07/05/2010 -

Tài liệu

413



 




Đức Mẹ Là Tôi Tớ Chúa

Gm Bart Nguyễn Sơn Lâm

tapao1 Khi nhận làm Mẹ Chúa, Đức Maria dường như không nhìn thấy đó là một vinh dự. Người khiêm tốn coi mình là TÔI TỚ CHÚA. Bài này sẽ cho chúng ta thấy người sống chân thực lời tuyên xưng ấy mau lẹ như thế nào.
Sứ thần Gabriel vừa ra đi, Maria vội vã lên đường. Người vâng theo ý Chúa trong mọi chi tiết. Tin bà chị họ mang thai là gì sánh với ơn làm Mẹ Chúa mà Maria vừa lãnh nhận. Sứ thần không gợi ý người phải đi thăm. Từ Nazareth xuống Ain Karim, cách Giêrusalem 6 cây số về phía Tây, là một con đường dài không những quanh co, dốc dác, xuyên qua sa mạc nóng bỏng, mà còn là phải len giữa những mỏm đồi nguy hiểm nhiều trộm cướp. Thân nữ 13-14 tuổi đầu có nên dấn thân vào cuộc hành trình như vậy không? Và để làm gì? Quan hệ họ hàng có đòi hỏi thật sự một cuộc viếng thăm như vậy không? Gia đình bà chị họ chắn chắn chẳng chờ đợi gì ở Maria. Chứng cớ là đã 6 tháng rồi, họ có đưa tin gì cho Maria đâu! Tuy nhiên Maria vẫn hối hả lên đường. Bước chân thoăn thoắt thi hành đúng nhịp của trái tim của con người mau mắn vâng theo ý Chúa. Người vừa hé cho Maria thấy công việc Người làm nơi người chị họ. Tin ấy lại được loan báo trong khung cảnh của việc Maria được chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Mẹ Maria phải thầm nhận ra có một tương quan nào đó giữa hai việc. Ít ra, người cũng bị thúc đẩy phải đi đến nơi Thiên Chúa đang làm việc, để chiêm ngưỡng, tìm hiểu, đón nhận ơn Chúa muốn ban cho dân người. Maria lên đường vì Chúa hơn là vì bà chị họ, vì muốn phục vụ Chúa hơn là vì nghĩ có thể giúp đỡ được gì cho người bà con. Thánh Thần đã dun dủi người đi, như Đức Giêsu sau này cũng "bị" Thánh Thần đẩy vào sa mạc.
Với tâm trạng một người tôi tớ đi làm theo ý Chúa, Maria đã vào nhà ông Giacaria và chào chị Êlisabét với một tâm tình đạo đức qua lời lẽ thông thường của những lần chị em lâu ngày gặp gỡ nhau. Nhưng lời chào vừa lọt tai bà chị, hài nhi trong lòng bà đã nhảy mừng. Cả hai mẹ con đã được đầy Thánh Thần, nhận ra diễm phúc nơi người em họ bé bỏng kia. Thay vì thỏa mãn với những lời khen ngợi chính đáng đang thốt ra từ miệng chị Êlisabét đầy Thánh Thần, Maria đã thốt lên lời chúc tụng Chúa.
Người ta thấy bài Magnificat của Đức Mẹ có nhiều từ, nhiều câu giống với của bà Anna, mẹ của Samuel (1Sm 2,1-11). Nhưng nếu đem đối chiếu, tinh thần của hai người không mấy giống nhau. Cả hai cùng công nhận việc Chúa làm thật lớn lao: nhưng một bên tựa vào đó để đắc thắng nói lại những kẻ trước kia khinh dễ mình; còn bên kia như chỉ biết cúi đầu thờ lạy quyền năng của Thiên Chúa đã nhớ lại lòng thương xót mà đến cứu chuộc Israel tôi tớ Người. Và sự thật dường như bà Anna chỉ thấy Chúa thương nhận lời van xin của mình để mình khỏi bị mang tiếng mãi là son sẻ; đang khi Đức Maria vâng lời Chúa như một người tôi tớ, lên đường để được nhìn thấy công việc của Chúa. Người đã thấy quá điều mong ước, vì không những thấy bà chị họ không còn son sẻ, mà hơn nữa còn chứng kiến ơn Thánh Thần tuôn đổ xuống cho hai mẹ con. Maria khiêm nhường đứng trước những sự việc ấy thật là phải. Thái độ tôi tớ của người cũng thật đúng. Và nếu chúng ta nghĩ người ở lại nhà bà chị 3 tháng để "giúp đỡ" cũng không sai với cung cách của người. Chính sách Tin Mừng cũng không cho thấy người có mặt tại nhà ông Giacaria trong ngày đặt tên cho Gioan. Phải chăng công việc phục vụ của "người tôi tớ" không còn cần thiết nữa? Hay là bản tính của người luôn muốn khiêm nhường, kín đáo rút lui khỏi những buổi "liên hoan".
Trở về Nadarét, Maria lại phải có thái độ của một người tớ nữ. Giuse nhìn người một cách khác thường. Nỗi băn khoăn, khó xử hiện trên khuôn mặt Giuse càng làm Maria phải nín lặng. Lời thánh vịnh 122, 2: “Như mắt của gia nhân hướng nhìn tay ông chủ, như đôi mắt nữ tì hướng nhìn tay bà chủ”, áp dụng không sai tí nào cho Maria trong hoàn cảnh nan giải này. Người chỉ biết đặt mọi niềm tin cậy vào Chúa. Và Chúa đã giải cứu người tôi trung.
Giuse rước Maria về nhà… cho đến ngày cả hai đều phải lên đường, như bầy tôi trung thành của quyền bính thế gian cũng xuất phát từ Thiên Chúa. Là Mẹ Đấng Cứu Thế, nhưng thực ra từ nay Maria phải phục vụ Người. Những chuẩn bị chu đáo cho ngày con sinh ra bổng chốc bị hủy hết. Lên đường đi Belem lúc gần ngày sinh con, Maria đã đem theo được gì sánh với hai chữ “Xin Vâng” mà người đã cam kết khi đi vào chương trình của Thiên Chúa? Không tìm được chỗ trong quán trọ, người không chấp nhận sinh con ở bất cứ chỗ nào như một nữ tì thời nô lệ sao? Luca thật có lý khi thuật lại giai đoạn đầu của cuộc sinh con này, theo hình ảnh mầu nhiệm thập giá. Sự hạ mình của Ngôi Lời khi sinh ra làm người dưới thời thống trị hùng mạnh của đế quốc lớn nhất thời ấy, càng làm Đức Maria muốn có tinh thần tôi tớ phục vụ hơn nữa. Thế nên, việc các mục đồng thờ lạy Hài Nhi và kể lại những điều đã nghe biết, cũng như việc các đạo sĩ từ xa mang lễ vật tiến dâng chỉ để lại trong tâm hồn người tớ nữ những điều để suy niệm âm thầm.
Chúng ta hãy rảo qua việc chạy trốn sang Aicập. Đó cũng chỉ là một cuộc lánh trốn một ông chủ ác nghiệt và chấp nhận một đời tỵ nạn của kẻ nghèo khó ngang hàng với thân phận của hàng nô lệ thời bấy giờ. Maria chịu đựng tất cả vì đó là ý Chúa. Tâm tình người bấy giờ sâu sắc và thấm thía khổ đau hơn những điều chúng ta vừa nói nhiều, nếu chúng ta nhớ lại việc người đã đưa Con vào Đền Thờ, 40 ngày sau khi sinh nở.
Chẳng luật nào buộc người phải đem Hài Nhi vào dâng trong Đền Thờ Giêrusalem. Làm việc này bất cứ tại nguyện đường nào cũng được. Nhưng Maria ý thức giá trị đứa con của mình, cũng như địa vị đặc biệt của Đền thánh. Người đến không để “thanh tẩy” như các bà mẹ khác, cho bằng để tuyên xưng mạnh mẽ hơn bất cứ phụ huynh nào: Hài Nhi đây là của Chúa. Mọi người Do Thái, khi dâng con đầu lòng chỉ nhớ lại việc ngày xưa Chúa đã tha chết cho con đầu lòng của họ trong đêm Vượt qua… Còn Đức Maria đem Con vào Đền Thờ là để khẳng định đây thật là Con Chúa và mình chỉ là người nuôi, tức là tôi tớ. Người còn những tâm tình sâu xa hơn nữa, vì vừa vào Đền Thờ, chưa kịp làm lễ Dâng Con, người đã gặp hai người thánh: ông Simêon và bà Anna.
Cả hai đều được Thánh Thần đưa đến đây vào giờ phút này. Simêon xin ẵm ngay lấy Hài Nhi và thốt lên những điều kỳ diệu. Ông nhận ra ngay ơn cứu độ đã đến soi sáng muôn dân và làm cho dân Chúa được vinh quang. Nhưng đồng thời ông cũng báo trước về tương lai của Đấng Cứu Thế, sẽ bị chống đối, và một lưỡi gươm sẽ đâm thâu lòng Maria để chia sẻ số phận của Con, mà lời của ông nói khiến chúng ta phải suy nghĩ tới thân phận đau khổ của Người Tôi Tớ của Đức Chúa trong sách Isaia. Như vậy Maria sẽ là tôi tớ của Tôi Tớ Chúa. Lời Simêon nói, người quên sao được, khi Luca dường như ám chỉ Simêon chỉ nói những lời ấy riêng với Maria thôi, đang khi lúc chúc phúc thì Simêon nói với cả cha mẹ của Hài Nhi.
Maria được biết Con mình sẽ phải khổ đau và bị chống đối, thì khi dâng Hài Nhi lên cho Chúa theo Luật dạy, người đã như bắt đầu dâng Con trên thập giá, với tâm hồn của người mẹ nặng chĩu vì đau thương. Maria dâng Con theo Luật Chúa, thì đã biểu lộ lòng tuân phục của dân tôi tớ Thiên Chúa. Nhưng khi dâng Con làm lễ tế, thì người còn thêm tâm trạng một người tôi tớ đau khổ, hay ít ra sẵn sàng chịu mọi khổ cực đớn đau…
Và người đã không phải chờ đợi lâu, như ta đã thấy trong việc trốn sang Aicập, mà bây giờ đọc lại sau lễ dâng Con trong Đền Thờ, chúng ta hiểu lòng người tôi tớ nhẫn nhục biết bao.
Rồi thời gian qua. Giêsu lên 12 tuổi. Theo thông lệ, cha mẹ Người đem Người đi trẩy lễ Đền Thờ. Sau lễ Người ở lại mà cha mẹ không hay biết. Vất vả tìm Người, ba ngày mới gặp lại Con, Mẹ Người vừa thốt ra mấy lời dịu dàng, Người đã đáp trả quá thẳng thắn đến nỗi Mẹ Người chẳng hiểu gì và chỉ biết lẳng lặng ghi sâu trong lòng mà ngẫm nghĩ. Nói đúng ra, riêng Mẹ Người càng ý thức rõ hơn: Người là Con của Thiên Chúa và luôn luôn chỉ thao thức các việc của Cha Người; và như thế Maria phải đóng vai trò tôi tớ phục vụ không hơn không kém… Và chắc chắn người tiếp tục hai chữ “Xin Vâng” một ngày một thấm thía hơn…
Thái độ và đời sống “tôi tớ” của Đức Mẹ không nói gì với chúng ta sao ? Chúng ta có quen quan niệm ơn gọi và chức năng Linh mục của chúng ta trong tinh thần phục vụ khiêm tốn của người tôi tớ không? Hầu hết chúng ta chỉ muốn phục vụ, không kể ngày đêm, không quản vất vả và tốn phí. Tuy nhiên, đôi khi tính độc tài, thái độ lạnh lùng, lời nói cứng cỏi che lấp hẳn thiện ý sâu xa muốn phục vụ của chúng ta. Người ta dễ thấy chúng ta nhiệt tình nhưng khó thấy chúng ta là tôi tớ. Nhất là khi người ta thấy chúng ta muốn kể công. Chúa nói rõ trong sách Tin Mừng: Tông Đồ của Chúa phải nhiệt thành nhưng phải coi mình là tôi tớ vô dụng (x. Lc 16,7-10). Dù sao, xét mình lại chúng ta vẫn thấy còn phải cố gắng sẵn sàng phục vụ hơn nữa, kể cả vào các giờ nghỉ trưa hoặc đang say sưa một công việc nào. Nhất là làm sao biểu lộ được thái độ tôi tớ khi phục vụ mới thật xứng đáng tiếp nối sự nghiệp của Người Tôi Tớ đau khổ của Đức Chúa.
Do đó khi cử hành Thánh Thể, linh mục càng phải nhớ lại hình ảnh Người Tôi Tớ khi rửa chân cho môn đệ và đặc biệt khi chết trên Thâp Giá. Lời giảng của linh mục phải đóng đinh xác thịt con người cũ của mình vào thập giá hơn là đóng đinh người nghe. Và mọi cử điệu nơi bàn thờ phải rất khiêm tốn mới xứng đáng ở trước những Mầu Nhiệm Cực thánh.
Thái độ tôi tớ phục vụ này, Cha xứ phải liệu chuyền sang cho các cộng sự viên thân cận nhất, kẻo không ý tứ thái độ của họ và ngay của bà bếp của Cha đã khiến giáo dân thấy Giáo Hội quan liêu chứ không phục vụ như Chúa đâu!
Thời nay, người mục tử còn phải sáng suốt và khéo léo đem tinh thần phục vụ của Thánh Giuse và Đức Mẹ vào não trạng của các bậc phụ huynh, kẻo các con cái trong các gia đình phải sống trong sợ hãi, không phát triển được tài năng và nhất là khép kín trong vấn đề yêu thương, dẫn đến những đổ vỡ thật tai hại!
Là Mẹ Chúa mà vẫn sống như người tôi tớ Chúa, đó là gương Đức Mẹ để lại cho chúng ta và cho chính cả Giáo Hội nữa. Xin Mẹ giúp đỡ chúng ta.

114.864864865135.135135135250