26/05/2025 -

Thần học

976
Kinh Tin Kính Ni-xê-a không chỉ là danh sách các tiên đề chân lý đòi hỏi sự đồng thuận về mặt tri thức. Đó là lời mời gọi chúng ta bước vào những mầu nhiệm mà nó diễn đạt bằng toàn bộ hữu thể của mình.


 
Tiến sĩ Jared Ortiz, The Catholic World Report, ngày 19 tháng 5 năm 2025
 
Kinh Tin Kính Ni-xê-a mời gọi chúng ta chết đi. Thật vậy, nó đòi hỏi điều đó. Điều này có lẽ nghe có vẻ khá bi kịch, đặc biệt là đối với những người trong chúng ta đọc Kinh Tin Kính mỗi tuần mà không quan tâm nhiều đến điều đó.
Những người đọc trang web này có thể biết được phác thảo về cách ra đời của Kinh Tin Kính Ni-xê-a. Vào đầu những năm 300, một linh mục tên là Arius đã lập luận rằng Chúa Con là sáng tạo đầu tiên và cao nhất của Chúa Cha chứ không phải là một Thiên Chúa như Chúa Cha. Để đáp lại, Công đồng Ni-xê-a (325) đã mở rộng điều thứ hai của kinh tin kính để bảo vệ toàn bộ thiên tính của Chúa Con. Ở thế hệ tiếp theo, nhiều người thừa nhận thiên tính của Chúa Con không thể chấp nhận thiên tính của Chúa Thánh Thần. Để đáp lại, Công đồng Constantinople (381) lập luận rằng nếu chúng ta tôn thờ và thờ phượng Chúa Thánh Thần cùng với Chúa Cha và Chúa Con, thì Chúa Thánh Thần cũng phải là Thiên Chúa.

Tất cả đều tốt và thú vị, nhưng tất cả những điều này có liên quan gì đến cái chết?

Tôi muốn đề xuất rằng Kinh Tin Kính luôn gắn liền chặt chẽ với các hình thức chết của Kitô giáo: phép rửa tội, tử đạo, Thánh Thể và khổ hạnh. Kinh Tin Kính mời gọi chúng ta chết đi, và những ai chấp nhận lời mời này sẽ thấy rõ hơn chân lý của nó và hơn nữa, được hứa rằng bằng cách mất mạng sống của mình, họ sẽ tìm thấy điều gì đó thậm chí còn tốt đẹp hơn trong “cuộc sống của thế giới mai hậu”.
 
Cái chết và sự biến đổi của cái chết

 
Sự chết là sáng tạo tinh tế nhất của ma quỷ. Nó là kẻ thù lớn được tạo ra để giữ chúng ta xa cách Chúa. Sự chết là “kẻ thù cuối cùng bị hủy diệt” (1 Cr 15, 26).

Đức Kitô biết rằng cái chết không thể tránh khỏi, nhưng phải chiến thắng nó. Đức Kitô đã chiến thắng cái chết không phải bằng cách loại bỏ nó, mà bằng cách bước qua và biến đổi nó từ trong ra ngoài. Khi chết đi, Đức Kitô đã đối đầu với ma quỷ trên chính lãnh địa của nó. Sự sống đi vào cái chết, nhưng cái chết không thể dập tắt nó. Ánh sáng chiếu rọi trong bóng tối, nhưng bóng tối đã không chế ngự được ánh sáng (Ga 1, 5).

Đức Kitô không tránh khỏi cái chết, và Người cũng không đến để giúp chúng ta tránh khỏi nó. Thay vào đó, Người nói với chúng ta một cách khá rõ ràng rằng chúng ta phải vác thập giá của mình và theo Người (Mt 16, 24). Thập giá dẫn đến cái chết, nhưng bây giờ cái chết này dẫn đến sự sống thực sự.

Nội dung của Kinh Tin Kính Ni-xê-a dạy chúng ta về điều này, và về bản chất và quyền năng của “Chúa Cha toàn năng”, Đấng, vì đã tạo dựng nên muôn vật, nên có quyền năng cứu rỗi những gì Người đã tạo dựng. Chúa Cha này đã sai Con Thiên Chúa đích thực của mình đến để trở thành một con người thực sự có khả năng chết đi để cứu rỗi chúng ta. Kinh Tin Kính dạy chúng ta về sự phục sinh của Đức Kitô (sự chiến thắng cái chết của Người) và niềm hy vọng của chúng ta về điều đó. Kinh này dạy về Chúa Thánh Thần, “Thiên Chúa, Đấng ban sự sống”, Đấng, cùng với Chúa Cha và Chúa Con, có quyền năng chiến thắng trên sự chết.
 
Bí tích rửa tội, sự tử đạo và Thánh Thể
 
Để chiến thắng sự chết, chúng ta phải bước vào sự chết với Chúa Kitô. Đối với hầu hết chúng ta, điều này đến thông qua “một phép rửa để tha tội”. Phép rửa đưa chúng ta vào nhiệm thể của Chúa Kitô và khiến chúng ta chia sẻ sự chết của Chúa Kitô. “Anh em không biết rằng tất cả chúng ta đã chịu phép rửa trong Chúa Giêsu Kitô, tức là chịu phép rửa trong sự chết của Người sao” (Rm 6, 3)? Để được rửa tội, chúng ta phải tuyên xưng đức tin Ki-tô giáo, thường dưới hình thức một tín biểu. Tín biểu Ni-xê-a dựa trên một tín biểu của bí tích rửa tội trước đó, đóng vai trò là cánh cổng dẫn đến nguồn nước cứu độ của bí tích rửa tội.

Bí tích rửa tội đã mang đến sự đồng nhất triệt để với Chúa Kitô. “Tôi đã bị đóng đinh vào thập giá với Chúa Kitô. Không còn là tôi sống nữa, nhưng là Chúa Kitô sống trong tôi. Và cuộc sống mà tôi hiện đang sống trong xác thịt, tôi sống trong đức tin vào Con Thiên Chúa” (Gl 2, 20). Do đó, ngay từ thời kỳ đầu, phép rửa tội đã được hiểu là sự chuẩn bị cho - thực ra, là lời cam kết - sống trọn vẹn cuộc sống của Chúa Kitô. Nghĩa là, phép rửa tội là lời kêu gọi tử đạo.

Lời tuyên xưng đức tin và sự tử đạo song hành với nhau. Trong những thế kỷ đầu của Kitô giáo, tuyên xưng điều thứ hai của Kinh Tin Kính, “Tôi tin kính một Chúa, là Đức Giê-su Ki-tô,” là tự rước lấy cái chết bằng cách hành quyết. Tuyên xưng điều này là tuyên bố với mọi quyền lực thế gian rằng chỉ có một Chúa, là Chúa trên hết mọi chúa khác và là Đấng ra lệnh cho lòng trung thành chính yếu của chúng ta. Đây là một sự thật mà các vị tử đạo (tiếng Hy Lạp có nghĩa là “nhân chứng”) đã thấy và sẵn sàng làm chứng bằng máu của họ.

Nhưng những người tử đạo tương lai biết điều Chúa Kitô biết: cái chết không phải là kết thúc. Cùng với Phaolô, họ nói, “Vì đối với tôi, sống là Chúa Kitô, và chết là một mối lợi” (Pl 1, 21).

Vào thế kỷ thứ bảy, Kinh Tin Kính Ni-xê-a đã được đưa vào phụng vụ Chúa Nhật, một sự phát triển một lần nữa làm nổi bật mối liên hệ của Kinh Tin Kính với cái chết ban sự sống. Bí tích Thánh Thể là sự tái hiện cái chết cứu độ của Chúa Kitô, gắn liền không thể tách rời với sự phục sinh của Người. Trong Thánh lễ, Kinh Tin Kính được tuyên xưng vào cuối phụng vụ Lời Chúa. Tương tự như vị trí của nó trong phụng vụ bí tích rửa tội, Kinh Tin Kính có chức năng như một cánh cửa dẫn đến bí tích. Việc tuyên xưng đức tin đúng đắn của chúng ta giúp chúng ta tiếp cận với sự hiệp thông với cái chết và sự sống của Chúa Kitô trong Bí tích Thánh Thể.

Chúng ta tuyên xưng Kinh Tin Kính công khai mỗi tuần. Điều này có vẻ đặc biệt quan trọng ngày nay. Vào thời điểm mà nhiều người sợ cam kết và thoải mái nói về “sự thật của tôi” hơn là sự thật, thì lời tuyên xưng công khai và cộng đoàn về Kinh Tin Kính Ni-xê-a cam kết chúng ta với một sự thật không phải do chính chúng ta tạo ra. Mỗi tuần, chúng ta tuyên xưng trước và cùng với những người khác rằng có một sự thật siêu việt. Về mặt phụng vụ, lời tuyên xưng công khai của chúng ta về Kinh Tin Kính Ni-xê-a là sự chuẩn bị hàng tuần của chúng ta cho sự tử đạo: “Đây là điều tôi tin là sự thật và tôi sẵn sàng hy sinh mạng sống mình vì điều đó”.
 
Chính thống và khổ hạnh
 
Sự phát triển của Kinh Tin Kính là một phần của thế kỷ thứ tư vĩ đại của “Thời đại hoàng kim” trong nền văn chương của các Giáo phụ, bao gồm những nhân vật sáng giá như Hilariô, Ambrôsiô, Giêrônimô và Augustinô ở phương Tây và Athanasiô, Basiliô, Grêgôriô Nazianze và Grêgôriô Nyssa ở phương Đông (chỉ kể tên một vài người!). Điều thú vị là, cùng lúc những nhà thần học vĩ đại này đang cẩn thận trình bày đạo lý về Chúa Ba Ngôi ở cấp độ cao nhất, thì những Kitô hữu bình dân trên thế giới lại tự phát hướng về sa mạc để sống như những vị ẩn sĩ.

Phong trào đan tu này bao gồm những người vĩ đại như thánh An-tôn, Pa-cô và thánh Martin thành Tours, nhưng cũng bao gồm những nhà thần học vĩ đại được nêu tên ở trên. Giêrônimô, Augustinô và Basiliô sống như những đan sĩ và thậm chí viết các tu luật ; Hilariô, Ambrôsiô, Athanasiô và Grêgôriô là những nhà khổ hạnh tận tụy đã loan truyền các lý tưởng của đời sống đan tu. Thật vậy, chính Athanasiô đã đưa ra cho chúng ta thuật ngữ Ni-xê-a “đồng bản thể (homoousios) với Chúa Cha” cũng đã cho chúng ta tác phẩm Cuộc đời của thánh An-tôn, hơn bất kỳ điều gì khác, đã phổ biến viễn tượng của đời sống đan tu về sự thánh thiện.

Điều này tạo ra một mối liên hệ lịch sử hấp dẫn khác giữa Kinh Tin Kính và sự chết: cùng lúc với sự hình thành tính chính thống của Ki-tô giáo, một số lượng lớn Ki-tô hữu đang chết vì thế gian để sống cuộc đời khổ hạnh triệt để. Các công đồng lớn và phong trào khổ hạnh vào thế kỷ thứ tư là hai cách bổ sung mà các Ki-tô hữu đã cố gắng tìm ra ý nghĩa của Thiên Chúa.

Chúng ta có thể nói rằng các công đồng đã xây dựng đạo lý về Chúa Kitô và Chúa Thánh Thần, trong khi các đan sĩ thiết lập sự thực hành. Các công đồng cho chúng ta biết điều gì cần tin; các đan sĩ chỉ cho chúng ta cách tin. Các công đồng cho chúng ta biết cách đúng đắn để biết Chúa; các đan sĩ chỉ cho chúng ta cách đúng đắn để yêu mến Chúa. Trong Kinh Tin Kính, các công đồng cung cấp một bản đồ cho chúng ta biết cách không bị lạc lối trong hành trình tìm kiếm Chúa. Trong cuộc sống khổ hạnh, các đan sĩ đi trên những con đường và khám phá địa hình của Chúa.

Kinh Tin kính và sự chết, đạo lý và sự thánh thiện, chính thống và khổ hạnh đều đi đôi với nhau. Kinh thánh dạy chúng ta rằng “không ai có thể thấy Thiên Chúa mà còn sống” (Xh 33, 20). Vì vậy, để thấy Thiên Chúa, chúng ta phải chết. Để thấy Thiên Chúa trong cuộc sống này, chúng ta phải chết đối với thế gian và chết đối với chính mình, điều đó có nghĩa là cần phải có một loại khổ hạnh triệt để nào đó.

Điều này có vẻ trái ngược với trực giác. Kinh Tin Kính không dạy chúng ta rằng Thiên Chúa là đấng sáng tạo ra mọi vật sao? Nếu vậy, thì chúng ta không nên tận hưởng và cảm tạ những ân sủng của Chúa thay vì nhấn mạnh đến cái chết của thế gian mà Người đã tạo ra sao? Trong cuốn sách nhỏ sâu sắc của mình, The Meaning of Monasticism (Ý nghĩa của đời sống đan tu) (1950), Louis Bouyer giải thích tại sao cái chết khổ hạnh là cần thiết để tìm thấy Chúa:
Nguyên nhân nằm ở tội lỗi. Tội lỗi đã làm hỏng mối quan hệ của chúng ta với mọi thứ bằng cách làm hỏng thái độ tự nhiên của tâm hồn, suy nghĩ, ý chí của chúng ta. Bị khuynh hướng sâu xa nhất của bản thể chúng ta hướng vào chính mình, thay vì hướng trực tiếp đến Chúa, chúng ta liên hệ mọi thứ với chính mình thay vì quy chiếu tất cả mọi thứ cho Người. Đó là lý do tại sao để tìm lại Người, điều cốt yếu là phải lột bỏ chính mình.

Trước khi Sa ngã, mọi thứ đều là biểu tượng (icon). Mọi thứ đều là cửa sổ nhìn vào thiên chúa. Mọi thứ đều là dấu hiệu nói rằng, “Chúa theo cách này.” Nhưng sau khi Sa ngã, mọi thứ trở thành thần tượng (idol) đối với chúng ta. Thay vì mọi thứ hướng chúng ta đến Chúa, chúng ta tìm kiếm mọi thứ như mục đích trong chính chúng. Hoặc tệ hơn, chúng ta trở thành thần tượng. Chúng ta tôn thờ chính mình bằng cách quy mọi thứ trở về với chính mình, sự thoải mái, khoái lạc và sự tự tôn của riêng mình. Chúng ta cố gắng thay thế Chúa làm trung tâm của vũ trụ trong một sự tự thần hóa sai trái. Do đó, một số loại khổ hạnh là cần thiết nếu chúng ta muốn tìm thấy Chúa.

Có lẽ là vì rất nhiều Kitô hữu ở thế kỷ thứ tư đã cam kết với một lý tưởng khổ hạnh nên đã có nhiều tiến bộ trong việc diễn đạt đạo lý chính thống về Thiên Chúa. Mặc dù không có nguyên nhân và kết quả đơn giản ở đây (không phải tất cả những người khổ hạnh đều chính thống), nhưng sự hiểu biết thực sự về Chúa thường, có lẽ là cần thiết, đi kèm với sự từ bỏ bản thân và thế gian một cách triệt để. Chỉ bằng cách tự hành xác (“làm chết”) chính mình, chúng ta mới có thể thấy được sự thật về Chúa.
 
Điều này có ý nghĩa gì với chúng ta ngày nay?
 
Không phải tất cả chúng ta đều được kêu gọi để trở thành những vị tử đạo hay tu sĩ, nhưng tất cả các Kitô hữu đều được kêu gọi trong bí tích rửa tội của mình để tuyên xưng Kinh Tin Kính và chết cho thế gian. Nhưng chết không phải là một sự kiện chỉ xảy ra một lần. Nếu bất kỳ ai trong chúng ta muốn trở thành những người theo Chúa Kitô, “hãy từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta” (Lc 9, 23). Mỗi ngày, chúng ta phải chết cho chính mình. Và, “nếu chúng ta đã chết với Người, chúng ta cũng sẽ sống với Người” (2 Tm 2, 11).

Tôi giúp điều hành mục vụ tại một trường cao đẳng công giáo nhỏ. Năm nay, chúng tôi có hơn 260 sinh viên tham gia chương trình Exodus 90. Trong chín mươi ngày, sinh viên tăng thời gian cầu nguyện; tắm nước lạnh; từ bỏ ăn vặt, đồ uống ngọt, phim ảnh và sử dụng internet khôn cần thiết; ăn chay hai lần một tuần; tập thể dục ba lần một tuần; và cam kết kiểm tra trách nhiệm hàng ngày và họp nhóm nhỏ hàng tuần.

Hầu như tất cả học sinh đều báo cáo rằng họ cảm thấy được giải thoát khỏi tội lỗi, có tình bạn phong phú hơn, bình an hơn, cầu nguyện tốt hơn và gần gũi hơn với Chúa.

Chính những sinh viên như thế này đã cho tôi hy vọng về tương lai của Giáo hội. Họ là những người biết ý nghĩa của việc bị tội lỗi và quyền lực của Satan kìm kẹp. Và họ biết ý nghĩa của việc được giải thoát. Họ là những người biết ý nghĩa của việc nương tựa vào Chúa. Họ là những người biết ý nghĩa của việc chết cho chính mình và hy sinh cho Chúa Kitô. Họ là những người đã trải nghiệm quyền năng của Chúa, đưa họ từ cõi chết đến sự sống. Họ là những người biết giới hạn của mình và biết quyền năng của Thánh Thần ban sự sống. Chính những người trẻ này là những người biết trực tiếp những lẽ thật của Kinh Tin Kính.

Kinh Tin Kính Ni-xê-a không chỉ là một danh sách các mệnh đề chân lý đức tin đòi hỏi sự đồng thuận về mặt tri thức. Đó là lời mời gọi chúng ta bước vào với toàn bộ con người của mình vào những điều huyền nhiệm mà nó diễn đạt. Kinh Tin Kính là lời mời gọi chúng ta chết. Khi chết, chúng ta được ban cho sự sống mới và đôi mắt mới để nhìn, vì chỉ khi chết đi với chính mình, chúng ta mới có thể đạt được loại trái tim có thể nhìn thấy chân lý về Thiên Chúa. Chính Chúa Giêsu đã nói với chúng ta điều này: “Phúc cho những ai có lòng trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa” (Mt 5, 8).

Điều đó đúng trong cuộc sống này cũng như trong cuộc sống ở thế giới bên kia.
GB. Phạm Hoàng Dũng, O.P. chuyển ngữ
Nguồn: https://www.catholicworldreport.com/2025/05/19/death-and-life-in-the-nicene-creed/
114.864864865135.135135135250