chương, không kể Nhập đề và Kết luận.
1. Lòng khao khát niềm vui trong con tim của mỗi người.
2. Niềm vui Kitô giáo được tiên báo trong Cựu ước
3. Niềm vui theo Tân ước
4. Niềm vui trong tâm hồn các thánh nhân
5. Niềm vui cho toàn dân
6. Niềm vui và hy vọng trong con tim các bạn trẻ
7. Niềm vui của khách hành hương trong Năm thánh
Bản văn tiếng Ý chỉ đánh số Rôma các chương; bản văn tiếng Tây Ban Nha còn thêm số Ả-rập để phân đoạn (77 đoạn). Chúng tôi cũng theo đường hướng này để dễ trích dẫn[1].
Những ý tưởng chính của mỗi chương có thể tóm lại như sau
1) Lòng khao khát niềm vui trong con tim của mỗi người (số 5-15).
Con người đi tìm hạnh phúc và niềm vui. Niềm vui thường bị đe dọa bởi với những thách đố của cuộc sống, và những bất toàn của hạnh phúc trần thế, khiến cho con người đâm ra buồn phiền và thất vọng. Mặc dù sự tiến triển khoa học đã mang lại nhiều phúc lộc vật chất, nhưng nhiều người cảm thấy chán chường và trống rỗng. Vì thế các Kitô hữu cần đoàn kết với nhau để mang lại công bình và an ủi cho những người sầu khổ, theo điều răn yêu thương Chúa dạy.
2) Niềm vui Kitô giáo được tiên báo trong Cựu ước (số 16-20), qua những nhân vật chủ chốt như ông Abraham hoặc những biến cố tựa như cuộc xuất hành. Niềm vui này được gắn với kế hoạch của Thiên Chúa, với cao điểm nơi Đức Kitô.
3) Niềm vui theo Tân ước (số 21-32). Niềm vui được gắn liền với cuộc đời, việc tử nạn và phục sinh của Đức Kitô. Đó là một niềm vui vượt trên những hoàn cảnh của trần thế, và được nâng đỡ nhờ tình yêu của Chúa, sự hiện diện của Thánh Linh, và lời hứa sẽ được sống mãi bên Chúa.
4) Niềm vui trong tâm hồn các thánh nhân (số 33-43). Các thánh cho thấy niềm vui Kitô giáo có thể được sống bằng những đường lối khác nhau. Văn kiện điểm qua trước hết là Mẹ Maria, các vị tử vì đạo và ba khuôn mặt quen thuộc của thời nay (Phanxicô Assisi, Terexa Lisiẽu, Maximiliano Kolbe). Qua những đau khổ, hy sinh và phục vụ, các ngài cho thấy rằng niềm vui sâu xa bắt nguồn từ sự hiệp thông với Thiên Chúa; các ngài trở nên khuôn mẫu cho tất cả các tín hữu cố gắng để sống niềm vui.
5) Niềm vui cho toàn dân (số 44-52). Niềm vui Kitô giáo được dành cho hết mọi người, và khuyến khích mọi người hãy tái khám phá nó, cách riêng vào thời buổi khó khăn. Văn kiện nêu bật tầm quan trọng của việc hoán cải, tha thứ, và tìm thấy niềm vui trong cuộc sống hằng ngày, dưới sự hướng dẫn của Giáo hội.
6) Niềm vui và hy vọng trong con tim các bạn trẻ (số 53-60). Giáo hội nhìn nhận các bạn trẻ như là thực thể sống động cho tương lai của mình, và khuyến khích các bạn hãy tìm gặp niềm vui trong đức tin vào Chúa Giêsu. Niềm vui này, dựa trên việc tìm kiếm và sống theo chân lý, sẽ giúp các bạn chu toàn sứ mạng của mình, và đưa Giáo hội tiến đến tương lai.
7) Niềm vui của khách hành hương trong Năm thánh (số 61-69). Năm thánh và sự hành hương là những biểu tượng của hành trình Kitô hữu tiến về Thiên Chúa. Cuộc hành hương không chỉ là vật lý mà thôi nhưng là tinh thần, và cứu cánh cuối cùng là sự kết hiệp với Thiên Chúa trên trời. Đức thánh cha giữ một vài trò đặc biệt trong cuộc lữ hành này, vì giúp Giáo hội hướng đến đức tin, hiệp nhất và vui mừng trong tình thương của Thiên Chúa.
Kết luận (số 70-77).
Như vậy, văn kiện khởi đi từ khái niệm niềm vui tự nhiên, rồi bước sang quan điểm của Kinh thánh (Cựu ước cũng như Tân ước), và tiếp tục với việc nhìn ngắm các mẫu gương của các thánh; từ đó đưa ra những áp dụng cụ thể cho cuộc sống hôm nay.
Đây là văn kiện đầu tiên của Huấn quyền đề cập đến niềm vui. Các giáo hoàng kế tiếp sẽ khai triển đề tài này, đặc biệt là ĐGH Phanxicô với thuật ngữ “niềm vui” được đặt ngay ở đầu văn kiện, chẳng hạn như: “ Niềm vui loan báo Tin mừng” (Evangelii gaudium), “Niềm vui của tình yêu” (Amoris laetitia), “Hãy vui mừng hoan hỉ” (Gaudete et exsultate).
(Bản dịch của Học viện Đa Minh, Gò Vấp)
_Phan Tấn Thành_
TÔNG HUẤN
GAUDETE IN DOMINO
(Hãy vui lên trong Chúa)
CỦA ĐỨC THÁNH CHA PHAOLÔ VI
VỀ NIỀM VUI KITÔ GIÁO
Thưa quý anh em trong hàng Giám mục, các con thân mến,
Xin gửi lời chào thăm và Phép lành Tông Tòa.
GAUDETE IN DOMINO
(Hãy vui lên trong Chúa)
CỦA ĐỨC THÁNH CHA PHAOLÔ VI
VỀ NIỀM VUI KITÔ GIÁO
Thưa quý anh em trong hàng Giám mục, các con thân mến,
Xin gửi lời chào thăm và Phép lành Tông Tòa.
1. “Anh em hãy vui luôn trong Chúa, bởi vì Chúa gần gũi những ai thành tâm kêu cầu Người!” (1)
2. Trong Năm Thánh hồng ân này, chúng tôi đã nhiều lần mời gọi Dân Chúa đáp lại ân sủng của Năm Toàn Xá bằng một tâm hồn hân hoan và quảng đại. Như anh chị em đã biết, lời mời ấy là một lời kêu gọi hướng đến việc canh tân nội tâm và hòa giải trong Đức Kitô. Đây là vấn đề hệ trọng liên quan đến phần rỗi và hạnh phúc trọn vẹn của con người. Vào lúc toàn thể Hội Thánh đang chuẩn bị mừng đại lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, chúng tôi tha thiết mời gọi anh chị em khẩn cầu Thánh Thần ban cho chúng ta hồng ân niềm vui thiêng liêng.
3. Phần chúng tôi, dù đang thi hành sứ vụ hòa giải giữa biết bao mâu thuẫn và khó khăn (2), nhưng chúng tôi luôn được nâng đỡ và đồng hành bởi niềm vui của Chúa Thánh Thần. Vì thế, chúng tôi có thể mượn lời thánh Tông Đồ Phaolô nói với cộng đoàn Côrintô mà thưa lên với toàn thể Hội Thánh: “Anh em ở trong lòng chúng tôi, để cùng chết và cùng sống với nhau. Tôi rất tin tưởng anh em… giữa bao nỗi gian truân, tôi lại tràn đầy niềm vui.” (3) Vâng, cũng chính vì lòng yêu mến, chúng tôi mong ước được chia sẻ cùng anh chị em niềm vui chan chứa ấy – một hồng ân đích thực của Chúa Thánh Thần. (4)
4. Do đó, như một thúc bách nội tâm, và nhân dịp đại lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống trong Năm hồng ân này, chúng tôi muốn gửi đến anh chị em Tông huấn này, với chủ đề: Niềm vui Kitô giáo – Niềm vui trong Chúa Thánh Thần. Chúng tôi mong muốn được cất lên như một bài thánh thi ca ngợi niềm vui thần linh, để thức tỉnh một âm vang trong toàn thể nhân loại, và trước tiên là nơi Hội Thánh: ước chi niềm vui ấy – cùng với đức ái là hoa trái của Thánh Thần – được tuôn đổ vào lòng người nhờ chính Đấng đã được ban cho chúng ta. (5) Ước mong rằng tiếng nói của anh chị em sẽ hòa chung cùng tiếng nói của chúng tôi, để trở nên một niềm an ủi thiêng liêng cho Hội Thánh Thiên Chúa, cũng như cho tất cả những ai sẵn lòng mở rộng tâm hồn và trí khôn để đón nhận mầu nhiệm của niềm vui này.
I. SỰ CẦN THIẾT CỦA NIỀM VUI TRONG TÂM HỒN MỌI NGƯỜI
5. Niềm vui Kitô giáo sẽ không thể được ca tụng một cách chính đáng nếu chúng ta dửng dưng trước chứng tá, cả bên ngoài lẫn nội tâm, mà Thiên Chúa – Đấng Tạo Hóa – thể hiện về chính Người giữa lòng tạo thành: “Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm ra quả là rất tốt đẹp” (x. St 1,10.12.18.21.31). Khi đặt con người trong một vũ trụ là công trình của quyền năng, thượng trí và tình yêu của Người – ngay cả trước khi mạc khải chính bản thân mình – Thiên Chúa đã sắp đặt trí khôn và con tim của tạo vật mình sao cho hướng về chân lý, đồng thời cũng hướng về niềm vui. Vì thế, cần lưu tâm lắng nghe lời mời gọi âm vang từ đáy lòng con người, từ tuổi thơ hồn nhiên đến tuổi già an hòa – như một linh cảm về mầu nhiệm Thiên Chúa.
6. Khi hướng mắt nhìn ra thế giới, chẳng phải con người – bên cạnh ước muốn tự nhiên muốn hiểu biết và làm chủ nó – còn mang trong mình khát vọng muốn đạt được sự thành toàn và hạnh phúc của mình đó hay sao? Như ai cũng biết, “hạnh phúc” có nhiều cấp độ. Biểu hiện cao quý nhất của hạnh phúc là niềm vui, hay “hạnh phúc” theo nghĩa chặt, khi con người – với những tài năng cao quý của tâm trí – tìm thấy bình an và mãn nguyện nhờ chiếm hữu một thiện hảo đã được nhận biết và yêu mến. (7) Con người cảm nghiệm niềm vui khi thấy mình hòa hợp với thiên nhiên, và nhất là trong cuộc gặp gỡ, chia sẻ và hiệp thông với tha nhân. Hơn thế nữa, con người cảm nếm được niềm vui thiêng liêng khi linh hồn họ bước vào mối hiệp thông với Thiên Chúa – Đấng tối cao và bất biến – được nhận biết và yêu mến. (8) Các thi sĩ, nghệ sĩ, triết gia – cũng như bao người bình thường có tâm hồn nhạy bén trước ánh sáng nội tâm – xưa kia cũng như ngày nay, kể cả giữa chúng ta, đều đã và vẫn có thể phần nào cảm nếm niềm vui của Thiên Chúa.
7. Tuy nhiên, làm sao chúng ta có thể phủ nhận một thực tế khác: rằng niềm vui luôn bất toàn, mong manh và dễ bị đe dọa? Một nghịch lý lạ lùng: ngay trong nhận thức về điều có thể mang lại hạnh phúc chân thực – vượt lên mọi lạc thú chóng qua – con người cũng đồng thời cảm nhận rõ ràng rằng không có hạnh phúc trọn vẹn nơi trần thế. Kinh nghiệm về tính hữu hạn – được từng thế hệ luân phiên cảm nhận – khiến ta phải công nhận và dò dẫm vực thẳm khôn nguôi giữa thực tại và khát vọng vô biên.
8. Điều nghịch lý và khó khăn trong việc đạt được niềm vui, xem ra càng trở nên sâu sắc trong thời đại hôm nay. Đó chính là lý do của Tông huấn này. Xã hội công nghệ đã thành công trong việc nhân lên những cơ hội hưởng thụ, nhưng lại gặp khó khăn lớn lao khi muốn sinh ra niềm vui, bởi lẽ niềm vui đến từ một nguồn khác – nguồn thiêng liêng. Dẫu tiền bạc, tiện nghi, vệ sinh và an ninh vật chất không thiếu, nhưng buồn chán, trầm cảm và sầu muộn vẫn là số phận đáng tiếc của nhiều người. Những tâm trạng ấy đôi khi còn đạt đến mức lo âu và tuyệt vọng, mà sự vô tư giả tạo, những cơn hưng phấn tạm thời hay “thiên đàng nhân tạo” chẳng thể làm nguôi ngoai. Phải chăng người ta cảm thấy bất lực trước guồng quay của tiến bộ công nghệ, không đủ khả năng quy hoạch xã hội một cách nhân bản? Phải chăng tương lai quá bất định, và đời sống con người quá mong manh? Hay đúng hơn, có lẽ đó là cảm thức cô đơn, là nỗi khát khao tình yêu và sự hiện diện của ai đó chưa được đáp ứng, là một khoảng trống mơ hồ không thể lấp đầy? Ngược lại, tại nhiều nơi – kể cả gần với chúng ta – biết bao đau khổ về thể lý và luân lý vẫn đè nặng trên con người: biết bao người đang đói khát, bao nạn nhân của những cuộc chiến vô ích, biết bao gia đình bị ly tán! Những nỗi khổ ấy có thể không sâu hơn quá khứ, nhưng đã trở thành hiện tượng toàn cầu, và được truyền thông đại chúng loan tin rộng rãi không kém gì những tin vui – khiến chúng trở nên ám ảnh trong tâm trí con người. Nhiều khi, người ta dường như không còn giải pháp nhân loại nào thích đáng cho chúng.
9. Tuy nhiên, tình cảnh ấy không thể ngăn cản chúng ta bàn về niềm vui, hy vọng vào niềm vui. Chính trong cơn khốn cùng, con người lại càng cần biết đến niềm vui, cần được nghe tiếng hát của nó. Chúng tôi hết lòng cảm thông với những ai đang mang lấy nỗi buồn vì nghèo đói và đau khổ dưới muôn vàn hình thức. Chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những người túng thiếu, bị bỏ rơi, không có sự nâng đỡ hay tình bạn – những người mà mọi hy vọng nhân loại dường như bị tiêu tan. Hơn bao giờ hết, họ hiện diện trong lời cầu nguyện và tình yêu mục tử của chúng tôi.
10. Chúng tôi không muốn gây thêm gánh nặng cho ai; ngược lại, chúng tôi đang tìm kiếm những phương dược có thể mang lại ánh sáng. Theo chúng tôi, những phương dược ấy nằm trong ba hướng:
11. Con người cần liên kết với nhau trong nỗ lực chung nhằm đảm bảo một mức sống xứng hợp tối thiểu: an sinh, công bằng và phẩm giá – vốn là điều kiện tiên quyết để có hạnh phúc. Sự liên đới ấy chính là công trình của Thiên Chúa, phản ánh giới răn của Đức Kitô. Nó kiến tạo hòa bình, khơi lại hy vọng, trao ban sức mạnh, nối kết hiệp thông và mở lối đến niềm vui – không chỉ cho người đón nhận mà cả cho người trao ban: “Cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20,35). Anh chị em thân mến, biết bao lần chúng tôi đã khẩn thiết kêu gọi anh chị em hãy dấn thân chuẩn bị một thế giới đáng sống hơn, hãy kiến tạo công lý và bác ái vì sự phát triển toàn diện của nhân loại, không trì hoãn! Tông hiến Vui mừng và Hy vọng (Gaudium et Spes) của Công đồng cũng như nhiều văn kiện khác của Tòa Thánh đã nhấn mạnh điều ấy. Dù không phải là trọng tâm của Tông huấn này, nhưng sẽ là điều thiếu xứng hợp nếu chúng ta nói đến niềm vui mà quên mất bổn phận căn bản là yêu thương tha nhân.
12. Cần có một nỗ lực kiên trì để con người học biết cách hưởng nếm một cách đơn sơ các niềm vui nhân bản mà Đấng Tạo Hóa đã đặt sẵn trên hành trình của chúng ta: niềm vui được hiện hữu và sống; niềm vui của tình yêu trong sáng và được thánh hóa; niềm vui thanh bình của thiên nhiên và tĩnh lặng; niềm vui tuy nghiêm khắc nhưng sâu lắng của công việc chu toàn; niềm vui và thỏa mãn trong bổn phận đã hoàn thành; niềm vui trong trẻo của sự thanh sạch, phục vụ và sẻ chia; niềm vui đòi hỏi của hy sinh. Người Kitô hữu có thể thanh luyện, kiện toàn và nâng cao những niềm vui ấy; nhưng không thể khinh chê chúng. Niềm vui Kitô giáo luôn đòi hỏi nơi ta một tâm hồn biết đón nhận niềm vui tự nhiên. Thật vậy, chính Chúa Kitô đã nhiều lần dùng chính những niềm vui tự nhiên này làm điểm khởi đầu để công bố Nước Trời.
13. Tuy nhiên, chủ đề Tông huấn này còn được đặt trên một bình diện khác: bình diện thiêng liêng. Thực trạng là: con người hôm nay, trong linh hồn, đang thiếu khả năng gánh vác những đau khổ và thử thách của thời đại. Càng mất ý nghĩa cuộc đời, con người càng bị đè bẹp, càng không chắc chắn về bản thân cũng như về ơn gọi và định mệnh siêu việt của mình. Họ đã giải thiêng vũ trụ, và giờ đây đang giải thiêng chính nhân loại; nhiều khi, họ đã cắt đứt sợi dây sinh mệnh gắn kết họ với Thiên Chúa. Niềm hy vọng và giá trị của con người không còn được bảo đảm. Thiên Chúa trở nên xa lạ, vô ích. Mặc dù không diễn tả rõ ràng, nhưng sự thinh lặng của Thiên Chúa đè nặng trên lòng họ. Quả vậy, lạnh lẽo và tăm tối trước hết bắt đầu từ trong tâm hồn của con người sầu khổ.
14. Người ta có thể nói đến nỗi sầu muộn của những kẻ không tin – khi linh hồn con người, vốn được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa, và do đó hướng về Người như Thiện Hảo tối hậu, lại sống mà không nhận biết, không yêu mến, và vì thế không cảm nghiệm được – dù chỉ là bất toàn – hạnh phúc được phát sinh nhờ nhận biết Thiên Chúa và xác tín rằng mình có một mối dây liên kết với Người – mối dây mà ngay cả cái chết cũng không thể cắt đứt. Ai trong chúng ta lại không nhớ lời thánh Âu Tinh: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Chúa, nên tâm hồn con mãi mãi khắc khoải cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa.” (10)
15. Vậy thì, chính bằng cách trở nên hiện diện hơn trước Thiên Chúa, bằng cách từ bỏ tội lỗi, con người mới thật sự có thể bước vào niềm vui thiêng liêng. Dĩ nhiên, “xác thịt và máu huyết” không thể đạt tới điều ấy (11); nhưng Mạc Khải mở ra con đường, và ân sủng ban khả năng hoán cải. Chính vì thế, chúng tôi mời gọi anh chị em hướng về nguồn mạch đích thực của niềm vui Kitô giáo. Và làm sao chúng tôi có thể thực hiện điều đó, nếu chính chúng tôi không trở nên chăm chú hơn với kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, và lắng nghe Tin Mừng tình yêu của Người?
II. NIỀM VUI KITÔ GIÁO ĐƯỢC LOAN BÁO TRONG CỰU ƯỚC
16. Xét theo bản chất, niềm vui Kitô giáo là sự hiệp thông thiêng liêng vào niềm vui khôn dò khôn thấu, vừa thần linh vừa nhân loại, vốn tuôn chảy trong trái tim Đức Giêsu Kitô vinh hiển. Ngay từ khi Chúa Cha bắt đầu tỏ lộ trong lịch sử mầu nhiệm tình thương mà Người đã hoạch định từ muôn thuở trong Đức Kitô, để thực hiện vào thời viên mãn (12) – thì niềm vui ấy đã được loan báo cách mầu nhiệm giữa lòng Dân Thiên Chúa, dù chưa được bày tỏ trọn vẹn bản chất.
17. Quả vậy, ông Abraham, tổ phụ chúng ta, người đã được Thiên Chúa tuyển chọn để chuẩn bị cho việc hoàn tất Lời Hứa, và là người “vẫn giữ niềm hy vọng bất chấp mọi hy vọng” , đã nhận được – nơi biến cố sinh hạ người con là Isaac – những hoa trái tiên tri đầu tiên của niềm vui ấy. (13) Niềm vui ấy được chuyển biến qua một thử thách chạm đến cõi chết, khi đứa con duy nhất ấy được hoàn lại cho ông như người sống, tiên báo trước mầu nhiệm phục sinh của Đấng sẽ đến – người Con Một của Thiên Chúa – được hứa ban cho hy lễ cứu độ sau cùng. Chính ông Abraham đã vui mừng khi nghĩ tới Ngày của Đức Kitô, Ngày cứu độ, và “ông đã thấy và hoan hỷ”. (14)
18. Tiếp đó, niềm vui cứu độ lớn lên và lan tỏa suốt chiều dài lịch sử tiên tri của dân Israel xưa. Nó kiên vững tồn tại, và không ngừng được tái sinh, ngay giữa những thử thách bi thương do sự bất trung của dân được tuyển chọn, cũng như do những cuộc bách hại từ bên ngoài nhằm lôi kéo họ xa lìa Thiên Chúa. Niềm vui này – luôn bị đe dọa nhưng không ngừng trỗi dậy – là nét đặc trưng riêng có của dòng dõi Abraham.
Đó luôn là một kinh nghiệm đầy phấn khởi, gắn liền với ơn giải thoát và phục hồi, dù chỉ mới ở dạng tiên báo, nhưng có nguồn gốc từ tình yêu xót thương của Thiên Chúa dành cho dân riêng yêu dấu của Người. Vì họ, Người thực hiện các lời hứa trong Giao Ước, hoàn toàn do ân sủng và quyền năng kỳ diệu của Người. Đó chính là niềm vui của lễ Vượt Qua thời Môsê – một biến cố mang tính tiên trưng cho cuộc giải thoát cánh chung sẽ được Đức Giêsu Kitô thực hiện trong bối cảnh Vượt Qua của Giao Ước mới và vĩnh cửu. Cũng chính là niềm vui chân thực được cất lên trong các Thánh Vịnh, nhiều lần ca tụng niềm hạnh phúc khi sống với Thiên Chúa và cho Thiên Chúa. Và trên hết, đó là niềm vui huy hoàng và siêu nhiên, được tiên báo dành cho Giêrusalem mới – được cứu chuộc khỏi lưu đày, và được chính Thiên Chúa yêu thương với một tình yêu nhiệm mầu.
20. Ý nghĩa sâu xa nhất của dòng thác tình yêu cứu độ chưa từng có ấy chỉ được bày tỏ trọn vẹn trong thời điểm Vượt Qua mới và Cuộc Xuất Hành mới. Khi ấy, Dân Thiên Chúa sẽ được dẫn qua cái chết và phục sinh của Người Tôi Trung đau khổ, từ thế gian này về với Chúa Cha, từ Giêrusalem trần thế đến Giêrusalem thiên quốc:
“Ngươi đã từng bị bỏ rơi và chán ghét, chẳng ai lui tới,
nhưng Ta sẽ làm cho ngươi trở nên huy hoàng đến muôn đời,
một niềm vui từ đời nọ sang đời kia...
Như người thanh niên cưới một trinh nữ,
con cái ngươi sẽ cưới lấy ngươi;
và như chàng rể hân hoan vì cô dâu,
Thiên Chúa ngươi sẽ vui mừng vì ngươi.” (15)
III. NIỀM VUI THEO TÂN ƯỚC
21. Qua dòng thời gian suốt nhiều thế kỷ và giữa muôn vàn thử thách đau thương, những lời hứa ấy đã kỳ diệu nâng đỡ niềm hy vọng thiêng liêng của dân Israel xưa. Và chính dân Israel xưa đã chuyển giao những lời hứa ấy cho Hội Thánh của Đức Giêsu Kitô, đến mức chúng ta mang ơn họ về những biểu hiện tinh tuyền nhất trong thánh thi hoan lạc của chúng ta. Tuy nhiên, theo đức tin và kinh nghiệm Kitô giáo dưới tác động của Chúa Thánh Thần, bình an do Thiên Chúa ban và tuôn trào như suối nguồn dạt dào khi thời kỳ “an ủi” đến (16), gắn liền với việc Đức Kitô đến và hiện diện.
22. Không ai bị loại trừ khỏi niềm vui mà Chúa mang đến. Niềm vui lớn lao được sứ thần loan báo trong đêm Giáng Sinh thật sự là “niềm vui cho toàn dân” (17): cho dân Israel lúc bấy giờ đang khắc khoải mong chờ một Đấng Cứu Thế, và cho vô số con người trong tương lai, những người sẽ đón nhận sứ điệp ấy và nỗ lực sống theo sứ điệp ấy. Đức Trinh Nữ Maria là người đầu tiên lãnh nhận lời loan báo ấy từ thiên sứ Gabriel, và bài Magnificat của Mẹ đã trở thành khúc hoan ca trào dâng của mọi tâm hồn khiêm hạ. Mỗi khi chúng ta lần hạt Mân Côi, các mầu nhiệm mùa Vui lại đưa chúng ta trở về với biến cố không thể diễn tả – là trung tâm và đỉnh cao của lịch sử: biến cố Thiên Chúa nhập thể làm người. Ông Gioan Tẩy Giả, người được sai đến để giới thiệu Đấng ấy cho dân Israel, đã nhảy mừng trong lòng mẹ khi được ở trong sự hiện diện của Người (18). Khi Đức Giêsu bắt đầu sứ vụ công khai, ông Gioan đã “vui mừng khôn xiết vì nghe tiếng chàng rể” (19).
23. Giờ đây chúng ta hãy dừng lại để chiêm ngắm con người của Đức Giêsu trong đời sống trần thế của Người. Trong nhân tính, Người đã cảm nghiệm các niềm vui của chúng ta. Người rõ ràng đã biết đến, trân trọng và tán dương đủ loại niềm vui nhân loại, những niềm vui đơn sơ hằng ngày mà ai ai cũng có thể nếm trải. Đời sống nội tâm sâu thẳm không hề làm giảm nơi Người sự nhạy cảm hay thái độ cụ thể. Người thán phục chim trời và hoa huệ ngoài đồng. Người thấu hiểu ngay lập tức thái độ của Thiên Chúa đối với tạo thành từ buổi đầu lịch sử. Người tán dương niềm vui của người gieo kẻ gặt, niềm vui của người tìm thấy kho báu giấu kín, niềm vui của mục tử tìm được chiên lạc, hay người đàn bà tìm lại đồng bạc bị mất, niềm vui của khách dự tiệc, niềm vui trong lễ cưới, niềm vui của người cha ôm lấy đứa con hoàn lương, và niềm vui của người phụ nữ vừa sinh con. Đối với Đức Giêsu, những niềm vui ấy là chân chính, vì Người nhận ra nơi đó dấu chỉ của các niềm vui thiêng liêng trong Nước Thiên Chúa: niềm vui của những ai bước vào Nước ấy, trở về với Nước ấy, hay đang phục vụ trong Nước ấy; niềm vui của Chúa Cha đang đón nhận họ. Về phần mình, Đức Giêsu cũng biểu lộ sự hài lòng và trìu mến khi gặp các trẻ nhỏ muốn đến gần Người, người thanh niên giàu có sống trung tín và muốn vươn tới trọn lành, các bằng hữu mở cửa nhà đón tiếp Người như Mácta, Maria và Ladarô.
Hạnh phúc lớn nhất của Người là thấy Lời được đón nhận, người bị quỷ ám được giải thoát, một phụ nữ tội lỗi hay một người thu thuế như Dakêu hoán cải, một người góa phụ quảng đại trong cảnh túng nghèo. Người thậm chí còn nhảy mừng trong Thánh Linh khi tuyên bố rằng các mầu nhiệm Nước Trời đã được mặc khải cho những kẻ bé mọn mà lại bị ẩn giấu với những kẻ khôn ngoan thông thái (20). Quả vậy, bởi vì Đức Kitô “đã nên giống chúng ta mọi đàng, ngoại trừ tội lỗi” (21), nên Người đã đón nhận và cảm nghiệm những niềm vui tình cảm và thiêng liêng như là ân huệ đến từ Thiên Chúa. Người không ngơi nghỉ cho đến khi “loan báo Tin Mừng cứu độ cho kẻ nghèo khó… và ban niềm vui cho những tâm hồn sầu khổ” (22). Tin Mừng theo thánh Luca đặc biệt làm chứng cho hạt giống của niềm vui này. Các phép lạ của Đức Giêsu và những lời tha thứ của Người là biết bao dấu chỉ của lòng nhân hậu Thiên Chúa: “toàn dân vui mừng về mọi việc vinh hiển Người đã làm và tôn vinh Thiên Chúa” (23). Đối với Kitô hữu cũng như đối với Đức Giêsu, đó là vấn đề sống những niềm vui nhân bản với tâm tình cảm tạ Chúa Cha, Đấng Tạo Hóa đã ban tặng.
24. Tuy nhiên, chúng tôi muốn nêu bật bí nhiệm của niềm vui khôn dò khôn thấu mà Đức Giêsu mang trong mình và là điều độc đáo của Người. Đặc biệt, chính Tin Mừng theo Thánh Gioan đã vén mở điều ấy, bằng cách ghi lại những lời thân mật của Con Thiên Chúa làm người. Nếu Đức Giêsu chiếu tỏa một sự bình an, một sự chắc chắn, một niềm hạnh phúc, một sự cởi mở như thế, thì đó là bởi vì Người biết mình được Chúa Cha yêu thương bằng một tình yêu khôn tả. Khi Người được Gioan làm phép rửa bên bờ sông Giođan, tình yêu ấy – vốn đã hiện diện ngay từ giây phút Nhập Thể – được tỏ hiện: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con” (24). Sự xác tín này gắn liền mật thiết với ý thức của Đức Giêsu. Đó là một sự hiện diện không bao giờ lìa xa Người (25). Đó là một sự trao đổi liên tục và tràn đầy nơi Người: “Chúa Cha biết Con, và Con biết Chúa Cha” (26). Đó là một sự trao hiến liên lỉ và trọn vẹn: “Tất cả những gì của Con đều là của Cha, và tất cả những gì của Cha đều là của Con” (27). Chúa Cha đã trao cho Con quyền xét xử, quyền ban sự sống. Đó là một mối tương tại thẳm sâu: “Con ở trong Cha, và Cha ở trong Con” (28). Và Con lại yêu mến Cha vô cùng: “Con yêu mến Cha… và Con làm đúng như những gì Cha đã truyền cho Con” (29). Người luôn thực thi điều đẹp lòng Cha: đó là lương thực của Người (30). Sự sẵn sàng của Người đi đến chỗ dâng hiến cả mạng sống nhân loại của mình; lòng tin tưởng của Người đi đến niềm xác tín rằng mình sẽ lấy lại sự sống ấy: “Cha yêu mến Con vì Con tự nguyện thí mạng sống mình để rồi lấy lại” (31). Theo nghĩa đó, Người vui mừng vì được trở về với Chúa Cha. Đối với Đức Giêsu, đây không phải là một thoáng nhận thức, nhưng là sự vang vọng trong ý thức nhân loại của Người về tình yêu mà Người hằng sống từ thuở đời đời trong cung lòng Chúa Cha: “Lạy Cha, Cha đã yêu Con trước khi thế gian được tạo thành” (32). Nơi đây là một mối tương quan tình yêu khôn tả, chính là căn tính của Người với tư cách là Con, và cũng là bí nhiệm của đời sống Ba Ngôi: Chúa Cha được nhìn thấy là Đấng tự hiến trọn vẹn, không ngơi nghỉ và đầy quảng đại hân hoan cho Chúa Con; và Chúa Con được nhìn thấy là Đấng tự hiến lại cách trọn vẹn cho Chúa Cha, trong một niềm tri ân vui tươi, trong Chúa Thánh Thần.
25. Các môn đệ cũng như tất cả những ai tin vào Đức Kitô đều được kêu gọi chia sẻ niềm vui này. Đức Giêsu muốn họ được hưởng nơi chính mình niềm vui của Người một cách trọn vẹn (33). “Con đã tỏ Danh Cha cho họ, và sẽ còn tiếp tục tỏ ra, để tình yêu Cha dành cho Con ở trong họ, và Con cũng ở trong họ” (34).
26. Niềm vui được sống trong tình yêu của Thiên Chúa bắt đầu ngay từ đời này. Đó là niềm vui của Nước Thiên Chúa. Nhưng niềm vui ấy được ban tặng trên một con đường dốc đứng, đòi hỏi sự phó thác trọn vẹn vào Chúa Cha và Chúa Con, và sự chọn lựa ưu tiên dành cho Nước Thiên Chúa. Sứ điệp của Đức Giêsu, trước hết, là lời hứa ban niềm vui — một niềm vui đòi hỏi; và chẳng phải lời rao giảng của Người bắt đầu bằng các mối phúc sao? “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó: vì Nước Thiên Chúa là của anh em. Phúc cho anh em là những kẻ hiện nay đang đói: vì anh em sẽ được no đầy. Phúc cho anh em là những kẻ hiện nay đang khóc: vì anh em sẽ được vui cười.” (35)
27. Một cách mầu nhiệm, chính Đức Kitô đã đón nhận cái chết từ tay kẻ dữ (36) và cái chết thập giá, để nhổ bỏ khỏi lòng con người tội tự mãn, và biểu lộ trước mặt Chúa Cha lòng vâng phục làm con cách trọn vẹn. Nhưng Chúa Cha đã không để sự chết khống chế Người. Sự phục sinh của Đức Giêsu là ấn tín mà Chúa Cha đặt trên giá trị hy tế của Người Con: đó là bằng chứng về sự trung tín của Chúa Cha, đúng như lòng ước mong của Đức Giêsu trước cuộc khổ nạn: “Lạy Cha… xin tôn vinh Con Cha, để Con Cha tôn vinh Cha.” (37) Từ nay, Đức Giêsu hằng sống trong vinh quang của Chúa Cha, và chính vì thế các môn đệ đã được củng cố trong một niềm vui không gì xóa nhòa được, khi họ thấy Chúa vào chiều ngày Phục Sinh.
28. Thế nhưng, tại thế này, niềm vui của Nước Thiên Chúa – niềm vui đã được thực hiện – chỉ có thể tuôn trào từ việc cử hành đồng thời cái chết và sự phục sinh của Chúa. Đó là nghịch lý trong thân phận Kitô hữu, đồng thời là ánh sáng đặc biệt soi chiếu thân phận con người: thử thách và đau khổ không bị loại bỏ khỏi trần gian, nhưng chúng mang một ý nghĩa mới trong sự chắc chắn rằng người Kitô hữu được thông phần vào công trình cứu độ của Chúa và được dự phần vào vinh quang của Người. Đó là lý do tại sao người Kitô hữu, dẫu chịu đựng những gian truân trong cuộc sống, nhưng không sống trong sự mù mờ không định hướng; và người ấy cũng không coi cái chết như là chấm dứt mọi hy vọng của mình. Quả thật, như ngôn sứ đã loan báo: “Đoàn dân đang lần bước giữa tối tăm, đã thấy ánh sáng huy hoàng; ánh sáng bừng lên chiếu soi những ai sống trong vùng bóng tối tử thần. Chúa đã ban cho họ niềm hoan hỷ chan hòa, đã tăng thêm nỗi vui mừng…” (38) Bài ca Exsultet đêm Vọng Phục Sinh ca ngợi một mầu nhiệm vượt quá mọi niềm hy vọng của các ngôn sứ: trong lời loan báo vui mừng về sự phục sinh, cả đau khổ của con người cũng được biến đổi, và niềm vui tròn đầy tuôn trào từ chiến thắng của Đấng bị đóng đinh, từ trái tim bị đâm thâu và thân thể vinh hiển của Người. Chiến thắng ấy chiếu soi những tâm hồn còn u tối. Et nox illuminatio mea in deliciis meis. (39)
29. Niềm vui Phục Sinh không chỉ là một sự biến đổi khả thể: đó là niềm vui vì sự hiện diện mới của Đức Kitô phục sinh, Đấng ban Thánh Linh cho những người thuộc về Người, để Người ở lại với họ. Thánh Linh được ban cho Hội Thánh như là nguyên ủy không bao giờ cạn của niềm vui, với tư cách là Hiền Thê của Đức Kitô vinh hiển. Qua thừa tác vụ ân sủng và chân lý của các đấng kế vị các Tông đồ, Thánh Linh gợi lại nơi Hội Thánh giáo huấn của Chúa Kitô. Chính Thánh Linh làm trỗi dậy trong Hội Thánh sự sống thần linh và công cuộc tông đồ. Và người Kitô hữu biết rằng Thánh Thần ấy sẽ không bao giờ bị dập tắt trong dòng lịch sử. Nguồn mạch hy vọng được mạc khải trong ngày Lễ Ngũ Tuần sẽ không bao giờ cạn kiệt.
30. Vì thế, Thánh Linh, Đấng phát xuất từ Chúa Cha và Chúa Con, và là tình yêu sống động giữa hai Đấng, từ nay được thông ban cho Dân Giao Ước Mới và cho từng linh hồn sẵn sàng để Người hoạt động cách nhiệm mầu. Người làm cho chúng ta trở nên nơi cư ngụ của Người: dulcis hospes animae (40). Cùng với Người, trong lòng con người, Chúa Cha và Chúa Con cũng cư ngụ (41). Chính Thánh Linh làm trỗi dậy trong tâm hồn lời cầu nguyện thảo hiếu, vọt lên từ sâu thẳm linh hồn và biểu lộ bằng lời ngợi khen, tạ ơn, đền tạ và khẩn nài. Nhờ đó, chúng ta được cảm nghiệm niềm vui đích thực mang chiều kích thiêng liêng, niềm vui là hoa trái của Thánh Linh (42): niềm vui hệ tại linh hồn tìm được sự an nghỉ và thỏa mãn sâu xa khi chiếm hữu Ba Ngôi Thiên Chúa – Đấng được nhận biết nhờ đức tin và được yêu mến bằng tình yêu xuất phát từ chính Người. Niềm vui ấy, từ nay, in dấu trên mọi nhân đức Kitô giáo. Những niềm vui nhân loại đơn sơ trong đời sống chúng ta – vốn như những hạt giống của thực tại cao vời hơn – được biến đổi. Nơi dương thế này, niềm vui ấy vẫn luôn đi kèm, trong một mức độ nào đó, với cơn quặn đau của người phụ nữ khi sinh con, và một cảm thức bị bỏ rơi như trẻ mồ côi: nước mắt và than khóc, trong khi thế gian hả hê. Nhưng nỗi buồn của các môn đệ – là nỗi buồn “phù hợp với Thiên Chúa” chứ không theo thế gian – sẽ sớm được chuyển thành niềm vui thiêng liêng mà không ai có thể lấy đi được (43).
31. Đó chính là hoàn cảnh của đời sống Kitô hữu, và cách riêng là của đời sống tông đồ. Đời sống ấy, được hun đúc bởi lòng mến Chúa và yêu thương anh em, đương nhiên phải được thực hiện dưới dấu chỉ hy lễ Vượt Qua: qua yêu thương đến hiến mình, qua cái chết đến sự sống và tình yêu. Đó là căn tính của người Kitô hữu, và nhất là, của người tông đồ – người phải trở nên “mẫu mực cho đoàn chiên” (44) và tự nguyện liên kết với cuộc khổ nạn của Đấng Cứu Chuộc. Đời sống tông đồ như thế hoàn toàn tương ứng với điều được mô tả trong Tin Mừng như là quy luật của mối phúc Kitô giáo, tiếp nối số phận của các ngôn sứ: “Phúc cho anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Quả vậy, các ngôn sứ cũng đã bị người ta bách hại như thế.” (45)
32. Thật đáng buồn, trong thời đại hôm nay – một thời đại bị đe dọa bởi ảo tưởng của hạnh phúc giả tạo – chúng ta không thiếu những dịp để nhận thấy sự bất lực “tự nhiên” của con người trong việc đón nhận “những điều thuộc về Thần khí của Thiên Chúa” : đối với họ đó là điều điên rồ, họ không thể hiểu được, bởi những điều ấy chỉ có thể được nhận định theo thần khí” (46). Thế gian – bởi vì không thể đón nhận Thần Khí của sự thật, Đấng mà thế gian không thấy và cũng không biết – chỉ nhìn thấy một mặt của thực tại. Nó chỉ thấy đau khổ và nghèo túng của người môn đệ, trong khi người môn đệ ấy, tận sâu thẳm nội tâm, vẫn sống trong niềm vui, bởi họ đang hiệp thông với Chúa Cha và với Con của Người là Đức Giêsu Kitô.
IV. NIỀM VUI NƠI TÂM HỒN CÁC THÁNH
33. Anh chị em rất thân mến và các con yêu dấu, đó là niềm hy vọng chan chứa vui mừng được kín múc ngay từ chính nguồn mạch của Lời Thiên Chúa. Trong suốt hai mươi thế kỷ, nguồn mạch niềm vui ấy không ngừng tuôn chảy trong Hội Thánh, và cách riêng, nơi tâm hồn các thánh. Giờ đây, chúng ta cần gợi nhắc một vài âm vang của kinh nghiệm tâm linh ấy, mà trong sự đa dạng của các đặc sủng và ơn gọi riêng biệt, diễn tả mầu nhiệm của niềm vui Kitô giáo.
34. Đứng hàng đầu là Đức Trinh Nữ Maria, đầy ân sủng, Thân mẫn Đấng Cứu Thế. Đón nhận lời loan báo từ trời cao, người nữ tì của Thiên Chúa, Hiền Thê của Thánh Linh, và Thân mẫu của Con Một hằng cửu, Mẹ bộc lộ niềm vui của mình trước người chị họ Êlisabét ca ngợi đức tin của Mẹ: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, và thần trí tôi hớn hở vui mừng trong Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi... từ nay, muôn thế hệ sẽ khen tôi diễm phúc” (47). Hơn bất kỳ thụ tạo nào khác, Mẹ đã nhận biết rằng Thiên Chúa đã thực hiện những điều cao cả: Danh Người là Thánh, lòng thương xót Người trải rộng, Người nâng cao kẻ khiêm nhường, Người trung tín với các lời hứa của mình.
Cuộc sống bên ngoài của Mẹ không tỏ ra khác biệt gì với đời sống thông thường, nhưng Mẹ suy niệm về mọi dấu chỉ nhỏ nhất của Thiên Chúa và ghi khắc trong lòng. Mẹ cũng không được miễn trừ đau khổ: Mẹ đứng đó, người Mẹ sầu bi, dưới chân thập giá, cách đặc biệt kết hiệp với hy lễ của Người Tôi Trung vô tội.
Nhưng Mẹ cũng mở lòng đón nhận trọn vẹn niềm vui của sự phục sinh; và Mẹ cũng được đưa lên trời cả hồn lẫn xác trong vinh quang thiên quốc. Là người được cứu chuộc đầu tiên, vô nhiễm nguyên tội từ giây phút đầu thai, là nơi cư ngụ tuyệt vời của Thánh Linh, là đền thờ tinh tuyền của Đấng Cứu Độ nhân loại, Mẹ vừa là Ái Nữ yêu dấu của Thiên Chúa, vừa là – trong Đức Kitô – Mẹ của mọi người. Mẹ là hình mẫu trọn hảo của Hội Thánh, vừa trong lữ hành trần thế, vừa trong vinh quang thiên quốc.
Biết bao lời ngôn sứ về Giêrusalem mới được ứng nghiệm nơi cuộc đời diễm phúc của Trinh Nữ Israel: “Tôi hớn hở vui mừng trong Đức Chúa, lòng tôi hoan hỷ trong Thiên Chúa tôi, vì Người mặc cho tôi hồng ân cứu độ, choàng áo công chính cho tôi, như chú rể đội triều thiên, như cô dâu trang điểm bằng châu báu.” (48)
Cùng với Đức Kitô, Mẹ quy tụ nơi mình mọi niềm vui; Mẹ sống niềm vui trọn hảo được hứa ban cho Hội Thánh: Mater plena sanctae laetitiae (Mẹ tràn đầy niềm vui thánh thiện). Và đó là lý do chính đáng khiến con cái trần gian hướng về Mẹ, Đấng là Mẹ của niềm hy vọng và ân sủng, mà xưng tụng Mẹ: Causa nostrae laetitiae (Căn nguyên của niềm vui của chúng con).
35. Sau Đức Maria, chúng ta thấy các vị tử đạo diễn tả niềm vui tinh tuyền và mãnh liệt nhất – khi thập giá Đức Giêsu được đón nhận bằng tình yêu trung tín nhất –. Ngay giữa cực hình, Thánh Linh đã đổ đầy trong các ngài một lòng khát khao nồng cháy được đón gặp Đấng Lang Quân. Khi chết và thấy trời mở ra, thánh Stêphanô chỉ là một chứng nhân đầu tiên trong vô số nhân chứng của Đức Kitô. Và cho đến hôm nay, tại nhiều quốc gia, biết bao người vẫn chấp nhận liều mình vì Đức Kitô, có thể nói giống như thánh tử đạo Inhaxiô Antiôkia: “Giữa niềm vui tràn trề, tôi viết cho anh em, đang khi khát mong được chết. Khát vọng trần thế của tôi đã bị đóng đinh, và không còn lửa đam mê yêu mến xác phàm. Trong tôi chỉ còn một dòng nước sống thì thầm: ‘Hãy đến với Chúa Cha.’” (49)
36. Cũng vậy, sức mạnh của Hội Thánh, sự chắc chắn về chiến thắng của Hội Thánh, và niềm vui của Hội Thánh khi cử hành cuộc chiến thắng của các vị tử đạo, xuất phát từ việc Hội Thánh chiêm ngắm nơi họ hoa trái vinh quang của thập giá. Chính vì thế, vị tiền nhiệm của chúng tôi, Thánh Lêô Cả, từ ngai tòa Rôma, đã ngợi ca cuộc tử đạo của hai thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô như sau: “Quý giá thay trước mắt Thiên Chúa là cái chết của các thánh, và không hình thức tàn bạo nào có thể phá hủy một tôn giáo được xây dựng trên mầu nhiệm thập giá Đức Kitô. Hội Thánh không bị giảm sút nhưng được gia tăng nhờ bách hại. Và cánh đồng của Chúa được mặc lấy mùa gặt phong phú, khi hạt giống ngã xuống một mình, lại được nhân lên gấp bội trong cuộc tái sinh.” (50)
37. Tuy nhiên, trong nhà Cha có nhiều chỗ ở, và đối với những ai có trái tim được thiêu đốt bởi Thánh Linh, có nhiều cách chết đi cho chính mình để đạt đến niềm vui phục sinh thánh thiện. Đổ máu không phải là con đường duy nhất. Nhưng cuộc chiến cho Nước Trời bao hàm một sự say mê tình yêu, điều mà các bậc thầy thiêng liêng đã diễn tả bằng những lời thật sâu sắc. Chính tại đây, các kinh nghiệm nội tâm của họ gặp nhau, giữa sự đa dạng của các truyền thống thần bí, cả Đông phương lẫn Tây phương. Tất cả đều minh chứng cho cùng một hành trình linh hồn: per crucem ad lucem – qua thập giá đến ánh sáng, và từ thế gian này về với Chúa Cha, trong hơi thở ban sự sống của Thánh Linh.
38. Mỗi một vị thầy tâm linh đều để lại cho chúng ta một sứ điệp về niềm vui. Các Giáo phụ Đông phương đặc biệt phong phú về các chứng từ về niềm vui trong Thánh Linh. Ông Origenê, chẳng hạn, thường mô tả niềm vui của người có sự hiểu biết thân mật với Đức Giêsu: “Linh hồn người ấy tràn đầy niềm vui, như cụ già Simêon. Trong đền thờ là Hội Thánh, người ấy bồng ẵm Đức Giêsu. Người ấy cảm nếm sự viên mãn của ơn cứu độ, vì đang ôm Đấng mà nơi Người, Thiên Chúa giao hòa thế gian với chính mình.” (51) Trong thời Trung cổ, giữa nhiều vị khác, bậc thầy thần bí Đông phương Nicholas Cabasilas đã cố gắng chứng minh rằng chính tình yêu Thiên Chúa dành cho mình đã mang lại nguồn vui sâu thẳm nhất. (52) Ở phương Tây, chỉ cần nhắc đến một số vị đại thánh đã chỉ dạy con đường nên thánh và vui mừng: thánh Âutinh, thánh Bênađô, thánh Đaminh, thánh Inhaxiô Loyola, thánh Gioan Thánh Giá, thánh Têrêsa Avila, thánh Phanxicô Salêsiô và thánh Gioan Bosco.
39. Chúng tôi muốn đặc biệt gợi nhớ đến ba khuôn mặt vẫn đầy sức thu hút đối với toàn thể Dân Chúa ngày nay. Trước hết là vị thánh nghèo ở Assisi, người mà biết bao tín hữu hành hương trong Năm Thánh khao khát bước theo. Đã từ bỏ mọi sự vì Chúa, thánh Phanxicô đã tái khám phá, qua nghèo khó thánh thiện, một điều gì đó giống như hạnh phúc nguyên thủy, khi thế giới còn nguyên tuyền từ bàn tay Đấng Tạo Hóa. Giữa khổ cực tột cùng, khi gần như đã mù lòa, ngài đã hát lên Bài ca Vạn vật bất hủ, ca ngợi người anh mặt trời, ca tụng toàn thể thiên nhiên – nay trở thành gương soi tinh trong vinh quang Thiên Chúa. Thậm chí ngài còn chúc tụng cả “chị chết phần xác” : “Phúc cho ai họa được thánh ý rất thánh của Chúa…”
40. Thời đại gần đây, thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu cho ta thấy con đường phó thác can đảm trong tay Thiên Chúa, Đấng mà chị trao gởi tất cả sự bé mọn của mình. Và không phải chị không cảm nghiệm sự vắng bóng của Thiên Chúa – điều mà thời đại chúng ta phải trải nghiệm khốc liệt: “Đôi khi, chú chim nhỏ (là hình ảnh mà chị dùng cho chính mình) dường như không thể tin rằng còn có điều gì khác ngoài những tầng mây đang bao phủ nó… Chính lúc ấy là giây phút của niềm vui trọn hảo đối với sinh linh yếu đuối bé nhỏ này… Thật là hạnh phúc biết bao khi nó vẫn ở lại đó, và nhìn về ánh sáng vô hình đang lẩn trốn khỏi đức tin của nó.” (53)
41. Cuối cùng, làm sao có thể không nhắc đến hình ảnh rạng ngời và là mẫu gương cho thế hệ chúng ta: chân phúc Maximilianô Kolbe, người môn đệ đích thực của thánh Phanxicô? Giữa những thử thách đẫm máu của thời đại chúng ta, ngài đã tự nguyện hiến mạng sống để cứu một người anh em không quen biết. Các chứng nhân kể lại rằng bình an nội tâm, sự thanh thản và niềm vui của ngài đã biến nơi khổ đau – vốn như hình ảnh của địa ngục – thành tiền sảnh của sự sống đời đời, cả cho các bạn tù bất hạnh và cho chính bản thân.
42. Trong đời sống của các con cái Hội Thánh, việc chia sẻ niềm vui của Chúa không thể tách rời việc cử hành mầu nhiệm Thánh Thể, nơi các tín hữu được nuôi dưỡng bằng Mình và Máu của Người. Nhờ được nuôi dưỡng như những khách lữ hành trên đường hướng về đời sống đời đời, họ đã được lãnh nhận cách bí tích những hoa quả đầu mùa của niềm vui cánh chung.
43. Trong bối cảnh này, niềm vui rộng lớn và sâu sắc đã được tuôn đổ nơi đáy lòng những tín hữu chân chính ngay trên trần gian không gì khác hơn là một thứ niềm vui “được tỏa lan”, giống như sự sống và tình yêu mà niềm vui là sự biểu lộ hạnh phúc của chúng. Niềm vui là kết quả của sự hiệp thông giữa con người và Thiên Chúa, và khát khao hướng tới một sự hiệp thông càng ngày càng phổ quát hơn. Tuyệt nhiên niềm vui ấy không thể khiến người được ban niềm vui rơi vào thái độ thu mình lại. Niềm vui ban cho tâm hồn một sự cởi mở phổ quát với thế giới loài người, đồng thời cũng làm lòng người thổn thức khát vọng thiên thu. Nơi những ai đã theo đường hướng đó, niềm vui làm sâu sắc nhận thức về thân phận kiếp lưu đày, nhưng cũng giữ họ tránh khỏi cám dỗ từ bỏ vị trí cho Nước Trời mau đến. Niềm vui thúc đẩy họ tích cực hối hả hướng về sự viên mãn trên trời của lễ cưới Con Chiên. Niềm vui ấy thanh thản trải dài giữa khoảnh khắc lao nhọc trần gian và bình an của sự cư ngụ vĩnh hằng, theo sức hút của Thần Khí: “Nếu ngay trên trần gian này, vì chúng ta đã nhận được dấu ấn (của Thần Khí làm con), mà chúng ta kêu lên: ‘Abba! Cha ơi!’, thì biết bao vui mừng sẽ trào dâng khi chúng ta được phục sinh và thấy Ngài mặt đối mặt! Khi tất cả các thành viên như một dòng nước lớn tuôn trào bài ca mừng rỡ, tôn vinh Đấng đã cho họ sống lại và ban cho họ sự sống đời đời? Nếu những dấu ấn đơn sơ này, bao bọc con người từ mọi phía, đã khiến người ta kêu lên: ‘Abba! Cha ơi!’, thì không biết ơn huệ trọn vẹn của Thần Khí sẽ làm được những gì khi được Thiên Chúa ban cho nhân loại? Ơn ấy sẽ làm cho chúng ta nên giống Ngài và thực hiện ý muốn của Cha, vì ơn ấy sẽ làm cho con người nên hình ảnh và giống Thiên Chúa.” (54) Ngay trên trần gian này, các thánh đã cho chúng ta nếm trước hình ảnh tương tự ấy.
V. NIỀM VUI CHO TOÀN DÂN
44. Khi lắng nghe bản hòa ca của muôn tiếng nói các thánh, phải chăng chúng ta đã quên đi hoàn cảnh hiện tại của xã hội loài người, vốn xem ra ít hướng về những điều siêu nhiên? Phải chăng chúng ta đã đánh giá quá cao các khát vọng thiêng liêng của các tín hữu ngày nay? Phải chăng chúng ta đã giới hạn lời huấn dụ này vào một số ít người thông thái và học thức? Chúng ta không thể quên rằng Tin Mừng, với ánh sáng rực rỡ đơn sơ và nội dung trọn vẹn, đã được loan báo trước tiên cho người nghèo và kẻ khiêm nhường.
45. Nếu chúng tôi đã gợi lên chân trời rạng ngời của niềm vui Kitô giáo, thì hoàn toàn không phải để khiến bất kỳ ai trong anh chị em cảm thấy nản lòng khi lời gọi của Thiên Chúa chạm đến một con tim đang còn bị chia đôi. Trái lại; chúng tôi xác tín rằng niềm vui của chúng tôi – cũng như của anh chị em – chỉ được trọn đầy khi chúng ta cùng nhau, trong trọn niềm tín thác, ngước nhìn về Đấng “là Đấng khởi xướng và kiện toàn đức tin. Vì niềm vui còn ở phía trước, Người đã chịu khổ hình thập giá, không nề sự ô nhục, và nay đang ngự bên hữu ngai Thiên Chúa. Anh em hãy nghĩ đến Đấng đã chịu sự chống đối lớn lao từ phía các tội nhân, để khỏi nản lòng mà ngã quỵ.” (55)
46. Lời mời gọi của Thiên Chúa Cha đến tham dự trọn vẹn vào niềm vui của Abraham, vào đại tiệc vĩnh cửu của Hôn Lễ Con Chiên, là một lời mời phổ quát. Bất cứ ai, miễn là họ biết lắng nghe và sẵn sàng, đều có thể cảm nhận được lời mời gọi ấy từ đáy lòng mình, cách riêng trong Năm Thánh này, khi Hội Thánh mở ra cách dồi dào hơn cho mọi người kho tàng lòng thương xót của Thiên Chúa. “Vì lời hứa ấy là dành cho anh em, cho con cháu anh em, và cho tất cả những ai ở phương xa – tức là cho mọi người mà Chúa là Thiên Chúa của chúng ta sẽ kêu gọi về với Người.” (56)
47. Chúng ta không thể nghĩ về Dân Thiên Chúa như một điều gì trừu tượng. Ánh mắt chúng ta dừng lại trước tiên nơi thế giới của các trẻ em. Bao lâu chúng còn được tìm thấy nơi tình thương của những người gần gũi một cảm giác an toàn thiết yếu, chúng có khả năng đón nhận, ngỡ ngàng, tín thác và tự hiến một cách tự nhiên. Các em chính là những chủ thể xứng hợp nhất để lãnh nhận niềm vui Tin Mừng. Ai muốn vào Nước Trời – Đức Giêsu nói với chúng ta – trước hết phải học nơi trẻ nhỏ (57). Chúng tôi cũng nghĩ đến tất cả những ai đang dấn thân sâu xa trong trách nhiệm gia đình, nghề nghiệp và xã hội. Gánh nặng trách nhiệm của họ, trong một thế giới chuyển động quá nhanh, thường cản trở họ tận hưởng các niềm vui hằng ngày. Tuy nhiên, các niềm vui ấy vẫn hiện hữu. Chúa Thánh Linh muốn giúp họ tái khám phá những niềm vui ấy, thanh luyện và chia sẻ chúng.
48. Chúng tôi nghĩ đến thế giới của người đau khổ, và đến những ai đã đến buổi hoàng hôn của cuộc đời. Niềm vui của Thiên Chúa đang gõ cửa những khổ đau thể lý và tinh thần của họ – không phải để châm biếm, mà để thực hiện nơi đó công trình hoán cải đầy nghịch lý của Người.
49. Tâm trí và con tim chúng tôi cũng hướng đến tất cả những ai đang sống ngoài phạm vi hữu hình của Dân Thiên Chúa. Khi điều chỉnh cuộc đời mình sao cho phù hợp với tiếng gọi sâu thẳm nơi lương tâm – vốn là tiếng vọng của Thiên Chúa – họ đang bước đi trên hành trình dẫn tới niềm vui.
50. Nhưng Dân Thiên Chúa không thể tiến bước nếu không có những người dẫn đường. Đó là các mục tử, thần học gia, linh hướng, linh mục và những ai cộng tác với các ngài trong việc xây dựng các cộng đoàn Kitô hữu. Sứ mạng của họ là giúp anh chị em mình bước đi trên những con đường của niềm vui Tin Mừng, giữa lòng những thực tại cuộc sống mà họ không thể tránh thoát.
51. Quả thật, chính tình yêu bao la của Thiên Chúa đang quy tụ về Thành Thánh những người đến từ bốn phương trời trong Năm Thánh này, dù họ ở gần hay còn ở xa. Và bởi vì tất cả những ai được mời gọi – tức là tất cả chúng ta – đều ở mức độ nào đó là những tội nhân, nên hôm nay, chúng ta phải thôi cứng lòng, để lắng nghe tiếng Chúa và đón nhận lời mời gọi của đại xá, như ngôn sứ Giêrêmia đã loan báo: “Ta sẽ thanh tẩy chúng khỏi mọi tội chúng đã phạm đến Ta; mọi lỗi lầm khiến chúng xúc phạm đến Ta và phản bội Ta – Ta sẽ thứ tha tất cả. Và Giêrusalem sẽ là niềm vui của Ta, là niềm vinh dự và vinh quang của Ta trước mặt mọi dân tộc trên mặt đất.” (58) Và cũng như lời hứa tha thứ ấy – và nhiều lời hứa khác nữa – chỉ đạt đến ý nghĩa viên mãn nơi hy tế cứu độ của Đức Giêsu, Người Tôi Trung đau khổ, thì chính Người – và chỉ mình Người – mới có thể nói với chúng ta, trong giây phút hệ trọng của đời sống nhân loại: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.” (59) Nhất là Chúa muốn giúp chúng ta hiểu rằng việc hoán cải mà Người mời gọi không phải là một bước lùi – như là khi phạm tội – nhưng là một khởi hành, một tiến bước vào trong tự do đích thực và niềm vui. Đó là lời đáp trả cho một lời mời gọi xuất phát từ chính Người – một lời mời vừa đầy yêu thương, vừa tôn trọng, vừa khẩn thiết: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng, hãy đến cùng Ta, và Ta sẽ cho anh em được nghỉ ngơi. Anh em hãy mang lấy ách của Ta, và học với Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Và tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng!” (60)
52. Thật vậy, có gánh nặng nào đè nặng hơn tội lỗi? Có nỗi sầu khổ nào cô đơn hơn thân phận của người con hoang đàng, như thánh Luca đã thuật lại? Và ngược lại, có cuộc gặp gỡ nào sâu sắc hơn cuộc hội ngộ giữa người cha kiên nhẫn, giàu lòng thương xót và người con đã được hoàn sinh? “Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi sám hối hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần sám hối.” (61) Và ai là người không có tội, ngoại trừ Đức Kitô và Thân Mẫu vô nhiễm nguyên tội? Vì vậy, bằng lời mời gọi trở về với Chúa Cha qua việc sám hối, Năm Thánh – là một lời hứa về niềm hoan lạc cho toàn dân – cũng là một lời mời gọi tái khám phá ý nghĩa và thực hành bí tích Hòa Giải. Theo truyền thống thiêng liêng tốt đẹp nhất, chúng tôi xin nhắc lại với các tín hữu và các mục tử rằng việc xưng thú các tội trọng là điều cần thiết, và việc xưng tội thường xuyên vẫn luôn là một nguồn mạch đặc biệt của sự thánh thiện, bình an và niềm vui.
VI. NIỀM VUI VÀ HY VỌNG NƠI TÂM HỒN NGƯỜI TRẺ
53. Dù vẫn duy trì lòng nhiệt thành của sứ điệp này gửi đến toàn thể Dân Thiên Chúa, chúng tôi muốn dành đôi lời ngỏ tới cách đặc biệt với thế giới người trẻ, với một niềm hy vọng đặc biệt.
54. Thật vậy, nếu Hội Thánh, được tái sinh nhờ Thánh Linh, theo một nghĩa nào đó là sức trẻ đích thực của thế giới, miễn là Hội Thánh trung tín với chính bản thân mình và với sứ mạng của mình, thì làm sao Hội Thánh lại không tự nhiên và ưu tiên nhận ra hình ảnh của mình nơi những ai cảm thấy mình là người mang sự sống và hy vọng, và dấn thân nhằm đảm bảo rằng tương lai cho lịch sử hiện tại? Và ngược lại, làm sao những người mà trong mọi thời đại của lịch sử này sống mạnh mẽ nhất sức sống nội tâm, khao khát tương lai, khao khát canh tân đích thực, lại không thầm kín đồng điệu với một Hội Thánh được Thần Khí Đức Kitô làm cho sống động? Làm sao họ lại không trông mong nơi Hội Thánh truyền đạt bí quyết của tuổi trẻ trường tồn, và nhờ đó, tìm thấy niềm vui của chính tuổi trẻ mình?
55. Chúng tôi tin rằng thực sự có một sự tương hợp như thế, dù không phải lúc nào cũng thấy rõ, nhưng chắc chắn sâu xa, bất chấp nhiều mâu thuẫn ngẫu nhiên. Chính vì thế, trong Tông huấn về Niềm vui Kitô giáo này, tâm trí và trái tim chúng tôi thôi thúc chúng tôi quay cách dứt khoát về phía người trẻ hôm nay. Chúng tôi làm điều này nhân danh Đức Kitô và Hội Thánh của Người, Hội Thánh mà, dù mang nhiều yếu đuối nhân loại, vẫn được Người mong muốn là một Hội Thánh “rạng ngời, không vết nhơ, không tì ố hay bất cứ khuyết điểm nào, nhưng là thánh thiện và tinh tuyền.” (62)
56. Khi làm như thế, chúng tôi không chiều theo một thứ tôn sùng theo cảm tính. Nếu chỉ xét theo tuổi tác, thì tuổi trẻ là điều chóng qua. Một sự chú ý quá mức đến tuổi trẻ sẽ nhanh chóng trở thành lưu luyến hoặc nực cười. Nhưng điều đó không đúng khi nói đến ý nghĩa thiêng liêng của giây phút ân sủng này: tuổi trẻ được sống đúng cách. Điều thu hút chúng tôi chính là sự tương hợp sâu xa giữa một con người đang bừng bừng sức sống, vốn tự nhiên cởi mở với lời mời gọi và đòi hỏi của ơn gọi cao cả làm người, và động lực của Thánh Linh, Đấng không ngừng ban cho Hội Thánh tuổi trẻ của chính Người, sự trung tín đích thực của Hội Thánh với chính mình, và sự sáng tạo sống động nơi cốt lõi của lòng trung tín ấy. Đó là một sự tương hợp tuy ngắn ngủi và bị đe dọa, nhưng vẫn đầy ý nghĩa và giàu hứa hẹn quảng đại. Từ cuộc gặp gỡ giữa con người đang nắm giữ tuổi trẻ trong một số năm quyết định, và Hội Thánh trong sự trẻ trung thiêng liêng trường tồn của mình, chắc chắn nảy sinh – từ cả hai phía – một niềm vui cao quý và một hứa hẹn sinh hoa kết quả.
57. Hội Thánh, như một Dân Thiên Chúa lữ hành hướng về Vương quốc tương lai, cần phải biết tự duy trì sự sống và do đó tự canh tân qua các thế hệ kế tiếp. Với Hội Thánh, đó là điều kiện của sự sinh hoa kết quả, và thậm chí, của sự sống chính mình. Vì thế, ở mỗi thời điểm trong lịch sử, thế hệ đang lên cần phải đảm nhận, bằng cách nào đó, niềm hy vọng của các thế hệ đi trước, tức là niềm hy vọng của chính Hội Thánh, đó là truyền thông không ngơi nghỉ hồng ân của Thiên Chúa, là Chân lý và là Sự sống. Chính vì vậy, ở mọi thế hệ, người Kitô hữu trẻ được kêu gọi chính đáng để xác nhận cách ý thức và trọn vẹn giao ước đã được thiết lập với họ trong bí tích Thánh Tẩy, và được củng cố trong bí tích Thêm Sức.
58. Về điểm này, thời đại của chúng ta – một thời đại đổi thay sâu sắc – không thiếu những khó khăn lớn lao cho Hội Thánh. Chúng tôi, những người cùng với toàn thể Giám mục đoàn “mang nỗi ưu tư cho mọi Hội Thánh” (63), và quan tâm đến tương lai gần của họ, chúng tôi rất ý thức điều đó. Nhưng đồng thời, nhờ được nâng đỡ bởi đức tin và “niềm hy vọng không giả dối” (64), chúng tôi xác tín rằng ân sủng sẽ không thiếu nơi Dân Thiên Chúa, và chúng tôi hy vọng chính Dân Chúa cũng sẽ không từ chối ân sủng ấy, cũng không chối bỏ – như một số người hôm nay đang bị cám dỗ nặng nề – gia sản chân lý và sự thánh thiện đã được truyền lại đến thời điểm quyết định này của lịch sử thế giới. Và chính tại điểm này – chúng tôi nghĩ rằng mình có đầy đủ lý do để tin tưởng vào giới trẻ Kitô giáo: giới trẻ sẽ không làm Hội Thánh thất vọng, nếu trong lòng Hội Thánh có đủ những người lớn tuổi biết hiểu, biết yêu, biết hướng dẫn giới trẻ, và mở ra cho họ một tương lai, bằng cách trung tín tuyệt đối trong việc trao lại Chân lý trường tồn. Khi ấy, những thợ gặt mới, kiên quyết và nhiệt thành, sẽ bước vào sứ mạng tông đồ và thiêng liêng, trên cánh đồng đã sẵn sàng cho mùa gặt. Khi ấy, “kẻ gieo và kẻ gặt sẽ cùng nhau hoan hỉ” trong niềm vui của Nước Trời. (65)
59. Thật vậy, chúng tôi nghĩ rằng cuộc khủng hoảng hiện nay trên thế giới, được biểu lộ qua sự hỗn loạn lớn nơi nhiều người trẻ, phần nào phản ánh một bộ mặt già nua và lỗi thời của một nền văn minh mang tính thương mại, khoái lạc và duy vật, mà vẫn cố tự giới thiệu như cánh cửa bước vào tương lai. Phản ứng bản năng của nhiều người trẻ chống lại ảo tưởng ấy vẫn mang một tầm quan trọng nào đó. Thế hệ này đang chờ đợi một điều khác. Sau khi đột ngột bị tước mất các truyền thống bảo bọc, rồi lại cay đắng vì bị lừa dối bởi sự hư danh và trống rỗng thiêng liêng của các thứ “mới mẻ” giả tạo, bởi các ý thức hệ vô thần và những dạng thần bí độc hại, lẽ nào thế hệ này sẽ không đến lúc khám phá – hay tái khám phá – sự mới mẻ chắc chắn và bất biến của mầu nhiệm Thiên Chúa được tỏ lộ trong Đức Giêsu Kitô? Nào Người không phải, như lời rực rỡ của thánh Irênê, đã “mang đến tất cả sự mới mẻ khi mang chính bản thân mình” sao? (66)
60. Vì lý do đó, chúng tôi rất vui được gửi cách đặc biệt đến anh chị em, các bạn trẻ Kitô hữu hôm nay – là lời hứa của Hội Thánh tương lai – lời mời gọi bước vào cuộc cử hành niềm vui thiêng liêng này. Chúng tôi tha thiết mời gọi anh chị em lắng nghe những tiếng gọi nội tâm đang vang vọng trong anh chị em. Chúng tôi mời gọi anh chị em ngẩng cao mắt, nâng cao tâm hồn và sức lực tươi trẻ của mình hướng lên cao, để đón nhận nỗ lực của khát vọng linh hồn. Và chúng tôi muốn gửi đến anh chị em một lời bảo đảm: mặc cho định kiến phổ biến hiện nay, vốn lan rộng khắp nơi, rằng tinh thần con người không thể nhận biết được Chân lý vĩnh cửu và mang lại sự sống, thì niềm vui vì Chân lý thần linh được nhận ra trong Hội Thánh – gaudium de Veritate – vẫn là niềm vui sâu xa và giải thoát. (67) Đó chính là niềm vui được ban tặng cho anh chị em. Niềm vui ấy tự hiến cho những ai yêu mến nó đủ để kiên trì kiếm tìm. Bằng cách sẵn lòng đón nhận và loan truyền niềm vui ấy, anh chị em sẽ chu toàn chính mình trong Đức Kitô, đồng thời bảo đảm cho giai đoạn kế tiếp của lịch sử Dân Thiên Chúa.
VII. NIỀM VUI CỦA NGƯỜI HÀNH HƯƠNG TRONG NĂM THÁNH
61.Năm Thánh với hành trình hành hương của nó là một phần tự nhiên trong cuộc lữ hành của toàn thể Dân Thiên Chúa. Ân sủng của Năm Toàn Xá thực sự đạt được bằng cách lên đường và bước đi về phía Thiên Chúa, trong đức tin, đức cậy và đức mến. Khi thay đổi phương thức và thời điểm cử hành Năm Toàn Xá, chúng tôi muốn tạo điều kiện dễ dàng hơn cho tất cả mọi người. Tuy nhiên, yếu tố thiết yếu vẫn là quyết định nội tâm, để đáp lại lời mời gọi của Thánh Linh, cách cá vị, như một môn đệ của Đức Giêsu, như một người con của Hội Thánh Công giáo và Tông truyền, và theo đúng ý hướng của Hội Thánh. Mọi điều khác thuộc về trật tự của các dấu chỉ và phương thế. Vâng, cuộc hành hương được mong ước chính là, đối với toàn thể Dân Thiên Chúa cũng như đối với từng cá nhân trong Dân ấy, một chuyển động, một lễ Vượt Qua, tức là một hành trình nội tâm đến nơi sâu thẳm, nơi mà Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần đón nhận người hành hương vào trong chính sự thân mật và hiệp thông thần linh của các Ngài: “Ai yêu mến Thầy… Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và chúng Ta sẽ đến và ở lại với người ấy.” (68) Để đạt đến sự hiện diện ấy, luôn đòi hỏi phải đào sâu sự hiểu biết đích thực về chính mình, như là thụ tạo và như là con cái Thiên Chúa.
62. Lẽ nào cuộc canh tân nội tâm như thế không chính là điều mà Công đồng gần đây nhất đã muốn cách nền tảng? (69) Quả thật, đây là một công trình của Thánh Linh, là một hồng ân của lễ Hiện Xuống. Người ta cũng phải nhận ra nơi vị tiền nhiệm của chúng tôi là Đức Gioan XXIII một trực giác ngôn sứ, khi ngài hình dung về một cuộc Hiện Xuống mới như là hoa trái của Công đồng. (70) Về phần chúng tôi, chúng tôi cũng muốn đặt mình vào cùng một viễn tượng và tâm thế chờ mong như thế. Không phải vì lễ Hiện Xuống đã từng bị gián đoạn trong suốt lịch sử Hội Thánh, nhưng bởi vì nhu cầu và nguy cơ của thời đại này quá lớn, chân trời của nhân loại được mở ra cho sự cộng tồn toàn cầu nhưng lại bất lực trong việc thực hiện nó, đến nỗi không có ơn cứu độ nào khác ngoài một cuộc tuôn trào mới của ân ban Thiên Chúa. Vậy thì, nguyện xin Thần Khí Sáng Tạo hãy đến, để canh tân bộ mặt trái đất!
63.Trong Năm Thánh này, chúng tôi đã mời gọi anh chị em thực hiện – dù cách thể lý, hay bằng tinh thần và ý hướng – một cuộc hành hương về Rôma, tức là đến trung tâm của Hội Thánh Công giáo. Nhưng rõ ràng Rôma không phải là đích điểm tối hậu của cuộc hành hương trong thời gian. Không có thành thánh nào nơi trần gian này là mục tiêu chung cuộc. Mục tiêu ấy vượt khỏi thế giới này, ẩn sâu trong mầu nhiệm của Thiên Chúa mà chúng ta vẫn chưa thấy tỏ tường. Vì chúng ta bước đi trong đức tin chứ không phải bằng thị kiến rõ ràng, và điều chúng ta sẽ là thì vẫn chưa được mạc khải. Giêrusalem Mới, mà chúng ta đã là công dân và là con cái, (71) từ trời cao xuống, từ nơi Thiên Chúa. Về thành duy nhất còn tồn tại ấy, chúng ta chưa được chiêm ngưỡng vinh quang, ngoài việc ngắm nhìn như trong gương một cách lờ mờ, nhờ nắm giữ chắc chắn lời tiên tri. Nhưng chúng ta đã là công dân của thành ấy, hoặc được mời gọi trở nên như vậy; mọi cuộc hành hương thiêng liêng đều nhận được ý nghĩa nội tâm từ đích điểm tối hậu này.
64. Điều đó cũng đã từng đúng đối với Giêrusalem được các vịnh gia ca ngợi. Chính Đức Giêsu và Mẹ Maria của Người cũng đã hát lên nơi trần thế những bài ca Xion khi tiến lên Giêrusalem: “tuyệt đỉnh của vẻ đẹp”, “ niềm vui của toàn thế giới.” (72) Nhưng từ nay, Giêrusalem trên trời nhận được sức hấp dẫn từ chính Đức Kitô, và chính về Người mà chúng ta thực hiện cuộc hành trình nội tâm của mình.
65. Điều này cũng đúng với Rôma, nơi các thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô đã đổ máu mình như là những chứng nhân oai hùng. Ơn gọi của Rôma có nguồn gốc tông truyền, và thừa tác vụ mà chúng tôi được trao ở đây là một sứ vụ phục vụ vì lợi ích của toàn thể Hội Thánh và nhân loại. Nhưng đó là một sứ vụ không thể thay thế, bởi vì Sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa đã muốn đặt Rôma của thánh Phêrô và thánh Phaolô, như thể, trên con đường dẫn đến Thành vĩnh cửu, bởi chính Sự Khôn Ngoan ấy đã chọn trao cho Phêrô – người quy tụ toàn thể Giám mục đoàn – chìa khóa Nước Trời.
66. Điều còn lại nơi đây, không bởi ý muốn của con người, nhưng bởi lòng nhân hậu và tự do của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, chính là soliditas Petri – sự vững bền của Phêrô – mà thánh Lêô Cả, vị tiền nhiệm của chúng tôi, đã ca tụng bằng những lời không thể quên được: “Thánh Phêrô không ngừng chủ tọa ngai tòa của mình và duy trì sự hiệp thông bất tận với Vị Thượng Tế Tối Cao. Sự vững chắc mà ngài đã lãnh nhận từ Đá Tảng là Đức Kitô, thì chính ngài, khi đã trở thành Đá Tảng, cũng truyền lại một cách bình đẳng cho các đấng kế vị ngài; và nơi nào xuất hiện một sự vững bền, thì nơi đó chắc chắn là sức mạnh của vị Mục Tử... Vậy thì, vẫn sống động và mạnh mẽ nơi vị Thủ lãnh các Tông đồ, tình yêu Thiên Chúa và tình yêu con người – tình yêu chưa từng sờn lòng vì tù ngục, xiềng xích, đám đông hay đe dọa của vua chúa; và cũng như thế, đức tin bất khuất nơi ngài chưa hề dao động trong chiến đấu, cũng chẳng nguội lạnh khi chiến thắng.” (73)
67. Điều chúng tôi luôn ước mong – và cách riêng trong dịp cử hành Năm Thánh này – là anh em có thể cảm nghiệm cùng với chúng tôi, tại Rôma cũng như nơi mọi Giáo hội ý thức trách nhiệm hiệp thông với truyền thống chân chính được gìn giữ tại Rôma, (74) điều mà Thánh vịnh ca tụng: “Ngọt ngào tốt đẹp lắm thay, anh em được sống vui vầy bên nhau!” (75)
68. Một niềm vui chung, đích thực siêu nhiên, là hồng ân của Thánh Thần hiệp nhất và yêu thương, mà niềm vui ấy chỉ có thể thành sự khi đức tin được đón nhận trọn vẹn theo quy chuẩn Tông đồ. Bởi vì khi ấy, mặc dù đức tin “được loan báo khắp hoàn cầu, thì Hội Thánh Công giáo vẫn gìn giữ một cách cẩn trọng, như thể đức tin ấy cư ngụ trong một ngôi nhà duy nhất, và tuyên xưng đồng thuận, như thể chỉ có một linh hồn và một trái tim; và Hội Thánh rao giảng, giảng dạy và truyền đạt đức tin ấy hoàn toàn nhất trí, như thể chỉ có một miệng lưỡi duy nhất mà thôi.” (76)
69. “Ngôi nhà duy nhất” ấy, “trái tim và linh hồn” duy nhất ấy, “miệng lưỡi duy nhất” ấy – tất cả đều cần thiết cho Hội Thánh và cho toàn thể nhân loại, để nơi trần thế này có thể không ngừng vang lên, trong sự hòa hợp với Giêrusalem trên trời, bài ca mới, thánh thi của niềm vui thần linh. Và chính vì lý do ấy, chúng tôi phải khiêm tốn, kiên nhẫn và bền bỉ làm chứng – dù giữa bao điều không thấu hiểu từ nhiều phía – cho sứ mạng mà Chúa đã trao: đó là hướng dẫn đoàn chiên và củng cố anh em mình. (77) Nhưng biết bao lần, chính ý nghĩ về tất cả anh em đã an ủi chúng tôi cách sâu xa, để chúng tôi có thể chu toàn sứ vụ tông đồ của mình vì lợi ích của Hội Thánh hoàn vũ và vinh quang của Chúa Cha!
KẾT LUẬN
70. Giữa lòng Năm Thánh này, chúng tôi đã xem như một hành động trung tín đối với sự soi sáng của Chúa Thánh Thần, khi mời gọi các Kitô hữu trở về với nguồn mạch của niềm vui.
71. Anh em rất thân mến và các con yêu dấu, lẽ nào lại không là điều tự nhiên khi niềm vui cư ngụ trong chúng ta, khi lòng trí chúng ta chiêm ngắm hoặc tái khám phá – trong đức tin – những lý do căn bản và đơn sơ của niềm vui? Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Người; và qua Thánh Linh, sự hiện diện của Thiên Chúa không ngừng ôm ấp chúng ta bằng sự dịu dàng của Người và tràn đầy trong chúng ta sự sống của Người; và chúng ta đang bước đi trong hành trình hướng tới sự biến hình vinh phúc của đời sống mình trong con đường phục sinh của Đức Giêsu. Vâng, thật là điều kỳ lạ nếu Tin Mừng này – vốn gợi lên lời Alleluia của Hội Thánh – lại không làm phát sinh nơi chúng ta ánh nhìn của những người đã được cứu độ.
72. Niềm vui được làm Kitô hữu, được hiệp thông với Hội Thánh, được “ở trong Đức Kitô” và trong tình trạng ân sủng với Thiên Chúa, thực sự có thể làm trọn đầy cõi lòng con người. Lẽ nào không chính niềm hân hoan sâu xa ấy đã khiến Blaise Pascal dâng lên cung giọng xúc động: “Vui mừng, vui mừng, vui mừng, nước mắt của hoan lạc” ? Và gần gũi với chúng ta, có biết bao văn sĩ đã biết diễn tả cách mới mẻ – chúng tôi nghĩ đến Georges Bernanos chẳng hạn – niềm vui Tin Mừng của người khiêm nhường, niềm vui đang rạng chiếu khắp nơi trên thế giới và đang cất tiếng về sự im lặng của Thiên Chúa!
73. Niềm vui luôn nảy sinh từ một cái nhìn đúng đắn về con người và về Thiên Chúa. “Khi mắt ngươi trong sáng, thì toàn thân ngươi cũng được sáng láng.” (78) Ở đây, chúng ta chạm đến chiều kích nguyên thủy và bất khả xâm phạm nơi con người: đó là ơn gọi hạnh phúc của nó, một ơn gọi luôn đi qua những kênh dẫn của tri thức và tình yêu, của chiêm niệm và hành động. Ước gì anh em đạt được sự thiện hảo nơi linh hồn người anh em mình, và đạt được sự hiện diện của Thiên Chúa vốn thật gần gũi với cõi lòng con người!
74. Vì thế, những thành viên đang xao động trong các nhóm khác nhau, hãy biết từ chối những thái quá của tinh thần phê phán có hệ thống và mang tính phá hủy! Không rời xa cái nhìn hiện thực, các cộng đoàn Kitô hữu hãy trở thành những trung tâm của lạc quan, nơi mà mọi thành viên kiên quyết cố gắng nhận ra khía cạnh tích cực nơi những con người và các biến cố. “Đức mến không vui mừng trước điều gian ác, nhưng vui trong điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả.” (79)
75. Việc đạt được cái nhìn như thế không chỉ là chuyện tâm lý mà thôi. Đó cũng là hoa trái của Thánh Linh. Chính Thánh Linh – Đấng cư ngụ trọn vẹn trong con người của Đức Giêsu – đã làm cho Người, trong đời sống dương thế, trở nên nhạy cảm với những niềm vui của đời sống thường nhật, đầy tinh tế và thuyết phục trong việc đưa tội nhân trở lại con đường của tuổi trẻ nội tâm! Chính Thánh Linh đã làm cho Đức Trinh Nữ Diễm Phúc và từng vị thánh được sống động. Chính Thánh Linh ấy hôm nay vẫn ban cho biết bao Kitô hữu niềm vui sống mỗi ngày theo ơn gọi riêng, trong bình an và hy vọng, vượt qua mọi thất bại và khổ đau.
76. Chính Thánh Thần Hiện Xuống hôm nay đang dẫn đưa rất nhiều người theo Đức Kitô bước đi trên con đường cầu nguyện, trong niềm vui của lời ca ngợi hiếu thảo, hướng đến việc phục vụ khiêm tốn và hân hoan những người bị bỏ rơi, những người ở bên lề xã hội. Bởi lẽ, niềm vui không thể tách rời khỏi sự chia sẻ. Nơi Thiên Chúa, mọi sự là niềm vui bởi vì mọi sự đều là ân ban.
77. Cái nhìn tích cực này về con người và về vạn vật – vừa là hoa trái của tinh thần con người được soi sáng, vừa là hoa trái của Thánh Linh – nơi các Kitô hữu, có một địa điểm ưu tuyển để được bồi đắp: việc cử hành Mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Giêsu. Trong cuộc thương khó, cái chết và sự phục sinh của Người, Đức Kitô tóm kết lịch sử của từng người và của toàn thể nhân loại, với gánh nặng khổ đau và tội lỗi, với năng lực hướng về hoàn bị và thánh thiện. Chính vì thế, lời cuối cùng trong Tông huấn này là một lời mời khẩn thiết gửi đến tất cả các vị hướng dẫn và linh hoạt viên của các cộng đoàn Kitô hữu: đừng ngại lặp lại không ngừng tầm quan trọng của việc các tín hữu đã lãnh Bí tích Rửa Tội cần trung thành với việc cử hành Thánh Thể Chúa Nhật, trong niềm vui. Làm sao có thể thờ ơ trước cuộc gặp gỡ này, bữa tiệc này, mà chính Đức Kitô đã chuẩn bị cho chúng ta trong tình yêu của Người? Ước chi việc tham dự cử hành ấy luôn vừa xứng đáng vừa đầy niềm hoan lạc! Chính Đức Kitô chịu đóng đinh và đã phục sinh đang hiện diện giữa các môn đệ, quy tụ họ vào trong việc canh tân sự phục sinh của Người. Đó là đỉnh cao nơi trần thế của giao ước yêu thương giữa Thiên Chúa và Dân Người: là dấu chỉ và suối nguồn của niềm vui Kitô giáo, là sự chuẩn bị cho bữa tiệc cánh chung muôn đời.
Nguyện xin Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần lôi cuốn anh em đến với bàn tiệc ấy! Và chúng tôi hết lòng chúc lành cho anh chị em.
Ban hành tại Rôma – đền thờ Thánh Phêrô, ngày 9 tháng 5 năm 1975, năm thứ mười hai triều đại Giáo hoàng của chúng tôi.
Phaolô VI
Chú thích
1. X. Pl 4,4-5; Tv 145,18.
2. X. Tông huấn Paterna cum benevolentia, A.A.S. 67 (1975), tr. 5-23.
3. 2 Cr 7,3-4.
4. X. Gl 5,22.
5. X. Rm 5,5.
6. St 1,10.12.18.21.25.31.
7. X. Thánh Tôma Aquinô, Summa Theologica, I-II, q. 31, a. 3.
8. X. Thánh Tôma Aquinô, sđd., II-II, q. 28, aa. 1.4.
9. X. Cv 20,35.
10. X. Thánh Augustinô, Tự thú, quyển I, 1: CSEL, 33, tr. 1.
11. X. Mt 16,17.
12. X. Ep 1,9-10.
13. X. St 21,1-7; Rm 4,18.
14. Ga 8,56.
15. Is 60,15; 62,3; Gl 4,27; Kh 21,1-4.
16. X. Is 40,1; 66,13.
17. X. Lc 2,10.
18. X. Lc 1,44.
19. Ga 3,29.
20. X. Lc 10,21.
21. Kinh Tạ Ơn IV; x. Dt 4,15.
22. Như trên; Lc 4,18.
23. X. Lc 13,17.
24. Lc 3,22.
25. X. Ga 16,32.
26. Ga 10,15.
27. Ga 17,10.
28. Ga 14,10.
29. Ga 14,31.
30. X. Ga 8,29; 4,34.
31. Ga 10,17.
32. Ga 17,24.
33. X. Ga 17,13.
34. Ga 17,26.
35. Lc 6,20-21.
36. X. Cv 2,23.
37. Ga 17,1.
38. Is 9,1-2.
39. “ Đêm rạng ngời làm vui thỏa lòng con” (Bài ca Exsultet, lễ Vọng Phục Sinh).
40. “ Khách trọ hiền dịu của linh hồn” . Trích Ca-tiếp-liên lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống.
41. X. Ga 14,23.
42. X. Rm 14,17; Gl 5,22.
43. X. Ga 16,20-22; 2 Cr 1,4; 7,46.
44. 1 Pr 5,3.
45. Mt 5,11-12.
46. 1 Cr 2,14.
47. Lc 1,46-48.
48. Is 61,10.
49. Thánh Inhaxiô Antiôkia, Thư gửi tín hữu Rôma, VII; trong Patres Apostolici, ed. F. S. Funk, I, Tübingen, 1901, tr. 261; x. Ga 4,10; 7,38; 14,12.
50. Thánh Lêô Cả, Bài giảng LXXXII, dịp lễ kính các thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô, VI; PL 54, 426; x. Ga 12,24.
51. Ôrigênê, Bài giảng về Tin Mừng theo thánh Luca, XV: PG 13, 1838-1839.
52. X. N. Cabasilas, De vita in Christo, VII: PG 150, 703-715.
53. Thư 175. Bản thảo tự thuật, Lisieux, 1956, tr. 52.
54. Thánh Irênê, Chống lạc giáo, V, 8, 1: PG 7, 1142.
55. Dt 12,2-3.
56. Cv 2,39.
57. X. Mc 10,14-15.
58. Gr 33,8-9.
59. Mc 1,15.
60. Mt 11,28-29.
61. Lc 15,7.
62. Ep 5,27.
63. 2 Cr 11,28.
64. X. Rm 5,5.
65. X. Ga 4,35-36.
66. Thánh Irênê, Chống lạc giáo, IV, 34, 1: PG 7, 1083.
67. Thánh Augustinô, Tự thú, quyển X, 23: CSEL, 33, tr. 252.
68. Ga 14,23.
69. X. Phaolô VI, Diễn văn khai mạc khóa họp thứ hai của Công đồng, phần 1, ngày 29 tháng 9 năm 1963: A.A.S. 55 (1963), tr. 845tt.; Thông điệp Ecclesiam Suam, A.A.S. 56 (1964), tr. 612, 614-618.
70. Gioan XXIII, Diễn văn bế mạc khóa họp thứ nhất, phần 3, ngày 8 tháng 12 năm 1962: A.A.S. 55 (1963), tr. 38tt.
71. X. Gl 4,26.
72. Tv 50,2; 48,3.
73. Thánh Lêô Cả, Bài giảng XCVI, dịp kỷ niệm nhậm chức Giáo hoàng, số 4: PL 54, 155-156.
74. X. Thánh Irênê, Chống lạc giáo, III, 3, 2: PG 7, 848-849.
75. Tv 133,1.
76. Thánh Irênê, Chống lạc giáo, I, 10, 2: PG 7, 551.
77. X. Lc 22,32.
78. Lc 11,34.
79. 1 Cr 13,6-7.
______
[1] Trên trang mạng của Vatican https://www.vatican.va/content/paul-vi/it/apost_exhortations/documents/hf_p-vi_exh_19750509_gaudete-in-domino.html người ta thấy các bản bằng tiếng Đức, Anh, Tây Ban Nha, Italia, Latinh, nhưng không hiểu tại sao không có tiếng Pháp.