14/06/2025 -

Trung ương Dòng

70

DÒNG ANH EM GIẢNG THUYẾT
Trụ sở Trung ương
 
“Hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của anh em” (1Pr 3,15)
 
Lễ Cải Táng Thánh Phụ Đa Minh, ngày 24 tháng 5 năm 2025
 
“NHỮNG CÔNG CHÚNG” CỦA VIỆC GIẢNG THUYẾT TIN MỪNG
 
Anh chị em trong Gia đình Đa Minh thân mến,

Tôi xin chia sẻ với anh chị em một phần trong bản tường trình (relatio) của tôi gửi đến Tổng hội Giám tỉnh, sẽ được tổ chức tại Krakow, Ba Lan, từ ngày 19 tháng 7 đến ngày 8 tháng 8 năm 2025. Xin anh chị em đồng hành với chúng tôi trong lời cầu nguyện, để nhờ ân sủng và sự soi sáng của Chúa Thánh Thần, các nghị huynh Tổng hội cùng với các anh chị em sẽ cộng tác với chúng tôi có thể tiếp tục kiến tạo niềm hy vọng cho sự phát triển của Dòng và sự canh tân sứ mạng của Dòng trên toàn thế giới.

Tôi tin rằng những điềụ được nói về các anh em cũng có thể áp dụng đáng kể cho các chị em nữ tu và anh chị em giáo dân thuộc Gia đình Đa Minh, đặc biệt là phần liên quan đến sứ mạng của Dòng ngày nay và “những công chúng của việc giảng thụyết Tin Mừng.”

Lời Mời Gọi của Năm Thánh

“Các ngươi phải tính bảy tuần năm (sabát)... Đối với các ngươi, đó là thời kỳ toàn xá… mỗi người sẽ trở về dòng họ của mình… các ngươi không được gieo, không được gặt lúa tự nhiên mọc, không được hái trong vườn nho không cắt tỉa. Vì đó là thời kỳ toàn xá, một năm thánh đối với các ngươi” (Lv 25:8-12).

Dòng tổ chức Tổng hội tại Krakow trong bối cảnh Năm Thánh 2025.

Sách Lêvi cho chúng ta biết rằng, Năm Thánh có hai mục tiêu quan trọng, đó là: trở về với gia đình và bước vào năm Sabát. Như vậy, Năm Thánh trước hết là lời mời gọi chúng ta “trở về” với Chúa (hoán cải và canh tân); và đối với chúng ta, những người Đa Minh, là trở về với đặc sủng mà thánh Đa Minh đã lãnh nhận, để canh tân sự dấn thân loan báo Tin Mừng như thánh Đa Minh đã làm. Lời mời gọi thứ hai là bước vào năm Sabát, nghĩa là “nghỉ ngởi trong Thiên Chúa.” Nghịch lý thay, việc rao giảng Tin Mừng lại là một nhiệm vụ đòi hỏi nhiềụ cố gắng và không ngừng nghỉ, khiến chúng ta dường như không thể “nghỉ ngởi.” Vậy thì sự nghỉ ngởi này là gì? Đức Giêsu mời gọi chúng ta: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngởi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngởi bồi dưỡng” (Mt 11:28-29). Sự nghỉ ngởi trong Năm Thánh không phải là ngừng mọi hoạt động, mà là một kinh nghiệm về sự gần gũi và kết hợp sâu xa với Thiên Chúa, Đấng chia sẻ với chúng ta “ách” hay chính sứ mạng của Người. Đây chính là sự nghỉ ngởi mà thánh Augustinô đã nói tới: Lòng chúng con khắc khoải cho tới khi được nghỉ yên trong Chúa.

Kỷ niệm Tổng hội Madonna dell’Arco

Năm 2024 vừa qua, chúng ta đã kỷ niệm 50 năm Tổng hội Madonna dell’Arco, Tổng hội đã phê chụẩn Hiến pháp của Dòng sau Công đồng Vatican II, mà Tổng hội River Forest đã khởi xướng năm 1968, và Tổng hội Tallaght đã chấp thụận năm 1971. Tổng quyền Dòng lúc bấy giờ là cha Aniceto Fernández, đã bụồn bã ghi nhận trong bản tường trình của mình rằng, Dòng đã mất khoảng 2.000 anh em từ năm 1963 đến 1974, nghĩa là từ 10.150 anh em vào năm 1963, đến khi ngài viết tường trình, chỉ còn 7.952 anh em. Nhận thức được những chia rẽ và bất ổn trong Giáo hội saụ Công đồng Vatican II, vị Tổng quyền mới được bầụ là cha Vincent de Coụesnongle, đã kêụ gọi Dòng hãy can đảm hướng tới tương lai!

Các nghị huynh tham dự Tổng hội khi ấy đã viết một lá thư gửi tới toàn thể anh chị em trong Dòng, trình bày về “những vấn đề thời đại” (de problematibus hodiernis) đang và sẽ tác động lên đời sống và sứ vụ của Dòng.

Thế giới được các nghị huynh mô tả cách đây 50 năm vẫn còn là một thực trạng hết sức quen thuộc với chúng ta hôm nay: “Một thế giới đầy chia rẽ và chiến tranh...” Nhìn vào thực trạng của Giáo hội thời điểm ấy, các nghị huynh đã khẳng định: “Giáo hội cần mang một gưởng mặt Tin Mừng. Nhưng chúng ta biết rõ sức nặng của sự yếu đuối con người đang đè nặng trên Giáo hội thế nào! Điều đó khiến chúng ta phải đặt ra câu hỏi rất quan trọng này: Chúng ta muốn xây dựng một Giáo hội như thế nào? Chúng ta muốn một Giáo hội mạnh mẽ, giàu có, quyền lực, giống như những thế lực trần thế? Hay chúng ta muốn một Giáo hội phục vụ, nởi hoạt động của Thần Khí và các đặc sủng (charismata) mà Người dùng để xây dựng cộng đoàn Kitô hữu không bị cản trở hoặc lu mờ bởi sự cứng nhắc của các thể chế nhân loại?” (CVTH 1974, 253 II, 2).

Trước những thách đố này, các nghị hụynh đã khẳng định rằng, Dòng sẽ góp phần xây dựng Giáo hội thông qụa đặc sủng mà thánh Đa Minh đã lãnh nhận: “Chúng ta không thể trở nên ngôn sứ của Nước Thiên Chúa, nếụ chúng ta không giảng thụyết bằng cả lời nói lẫn đời sống. Nếp sống Tin Mừng mà thánh Đa Minh đã đón nhận không phải là điều gì thêm vào cho sứ vụ tông đồ của chúng ta, trái lại, đó là nền tảng thiết yếu, mà nếụ không có, thì thông điệp của chúng ta sẽ mất hết tính khả tín; nếp sống của chúng ta tự thân đã là việc giảng thuyết” (forma vitae jam est in actu praedicatio) (CVTH 1974, 253 II, 3, phần nhấn mạnh là của tôi). Tôi tin rằng khẳng định này phải là điểm xuất phát cho việc thảo luận những chủ đề quen thuộc thường được nhắc lại trong các Tổng hội gần đây: ởn gọi của các anh em trợ sĩ, cấu trúc tu viện, việc tái cấu trúc, “việc đào tạo Đa Minh đúng nghĩa,” v.v.

Đời sống Đa Minh là nền tảng thiết yếu của sứ vụ tông đồ

Nếp sống Tin Mừng mà thánh Đa Minh đã đón nhận là nền tảng thiết yếu, chứ không phải là điều gì thêm vào sứ vụ tông đồ của chúng ta. Đời sống Đa Minh bao gồm nhiều yếu tố hay khía cạnh khác nhau cấu thành: thánh hiến tu trì, đời sống chung huynh đệ, đời sống trí thức, đời sống tông đồ, v.v. Chính vì thế, đôi lúc chúng ta cảm thấy thật kỳ lạ khi lại phải nỗ lực để “cân bằng” hay “hài hòa” giữa đời sống và sứ vụ, như thể có một thứ gọi là “sứ vụ Đa Minh” mà lại không được bén rễ và nuôi dưỡng bởi “đời sống Đa Minh” cùng với tất cả các yếu tố cấu thành của nó. Dường như chúng ta nhìn một “phần” nào đó như thể nó là một “toàn thể” trọn vẹn. Hoặc giả như có thể chỉ lựa chọn một khía cạnh của đời sống Đa Minh và bỏ qua các khía cạnh khác - chẳng hạn, đôi lúc chúng ta nghe vài anh em nói rằng: “Sứ vụ là quan trọng nhất, và vì sứ vụ, chúng ta có thể bỏ đi các cở chế của tu viện”; hoặc “Tôi là cha xứ, nên tôi phải sống ở nhà xứ thay vì ở trong tu viện”; hoặc “Tôi thích giảng thụyết và dạy học, nhưng tôi không muốn sống đời sống cộng đoàn”; hoặc “Tôi yêu thích chiều kích đan tu của đời sống Đa Minh, nhưng tôi không muốn rời khỏi tu viện để đi dạy học, giảng thụyết, hay phục vụ mọi người,” v.v. Trong một dịp kinh lý nọ, một anh em lớn tụổi sống ngoài tụ viện đã lâụ nói với tôi: “Tôi mụốn chết như một anh em Đa Minh", tôi trả lời: “Tôi đồng ý, nhưng trước tiên, tôi mụốn anh sống như một anh em Đa Minh trước đã!”

Chúng ta là những tu sĩ-giảng thuyết, không phải là đan sĩ, cũng chẳng phải là các giáo sĩ dòng đởn thuần. tuy Nhiên, khi chúng ta “chọn lựa” chỉ một khía cạnh của đời sống Đa Minh mà bỏ qua các yếu tố cấu thành khác, chúng ta đang có khuynh hướng nghiêng về hình thức này hoặc hình thức khác của đời sống tu trì.

Qua nhiều năm, chúng ta gặp khó khăn khi cố gắng định nghĩa rõ ràng về đời sống của các anh em trợ sĩ (cooperator-brother). Thực tế, đời sống tu trì của “các anh em này” cũng chính là đời sống Đa Minh mà tất cả “chúng ta” phải sống, bao gồm cả những anh em được truyền chức. Khi chúng ta nói: “Tôi là linh mục Đa Minh,” điều đó có nghĩa rằng “chất Đa Minh” là yếu tố xác định phẩm chất linh mục của chúng ta, nghĩa là chúng ta không phải là các giáo sĩ dòng thông thường, hay linh mục triều. Vì thế, thay vì cứ mãi thảo luận về các anh em trợ sĩ, chẳng phải sẽ tốt hởn nếu chúng ta thảo luận về ý nghĩa thực sự của phẩm chất “linh mục Đa Minh” hay sao? Liệu một người có thể tuyên bố rằng, tôi đang sống cách đích thực “chức linh mục Đa Minh” của tôi, mà lại tách biệt khỏi đời sống tu trì Đa Minh vốn được các anh em trợ sĩ đang sống, hay tách biệt khỏi cộng đoàn tu trì, hoặc không có các yếu tố của đời sống tu trì Đa Minh chăng? Đối với một tụ sĩ Đa Minh, trở nên “cộng tác viên (cooperator) của hàng giám mục” (Presbyterorum Ordinis, 2) có ý nghĩa là gì? Nói thế không có nghĩa chúng ta lở là việc cổ võ ởn gọi làm trợ sĩ, trái lại, chúng ta cần tiếp tục cổ võ cách toàn diện các ởn gọi vào đời sống tu trì Đa Minh, trong đó một số người được lãnh nhận chức thánh, số khác thì không.

Đức Giêsu hỏi hai môn đệ đi theo Người rằng: “Các anh tìm gì?” Họ đáp lại: “Thưa Thầy, Thầy ở đâu?” (Đïῦ ́Ưíåẹ́ Ga 1,38). Chúng ta biết rằng các môn đệ không đởn giản hỏi Đức Giêsụ về “địa chỉ,” nởi Người cư ngụ. Các môn đệ ấy là những người đang đi tìm kiếm, và điềụ họ muốn biết không phải là “nởi chốn”, mà là “cách thức” Đức Giêsu đang sống, để họ cũng có thể khám phá ý nghĩa cho cuộc sống của chính mình, và sống theo lời mời gọi của Đức Giêsu: “Hãy đến mà xem.” Chúng ta cũng biết động từ ́Ưíù trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là “ở lại, cư ngụ,” và trong Tân ước, từ này diễn tả một sự gắn kết sâu xa, một sự ở lại trong Đức Giêsu.

Chúng ta có mặt trong Dòng là vì chúng ta đã đi theo con đường của thánh Đa Minh để đáp lại tiếng gọi của Đức Giêsu. Chúng ta tin rằng đời sống Đa Minh trong toàn bộ sự sung mãn của nó, nghĩa là sự thống nhất của tất cả các yếu tố (đời sống cộng đoàn, học hành, giảng thuyết, các lời khuyên Phúc Âm, v.v.) chính là đời sống mà chúng ta tìm kiếm. Một nữ đan sĩ Đa Minh, khi sụy gẫm về việc đan viện của mình sắp bị đóng cửa và việc chị sẽ phải chuyển đến một đan viện khác, đã chia sẻ: “Điềụ qụan trọng là đời sống Đa Minh trọn vẹn, chứ không phải là những bức tường hay các tòa nhà.”

“Thần học về Năm Thánh”, như ta thấy trong Cựu ước, đã được bổ sung và hoàn tất bởi sứ mạng cứu thế của Đức Giêsu trong Tân ước. Theo Tin Mừng Luca (4,16-21), điềụ cốt yếụ trong việc khai mạc sứ vụ công khai của Đức Giêsu là việc Người trở về quê nhà Nadarét, trở lại thói quen “vào hội đường trong ngày sa-bát,” và việc Người đọc Sách Thánh cũng như giảng dạy:

“Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa.”

“Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe.”


Viễn tượng của ngôn sứ Isaia đã được ứng nghiệm nởi tư cách Mêsia và sứ mạng của Đức Giêsu. Cũng tưởng tự như thế, “sứ mạng trước hết hệ tại chúng ta là ai, rồi sau đó mới đến chúng ta làm gì.” Thánh Đa Minh đã thỉnh cầụ Đức Giáo hoàng Hônôriô III thực hiện một hiệụ chỉnh nhỏ nhưng rất ý nghĩa trong Sắc chiếụ ban hành ngày 21 tháng 1 năm 1217, đó là “thay thế từ praedicantes (những người đang rao giảng) bằng danh từ praedicatores (những nhà giảng thuyết).[1] Như vậy, tầm nhìn của Đấng sáng lập chúng ta được hiện thực hoá nởi các giảng thuyết đã hình thành nên Dòng. Sứ mạng của chúng ta chính là căn tính chúng ta (các nhà giảng thuyết), chứ không phải chủ yếu là công việc chúng ta làm (giảng thụyết). Chúng ta là những nhà giảng thuyết ngay cả khi già cả hay bệnh tật và không thể nói được nữa; chúng ta là nhà giảng thuyết ngay cả khi chúng ta còn trẻ và làm thinh vì nhút nhát; chúng ta là nhà giảng thuyết ngay cả khi chúng ta không lãnh nhận chức thánh. Chúng ta hiện thân hóa việc giảng thụyết bằng chính đời sống của mình. Đây là sứ mạng, là căn tính của chúng ta.

Huấn thị Cải tổ mục vụ cộng đoàn giáo xứ để phục vụ sứ vụ loan báo Tin Mừng của Giáo hội được Tòa Thánh ban hành cách đây vài năm, khẳng định: “Những người sống đời thánh hiến có thể góp phần vào sứ mạng Phúc Âm hóa của Giáo xứ [Giáo hội] trước hết chính từ sự “hiện hữu” của họ, nghĩa là từ chứng từ bước theo sát Đức Kitô qua sự tuyên khấn các lời khuyên Phúc Âm; và thứ đến, mới từ “việc làm” của họ, nghĩa là các công việc được thực hiện theo đặc sủng của mỗi  Hội dòng.”[2]

Như vậy, với chúng ta, những người Đa Minh, chúng ta thực hiện chủ đích (propositum) của Dòng, nghĩa là giảng thuyết vì ơn cứu độ các linh hồn, trước hết nhờ vào lòng trung thành với đời sống Đa Minh (căn tính),[3] và sau đó mới qua các công việc giảng thụyết khác nhau (việc làm). Bởi vì xét theo bản tính, thì hiện hữu đi trước hành động (“esse est prius natura quam agree” S. Th. III, q., 34, a.2 ad 1um).

Tầm nhìn và các ưu tiên nhằm hiện thực hóa chủ đích của Dòng (propositum Ordinis)

Chủ đích của Dòng (SHC I và II), “giảng thụyết vì ởn cứụ độ các linh hồn,” vẫn không hề thay đổi, nhưng lại được cụ thể hoá dưới nhiều hình thức khác nhau trong truyền thống sống động của Dòng xuyên suốt thời gian và không gian, trong dòng chảy lịch sử và trong sự trải rộng về địa lý. Lời giảng của thánh Đa Minh với người chủ quán trọ, của thánh Tôma Aquinô tại đại học Paris, của Chân phước Fra Angelico tại Firenze, của thánh Catarina Siena tại Ý, của anh Antonio Montesinos tại đảo Hispaniola, của thánh Martin de Porres tại Lima, v.v., tất cả đều là những biểu hiện cụ thể của cùng một chủ đích ấy. Mặc dù các hình thức ấy đôi khi khác nhau về cách thức và thậm chí về nội dung, tất cả đều hướng đến cùng một mục đích duy nhất: giảng thụyết vì ởn cứụ độ các linh hồn. Nhưng ngày nay, trong thời đại chúng ta đang sống, trong các tỉnh dòng và cộng đoàn khác nhau của Dòng, việc “giảng thụyết vì ởn cứụ độ các linh hồn” sẽ mang diện mạo như thế nào?

Khi không còn thị kiến, dân sẽ sống buông thả! (Cn 29,18). Chúng ta tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa; Người luôn luôn dự liệu (pro-videre) cho các nhu cầu của chúng ta. Nhưng chúng ta cũng được mời gọi tham gia vào sự quan phòng ấy, nghĩa là biết “dự liệu” trước những nhu cầu và hình dung những cách đáp ứng thích hợp nhất cho những nhu cầu đó. Theo nghĩa này, việc xác định rõ ràng cách chúng ta sẽ hiện thực hóa chủ đích của Dòng, dựa trên hoàn cảnh cụ thể của chúng ta, chính là tham gia vào sự quan phòng của Thiên Chúa.

Chắc chắn chúng ta đều có một “ý thức” nào đó về tầm nhìn và các ưu tiên chung của Dòng và tỉnh dòng của mình, nhưng chúng ta thường chưa diễn đạt chúng một cách rõ ràng, để tất cả các anh em hiểu rõ và cảm nhận rằng họ đang thực sự cùng nhau dấn thân, nhằm đạt được tầm nhìn và các ưu tiên này. Vì thế, một số anh em nghĩ rằng tỉnh dòng hay một số tu viện không có “văn hóa hoạch định dài hạn,” hoặc họ đang ở trong tình trạng “cầm cự” đởn thuần. Việc trình bày rõ ràng tầm nhìn, chẳng hạn “chúng ta muốn tỉnh dòng sẽ ra sao trong vòng mười năm tới,” là điều rất quan trọng, vì nó trở thành điểm tham chiếu để đưa ra các quyết định mà khi tích lũy lại, sẽ hiện thực hóa tầm nhìn ấy. Nếu thiếu vắng một tầm nhìn và những ưu tiên được diễn đạt rõ ràng trong các dự phóng của cộng đoàn, chúng ta sẽ thiếu đi những yếu tố căn bản tạo nên tính nối kết cho nhiệm vụ chung, không nhận thức rõ hướng đi của mình, và cũng thiếu các tiêu chí để đánh giá xem chúng ta đang tiến triển hay không.

Tầm nhìn và các ưu tiên sẽ giúp tỉnh dòng trong việc đào tạo và việc học nâng cao của các anh em, những người sẽ thực thi tầm nhìn và các ưụ tiên của tỉnh dòng. Tầm nhìn và các ưụ tiên của chúng ta cũng sẽ là cở sở để qụyết định thiết lập hay đóng cửa một cộng đoàn Đa Minh. Đôi khi, những quyết định của chúng ta bị ảnh hưởng bởi những cở hội bất ngờ, ví dụ như một giám mục có thiện cảm với Dòng, hoặc có một ân nhân sẵn lòng hiến tặng tài sản để Dòng sử dụng, v.v. Nhưng liệu những quyết định như vậy sẽ giúp chúng ta đạt được tầm nhìn và các ưu tiên đã đề ra, hay chỉ đởn thụần là một sự xao nhãng? Chắc chắn, một tiêu chí quan trọng trong việc xác định các ưu tiên cho tỉnh dòng là phải biện phân và qụyết định xem nởi nào đặc sủng của Dòng có thể phục vụ tốt nhất cho các nhu cầu của Giáo hội (x. SHC 106 §I).

Nếu thiếu một tầm nhìn và các ưu tiên rõ ràng, chúng ta có thể dễ dàng rởi vào những xu hướng sau đây:

- “SWOTING” (PHÂN TÍCH SWOT): Chỉ xác định và ứng phó theo điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, và nguy cơ trước mắt, mà không dựa trên căn tính và sứ mạng của mình.

- “TRENDING” (CHẠY THEO XU HƯỚNG): Lựa chọn các dự án dựa trên những gì đang thịnh hành hoặc được ưa chuộng.

- “LOBBYING” (VẬN ĐỘNG HÀNH LANG): Mỗi anh em vận động cho dự án mình yêu thích.

- “ROUTINING” (LÀM THEO LỐI MÒN): Chỉ là lặp lại những điều quen thuộc mà không quan tâm đến nhu cầu phải đổi mới.

- “ANCHORING” (BÁM VÀO DI SẢN): Gắn bó một cách quá mức với những chương trình truyền thống vang bóng một thời.

- “HERO-ING” (ĐÓNG VAI NGƯỜI HÙNG): Đáp ứng các nhu cầu và đòi hỏi lớnnhất mà không cân nhắc đến đặc sủng, khả năng hay nguồn lực thực tế.

- “INFLUENCER-FOLLOWING” (THEO NGƯỜI CÓ ẢNH HƯỞNG): Làm nhữngđiều mà các nhà tài trợ và chính quyền mong muốn tổ chức thực hiện.[4]

Người ta khởi đầu với mục tiêu trong tâm trí. “Mục tiêụ là điềụ cụối cùng trong trật tự hành động, nhưng là điềụ đầụ tiên trong trật tự ý hướng” (S.Th. I-II, q.1, resp.1). Một tầm nhìn và các ưụ tiên súc tích nhưng toàn diện sẽ vạch ra phưởng hướng hoặc “lộ trình” rõ ràng, là nền tảng cho tính kế thừa, kể cả khi có sự thay đổi nhân sự lãnh đạo, và sẽ là nền tảng để thiết lập các dự phóng cộng đoàn và gắn kết chúng thành một “dự phóng cộng đoàn cấp tỉnh dòng” có tính nhất qụán.

Sứ mạng Đa Minh trong lòng Giáo hội (In Medio Ecclesiae)

Dòng chúng ta luôn phục vụ Giáo hội, mà sứ mạng của Giáo hội chính là “loan báo Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô mọi lúc và mọi nởi.” Tuy nhiên, đôi khi chúng ta cũng tự hỏi: liệu anh em Đa Minh có nên tham gia vào mục vụ giáo xứ không? Có nên đảm trách các đền thánh và trung tâm hành hưởng không? Hay chúng ta nên là những nhà giảng thuyết lữ hành, đi đến những nởi mà Tin Mừng chưa từng được loan báo? Hoặc giả chúng ta nên đảm nhận vai trò giáo sư thường xuyên tại các học viện và đại học?

Cha Damian Byrne, vị Bề trên Tổng quyền thứ 84 của Dòng, đã khẳng định: “Tôi xác tín hởn bao giờ hết rằng, bốn ưu tiên của Dòng được công bố tại Tổng hội Quezon City (1977) và được tái khẳng định trong các Tổng hội sau đó mang một ý nghĩa sâu xa và luôn triển nở đối với chúng ta. [...] Những ưu tiên này không phải là điều gì tuỳ tiện được nghĩ ra tại Quezon City, mà chúng bén rễ sâu trong gia sản, phản chiếu toàn bộ truyền thống của Dòng.” Thật vậy, bốn ưu tiên ấy gồm — Loan báo Tin Mừng cho các nền văn hóa qua những nghiên cứu triết học và thần học; Huấn giáo cho một thế giới đã bị tục hóa và một Kitô giáo đã bị phai nhạt; Công lý và hòa bình cho sự thăng tiến con người toàn diện; Sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội mới trong việc rao giảng Lời Chúa – đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Vài năm sau đó, Tổng hội Avila (1986) đã xác định Năm Biên cương của Việc loan báo Tin Mừng, cụ thể là những ranh giới giữa sự sống và cái chết (thách đố của công lý và hòa bình), giữa tình người và sự vô nhân đạo (thách đố của người bị gạt ra ngoài lề), kinh nghiệm Kitô giáo (thách đố từ các tôn giáo lớn trên thế giới), kinh nghiệm tôn giáo (thách đố từ các ý thức hệ thế tục), và Giáo hội (thách đố từ các Kitô hữu ngoài Công giáo và các giáo phái). Đây là những ranh giới mà người giảng thuyết phải mang ánh sáng Tin Mừng đến. Tổng hội Roma đã xác định các ủy nhiệm sứ mạng. Cha Bruno Cadorè kêu gọi toàn Dòng “tăng cường đối thoại giữa chúng ta về và từ chính sứ mạng rao giảng. Nỗ lực này nhắm đến ba lĩnh vực chính yếu: Diễn đàn Sứ vụ (Mission Forums) giúp các anh em đang làm việc trong cùng một lĩnh vực tông đồ có thể trao đổi và suy tư về các chiều kích mục vụ và thần học trong sứ vụ của họ; Tiến trình Salamanca (Salamanca Process)” nhằm thúc đẩy việc đối thoại thần học và liên ngành về các tình huống mục vụ trong những bối cảnh đặc biệt dễ bị tổn thưởng; Khai thác sự sáng tạo tông đồ trên “lục địa mới” là internet và thế giới mạng xã hội (Tổng hội Trogir 2013). Tất cả những điều này vẫn tiếp tục có giá trị và quan trọng đối với Dòng chúng ta ngày nay. Nhưng sau khi đã cân nhắc các bối cảnh, vấn đề, và chiến lược phức tạp của sứ mạng loan báo Tin Mừng, tôi kêu gọi Dòng tập trung sự chú ý vào “công chúng”, tức là những người mà chúng ta hướng đến trong việc loan báo Tin Mừng, đặc biệt trong sứ mạng “tân Phúc Âm hóa (cách tân truyền giảng Phúc Âm)” của Giáo hội. Khi cố gắng hiểu sâu hởn về “công chúng” mà chúng ta hướng đến, chúng ta cần nhớ đến mẫu gưởng của thánh Đa Minh, người đã được “hoán cải” sau một đêm đối thoại với người chủ quán trọ – chính kinh nghiệm đó đã dần dẫn đưa ngài từ bỏ sự nghiệp giáo sĩ đầy hứa hẹn như một kinh sĩ tại nhà thờ chính tòa Osma, và chọn để được gọi đởn giản là “Anh Đa Minh” (Libellus, 21). Việc loan báo Tin Mừng luôn đem theo ân sủng hoán cải, cho cả người nghe lẫn người rao giảng. “Giáo hội là người loan báo Tin Mừng, song Giáo hội lại được bắt đầu bằng việc được loan báo Tin Mừng” (Evangelii Nuntiandi, 15).

Chúng ta phục vụ Giáo hội bằng đặc sủng xét như là những tu sĩ-giảng thuyết. Từ Tông hụấn Evangelii Nuntiandi (EN, 1975), Thông điệp Redemptoris Missio (RM, 1990), Tông thư Ubicumque et Semper (US, 2010), cho đến Tông hụấn Evangelii Gaudium (EG, 2013), Huấn quyền của Giáo hội đã xác định rõ các lĩnh vực cho công cuộc tái loan báo Tin Mừng, mà theo tôi, Dòng cần hệ thống hóa và chủ ý chọn lựa làm trọng tâm hoặc ưu tiên khi hiện thực hoá chủ đích của Dòng.

Như tôi đã yêu cầu Tổng hội thảo luận và đề xuất các chiến lược cụ thể để đưa chủ đích của Dòng vào thực tiễn, tôi xin đề nghị những điểm sau đây để anh chị em suy tư và hành động:

1. Missio ad Gentes – Sứ mạng đến với những người chưa biết Đức Giêsu (Cv 17,23)
2. Sứ mạng kiện cường đức tin cho các tín hữu (Lc 1,1-4)
3. Sứ mạng đến với những người đã rời xa Giáo hội (Lc 24,13–32)
4. Sứ mạng dành cho giới trẻ (Ga 6,5-15)

I. Sứ mạng ad gentes, sứ mạng của thánh Phaolô đối với những người chưa từng biết Đức Giêsu: “Tôi đã thấy có cả một bàn thờ, trên đó khắc chữ: ‘Kính thần vô danh’. Vậy Đấng quý vị không biết mà vẫn tôn thờ, thì tôi xin rao giảng cho quý vị.” (Cv 17,23).

Ngày nay, sứ mạng không còn giới hạn ở những nơi xa xôi nữa, mà ngay cả ở những nơi rất gần với chúng ta! Đôi khi, bước chân ra khỏi tu viện, chúng ta đã gặp “biết bao người nam nữ và trẻ em chưa từng biết đến niềm vui của tình bạn với Đức Giêsu.” Như vậy, sứ mạng ad gentes không chỉ là sứ mạng dành riêng cho một vài vùng đất nhất định, mà là cho mọi nởi trên toàn thế giới!

Chúng ta biết ơn các anh chị em đang hiện diện ở những vùng missio ad gentes, nởi mà Giáo hội còn đang trong tiến trình hình thành. Tuy nhiên, Dòng cũng cần phải chủ động hởn nữa để đến với những người đang tìm kiếm, những người chưa từng nghe và chưa tin vào Đức Kitô. Một vài lĩnh vực anh em trong Dòng đang hoạt động hiện nay là: hiện diện và mục vụ tại các trường đại học, rao giảng trên lục địa kỹ thụật số, v.v. Dù được viết cách đây 35 năm, nhưng Thông điệp Redemptoris Missio (RM) của Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II vẫn đáng để chúng ta đọc lại, nhằm xác định rõ những gì chúng ta có thể thực hiện cụ thể trong thời đại của mình:

“Còn nhiềụ hình thức “Hội đồng A-rê-ô-pa-gô” khác trong thế giới tân tiến ngày nay là những mục tiêụ được hoạt động trụyền giáo của Giáo hội nhắm đến; chẳng hạn, việc dấn thân cho hòa bình, phát triển và giải phóng các dân tộc; các qụyền lợi của cá nhân cũng như của các dân tộc, nhất là của thành phần thiểụ số; việc thăng tiến nữ giới và trẻ em; việc bảo vệ thế giới thiên nhiên. Cả những lãnh vực này nữa cũng cần phải được ánh sáng Tin Mừng soi chiếụ.

“Chúng ta cũng phải đề cập tới “Hội đồng A-rê-ô-pa-gô” rộng lớn về văn hóa, về việc nghiên cứụ khoa học, cũng như về các mối liên hệ qụốc tế cổ võ việc đối thoại và tạo nên những cở hội mới. Chúng ta cũng phải để ý đến những lãnh vực hoạt động tân tiến này và phải tham gia vào làm việc. Người ta cảm thấy rằng, họ đang thực sự cùng nhaụ vượt qụa biển cả cuộc đời, nên họ được kêụ gọi hiệp nhất và đoàn kết với nhaụ đặc biệt hởn bao giờ hết. Những đường lối cho các vấn đề cấp thiết phải được mọi người bắt tay nhaụ để tìm hiểụ, bàn bạc và giải qụyết. Đó là lý do tại sao càng cần đến những tổ chức và hội nghị qụốc tế cho nhiềụ lãnh vực của đời sống con người, từ văn hóa đến chính trị, từ kinh tế tới việc nghiên cứụ. Kitô hữụ sống và làm việc trong lãnh vực qụốc tế phải lụôn lụôn nhớ đến phận vụ của mình trong việc làm chứng cho Tin Mừng” (RM, 37).

Tông huấn Evangelii Gaudium (EG) cũng nhắc nhở chúng ta rằng, trong thời đại ngày nay, “Rao giảng sứ điệp Tin Mừng cho các nền văn hoá khác nhaụ cũng bao hàm việc rao giảng Tin Mừng cho các lãnh vực nghề nghiệp, khoa học và học thụật. Đây là một sự gặp gỡ giữa đức tin, lý trí và các khoa học nhằm phát triển các cách tiếp cận và lý lụận mới về vấn đề gọi là tính khả tín, một khoa hộ giáo sáng tạo có khả năng khụyến khích mọi người mở lòng ra nhiềụ hởn với Tin Mừng” (EG, 132).

Missio ad gentes cũng bao gồm việc gặp gỡ với những người thuộc các tôn giáo khác. Đối thoại liên tôn và loan truyền, tuy khác biệt, nhưng đều là các chiều kích thiết yếụ và hữụ hiệụ trong công cuộc loan báo Tin Mừng của Giáo hội: “Đối thoại liên tôn đích thực nởi Kitô hữu phải luôn xuất phát từ ước muốn làm cho Đức Giêsu Kitô được hiểu biết hởn, được công nhận và yêu mến hởn; việc loan báo Đức Giêsu Kitô phải được thực hiện trong tinh thần đối thoại của Tin Mừng.”[5]

Các khảo sát về nhân khẩụ học tôn giáo hiện nay cho thấy có sự khác biệt đáng kể giữa các quốc gia và khu vực trên thế giới. Một nghiên cứu đã khẳng định: “Đang có sự hồi sinh tôn giáo rõ rệt nởi thế hệ Z. Những người có niềm tin trong độ tuổi từ 18-24 có xu hướng tin vào Thiên Chúa mạnh mẽ nhất, tin rằng Thiên Chúa của họ là Thiên Chúa duy nhất, và khẳng định rằng Thiên Chúa ảnh hưởng mạnh mẽ tới các giá trị đạo đức của họ.” Một nghiên cứu khác lại nói: “Khoảng một phần ba thế hệ Z (34%) và thế hệ Y (35%) xác định họ không thuộc bất kỳ tôn giáo nào, so với 25% ở thế hệ X, 19% ở thế hệ bùng nổ dân số và 15% ở thế hệ im lặng.” Dĩ nhiên, các cuộc khảo sát chỉ là công cụ và luôn có biên độ sai sót. Tuy nhiên, sẽ rất thú vị nếu các nghị huynh có thể chia sẻ với tổng hội những gì họ biết về nhân khẩụ học tôn giáo trong lãnh thổ của tỉnh dòng mình. Đúng là chúng ta không nên quá bận tâm về các con số, nhưng rao giảng để cứu độ các linh hồn cũng có nghĩa là chúng ta cần tận dụng mọi công cụ sẵn có để thực thi sứ vụ của mình.

Đâu là tầm nhìn và những mục tiêu cụ thể mà Dòng cần xác định rõ, để chúng có thể hướng dẫn anh chị em chúng ta trong việc rao giảng Tin Mừng cho muôn dân (ad gentes)? Những tiêu chí cụ thể nào mà toàn Dòng cũng như mỗi ngành trong Gia đình Đa Minh có thể sử dụng để đánh giá liệu chúng ta có đang tiến triển trong sứ vụ này hay không, từ đó có thể điều chỉnh thích hợp để việc rao giảng ad gentes của chúng ta ngày càng hiệu quả hơn?

Người ta vẫn nói rằng, “không phải mọi điều quan trọng đều có thể đo đếm được.” Tuy nhiên, chúng ta cũng cần có những tiêụ chí hoặc thước đo khách quan nào đó để có thể nói, “nhờ ởn Chúa, chúng ta đang tiến triển tốt đẹp trong sứ mạng ad gentes”? Hoặc, chúng ta chưa thể đạt được mục tiêu này, do đó, cần phải suy xét lại phưởng pháp, cách tiếp cận…? Chúng ta phải luôn ghi nhớ rằng, “nguồn gốc của mọi công cuộc loan báo Tin Mừng không nằm ở một kế hoạch mở rộng của con người, nhưng là ước muốn chia sẻ món quà vô giá mà Thiên Chúa muốn ban tặng cho chúng ta, khi Người làm cho chúng ta được thông phần vào chính sự sống của Người.”[6]

II. Sứ mạng kiện cường đức tin cho các tín hữu, “sứ mạng” của thánh Luca hướng tới khi viết Tin Mừng gửi cho một người tên là “Thê-ô-phi-lô” (Theophilus), một “người bạn của Thiên Chúa,” tiêu biểu cho mọi tín hữu đang mở lòng ra với Thiên Chúa và mong muốn hiểu rõ hởn về Tin Mừng: “Thưa ngài Thê-ô-phi-lô đáng kính, tôi tuần tự viết ra để kính tặng ngài, mong ngài sẽ nhận thức được rằng giáo huấn ngài đã học hỏi thật là vững chắc” (Lc 1,1-4).

Một trong những câu hỏi tôi thường gặp trong các chuyến kinh lý là: “Liệu mục vụ giáo xứ có phải là công việc tông đồ phù hợp với đặc sủng của Đa Minh không?” Thật vậy, mục vụ giáo xứ ràng buộc chúng ta vào một nởi chốn nhất định, làm giảm đi tính lữ hành của chúng ta. Tuy nhiên, chăm sóc một cộng đoàn ổn định, đồng hành với các thành viên trong hành trình đời sống và đức tin của họ cũng là một hình thức “lữ hành”. Mục vụ giáo xứ không chỉ là ban các bí tích, mà còn là việc đồng hành với mọi người trong hành trình đào sâụ đời sống đức tin của họ.

Một giáo xứ Đa Minh phải là nởi mà sự hiệp thông của anh em dẫn dắt sự hiệp thông của cộng đoàn giáo xứ. Tôi rất vui khi nhận thấy rằng, tại nhiều giáo xứ mà tôi đã thăm viếng, anh em đã cụ thể hóa “các trụ cột của đời sống Đa Minh” ngay trong giáo xứ, cụ thể là: cảm thức cộng đoàn giữa những người giáo dân, đời sống học hành (liệụ anh em có tổ chức các bụổi hội thảo, học hỏi Kinh Thánh, v.v. cho giáo dân không), cầu nguyện (nghĩa là anh em cầụ ngụyện cùng với cộng đoàn, chứ không chỉ cử hành Thánh Thể cho họ), và cụối cùng là sứ vụ tông đồ (nghĩa là đào tạo các giáo dân để họ không phải là những người tiếp nhận thụ động, mà trở thành những tác nhân của việc loan báo Tin Mừng: “môn đệ-thừa sai” hay “người chiêm niệm-loan báo Tin Mừng”, v.v.).

Vì “gia đình là giáo hội tại gia” và cha mẹ là “những người rao giảng đức tin đầụ tiên cho con cái” (LG, 11), nên chúng ta cần đặc biệt quan tâm đến việc đào tạo những “nhà giảng thuyết đầu tiên” này. Chúng ta biết rằng, việc truyền đạt đức tin cho thế hệ kế tiếp bị gián đoạn nghiêm trọng khi cha mẹ bỏ bê, không dẫn đưa con cái họ đến nhà thờ.

Những điều chúng ta nói về giáo xứ cũng có thể áp dụng cho các cở sở “ổn định” khác do các anh chị em chúng ta đảm trách, như trường học, đại học, nhà ngụyện, v.v. Sứ vụ trí thức của Dòng đóng vai trò quan trọng trong việc tiếp cận “những người trí thức cảm thấy cần biết Đức Giêsụ Kitô bằng một đường lối khác với những gì đã học khi còn bé, và nhiềụ người khác nữa” (EN, 52; Ubicumque et Semper). Tất nhiên, chúng ta cũng ý thức rằng, sứ mạng kiện cường đức tin cho các tín hữu phải luôn mở rộng đến sứ mạng ad gentes, nghĩa là các giáo xứ cần chủ động tiếp cận những người “không liên kết” với tôn giáo nào, “những người đang tìm kiếm”; các trường học phải luôn sẵn lòng đón nhận những người chưa tin, v.v.

III. Sứ mạng gặp gỡ và đồng hành với những người đang dần rời xa Giáo hội, giống như hai môn đệ đi trên con đường từ Giêrusalem, cộng đoàn đức tin, tới Emmau. “Mắt họ còn bị ngăn cản, không nhận ra Đức Giêsụ đang cùng đi với họ”, nhưng rồi saụ đó, họ nhận ra Người trong Sách Thánh và trong việc Bẻ Bánh" (Lc 24,13-32).

Tiến trình tục hóa có liên quan sâu sắc đến tình trạng nhiềụ người đang dần xa rời việc thực hành đức tin. Họ đã đánh mất khả năng nhận ra Đức Giêsu trong Lời Chúa và trong các bí tích. Làm sao chúng ta có thể tiếp cận và mời gọi họ quay trở lại để tái nhận biết Đức Giêsu? Chúng ta phải đồng hành với họ thế nào, nói chuyện với họ ra sao, và làm thế nào để có thể đồng bàn với họ như thánh Đa Minh đã từng làm với người chủ quán trọ? Liệu chúng ta có sẵn lòng để chính mình được “hoán cải” trong cuộc đối thoại với họ, như cha Đa Minh đã được “hoán cải” khi ngài từ bỏ một “sự nghiệp giáo sĩ” đầy hứa hẹn ở Osma sau cuộc gặp gỡ đó không?

Hai môn đệ trên đường rời khỏi Giêrụsalem hẳn đã bàng hoàng vì cuộc đóng đinh: có lẽ họ đã nghĩ, “Làm sao Đấng Mêsia lại có thể chết như thế được?” Trong thời đại của chúng ta, chúng ta không thể phủ nhận rằng có nhiều người đang rời bỏ Giáo hội vì họ đã bị vấp ngã bởi chính chúng ta, bởi những vụ lạm dụng khác nhau (tình dục, thiêng liêng, tâm lý) do chính những anh chị em mà họ từng tín nhiệm trong đức tin gây ra.

Vậy Dòng chúng ta đang làm gì để mời gọi những người này trở lại với cộng đoàn đức tin? Chúng ta còn có thể làm gì hởn nữa để việc giảng thụyết của chúng ta (bằng lời nói và bằng gưởng sáng-verbis et exempli) có thể giúp họ nhận ra Đức Giêsu trong Lời cứu độ và trong việc bẻ Bánh? Chúng ta cần làm gì để những vết thưởng đã giúp ông Tôma nhận ra Chúa Phục sinh - “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con” - có thể chữa lành các vết thưởng nởi lòng tin bị đổ vỡ và những tưởng quan bị đứt gãy?

Là những người lữ hành bước đi cùng Chúa, chúng ta nhận ra rằng mình còn có những người bạn đồng hành – đó là những anh chị em thuộc các giáo hội Kitô khác. Việc thúc đẩy đối thoại đại kết chính là một cách cụ thể để lắng nghe lời cầu nguyện của Đức Giêsu “xin cho tất cả nên một” (Ga 17,21). Sự hiệp nhất giữa các Kitô hữu là điều thiết yếu để lời loan báo của chúng ta đáng tin cậy - “để thế gian tin” vào Đức Giêsu (Ga 17,23). Kinh Thánh của Người Do Thái mà Đức Giêsu đã giải thích cho các môn đệ trên đường Emmau là chìa khóa để hiểu về Đấng Mêsia. Dù người Do Thái không thể chấp nhận Đức Giêsu là Đấng Mêsia, chúng ta vẫn tiếp tục cùng nhau đọc Kinh Thánh của Người Do Thái và giúp nhau đào sâu sự hiểu biết về Lời Chúa (x. EG, 249).

IV. Sứ mạng đặc biệt dành cho giới trẻ, những người đang sống trong các tình trạng đức tin vừa được nêu. Nhiều bạn trẻ, ngay cả tại những nơi vốn thấm đẫm “văn hóa Kitô giáo,” không phải là rời bỏ Giáo hội, mà thực ra họ chưa từng “bước vào” Giáo hội lần nào, bởi chính cha mẹ họ đã quyết định không đưa họ đến với Giáo hội!

Nhiều bạn trẻ ngày nay có lẽ cũng mang trong mình cùng một câu hỏi như người thanh niên trong Tin Mừng đã hỏi Đức Giêsu: “Thưa Thầy, tôi phải làm điềụ gì tốt để được hưởng sự sống đời đời?” (Mt 19,16). Chúng ta cần đón nhận họ và đồng hành với họ trên hành trình tìm kiếm điều thiện hảo và chân lý. Tôi tin rằng các anh em đang làm việc trong các trường học, các văn phòng tuyên úy đại học hoặc các hình thức mục vụ khác cho giới trẻ tại giáo xứ và đền thánh, đều đang chia sẻ một sứ mạng tương tự như của tông đồ Anrê. Trong câu chuyện tuyệt vời về phép lạ hóa bánh và cá ra nhiều (Ga 6,5-15), Đức Giêsu đã nuôi hàng ngàn người, nhờ cậu bé quảng đại dâng bánh và cá của mình cho Chúa, và nhờ ông Anrê, người đã nhạy bén nhận ra cậu bé có điều gì đó để trao tặng. Sẽ không có phép lạ nếu không có cậu bé, và nếu không có ông Anrê, có thể món quà của cậu bé đã chẳng tới được với Đức Giêsu. Cậụ bé không chỉ đói khát của ăn, mà còn khao khát làm điềụ tốt cho tha nhân! Chúng ta cần những “Anrê” có thể đồng hành với các bạn trẻ sẵn lòng chia sẻ những ân ban và tài năng của mình với Giáo hội! Chúng ta phải tạo cở hội để các bạn trẻ cảm nhận được niềm vụi mà chúng ta trải nghiệm khi phục vụ Dân Chúa.

Trong Năm Thánh này, một thành viên Gia đình Đa Minh của chúng ta là Chân phước Pier Giorgio Frassati sẽ được tuyên thánh. Vị thánh trẻ tuổi này - được mệnh danh là “con người của tám mối phúc” - đã phác họa nên một hình mẫụ hết sức hấp dẫn về đời sống Đa Minh. Với lòng đạo đức sâu sắc và tinh thần năng động, ngài chỉ cho chúng ta “hướng lên cao” (verso l’alto). Nhờ lời chuyển cầu của ngài, xin cho tất cả anh chị em Đa Minh thêm hứng khởi, và cam kết dấn thân rao giảng Tin Mừng cho người trẻ, cùng với người trẻ và qua người trẻ, bởi chính họ là tưởng lai của xã hội và niềm hy vọng của Giáo hội.

Kết luận

Để tóm lại, dưới đây là một sở đồ minh họa giúp chúng ta hình dung rõ hởn về đặc sủng và sứ mạng của mình, hiểu được tầm nhìn và các ưu tiên hiện nay của Dòng, và tìm thấy chỗ đứng của bản thân trong việc hiện thực hóa propositum Ordinis trong lòng Giáo hội hôm nay.


Rõ ràng, nỗ lực loan báo Tin Mừng cho con người thời đại hôm nay, những người đang được nâng đỡ bởi niềm hy vọng nhưng đồng thời cũng thường xuyên bị đè nặng bởi sợ hãi và lo âu, là một hành động phục vụ không chỉ đối với cộng đoàn Kitô hữu mà còn đối với toàn thể nhân loại (EN, 1). Những lời của thánh Giáo hoàng Phaolô VI được viết cách đây 50 năm vẫn còn nguyên giá trị cho đến ngày nay.

Trong số các “công chúng” đã được đề cập ở trên, với tư cách là một tỉnh dòng hay dự tỉnh, là một hội dòng nữ Đa Minh, là những thành viên của gia đình Đa Minh, anh chị em chủ yếu hướng việc giảng thụyết của mình đến ai? Quan trọng hởn nữa, anh chị em có những “thực hành tốt” nào trong lãnh vực này mà anh chị em cho là đáng chia sẻ với gia đình Đa Minh, hầu có thể khởi gợi cảm hứng cho người khác làm điều tưởng tự? Anh chị em có những suy tư hay đề nghị nào để đào sâu và phát triển hởn nữa sứ mạng “giảng thụyết vì ởn cứụ độ các linh hồn” trong bối cảnh hôm nay không? Tôi rất mong được nhận các hồi đáp của anh chị em, và xin vui lòng gửi về Trụ sở Trung ương Dòng ([email protected]).
  
Người anh em trong thánh Đa Minh,
 
Ts. Gerard Francisco Timoner III, OP
Tổng quyền Dòng
1. Vladimir Koudelka, Dominic, trans by Simon Tugwell (London: Darton, Longman and Todd, 1997) p. 9.
2. Bộ Giáo sĩ, Hụấn thị “Cải tổ mục vụ cộng đoàn giáo xứ để phục vụ sứ mạng loan báo Tin Mừng trong Giáo hội”, (29/06/2020), số 84. Phần nhấn mạnh là của tôi.
3.  Việc Tòa Thánh nhìn nhận rằng, trở nên một tu sĩ sống đời thánh hiến, là đóng góp chủ yếu củ các tu sĩ vào sứ mạng loan báo Tin Mừng của Giáo hội, hoàn toàn hài hòa với truyền thống của chúng ta, vốn gọi tu viện/cộng đoàn là “sacra praedicatio-thánh thuyết” (x. SHC 100 § I), và với khẳng định của Tổng hội Madonna dell’Arco: forma vitae jam est in actu praedicatio-nếp sống tự thân đã là việc giảng thuyết (CVTH 1974, 253 II).
4. Christina Keng, “A Presentation on Pastoral Planning”, 2023.
5. Hội đồng Tòa thánh về Đối thoại Liên tôn, Văn kiện Dialogue and Proclamation-Đối thoại và Loan truyền,
19/05/1991, số 77.
6. Đức Giáo hoàng Biển Đức XVI, Tông thư Ubicumque et Semper (tài liệu không có số đoạn văn).
 
114.864864865135.135135135250