15/03/2012 -

Suy tư, nghiên cứu

1198

 


BƯỚC ĐẦU TÌM HIỂU NGHI ĐIỂN DÒNG ĐA MINH


 


Phêrô Phạm Duy Khánh., OP.




Dominican_ConflagrationCùng với các nghi điển Bênêđictô, Xitô, Phan Sinh, nghi điển Đa Minh (Dominican Rite) là một nghi điển độc đáo của Anh Em Dòng Giảng Thuyết trong Giáo hội Công giáo. Nghi điển này không phải hoàn toàn do anh em Đa Minh sáng chế nên. Theo một số người, chúng là một sự cải biến bởi nghi điển Roma, một số khác lại cho rằng chúng chịu ảnh hưởng bởi nghi điển Gallican. Cũng không thiếu người khẳng định, nghi điển Đa Minh là sự pha trộn giữa hai nghi điển Roma và Gallican.[1] Nhưng dù sao đi nữa, nghi điển Đa Minh đã trở thành một nghi điển cổ kính trong Giáo hội. Chúng tồn tại trong Dòng suốt khoảng 700 năm và chỉ chấm dứt hẳn sau Công đồng Vat. II – năm 1968. Dẫu trên thực tế, nghi điển này không còn được cử hành trong phụng vụ, nhưng gia sản mà chúng để lại vô cùng phong phú. Một khi xem phụng vụ là một trong bốn yếu tố thiết yếu trong Linh đạo của Dòng[2], thì ta không thể loại trừ sự góp phần của nghi điển này trong việc xây dựng gia sản đặc sắc của Dòng Giảng là đông đảo anh chị em được tuyên phong trong hàng ngũ thánh nhân.


1. Quá trình hình thành nghi điển Đa Minh


Chúng ta biết, thánh Đa Minh xuất thân là một Kinh sĩ[3] thuộc giáo phận Osma.[4] Nơi đây, trong vai trò của mình, chắc chắn ngài đã tham dự vào những buổi cử hành phụng vụ long trọng hàng ngày.[5] Bầu khí ấy hẳn đã nuôi dưỡng đức tin và ghi dấu trong tâm khảm ngài. Vậy nên khi kêu mời những anh em đầu tiên đồng chí hướng, ngài cũng yêu cầu họ cùng có một tình yêu đặc biệt trong những buổi cử hành phụng vụ.[6] Dẫu sao ta cũng phải nghi nhận rằng không phải nghi điển Đa Minh được hình thành ngay từ khi Dòng non trẻ này được thành lập. Chắc chắn là trong địa hạt Toulouse thời ấy, các tu sĩ của chúng ta sẽ cử hành phụng vụ theo nghi điển Roma. Và dĩ nhiên, nghi điển này ảnh hưởng không nhỏ đến nghi điển của anh em Đa Minh sau này.


romano


Sau năm 1217, khi thánh Đa Minh đã phân tán 16 anh em ra đi khắp nơi, Dòng mới thành lập đã ngày thêm đông số và vững mạnh. Tại mỗi nơi anh em đến, anh em phải thích ứng với những nghi điển vốn có tại đó.[7] Chính vì thế, nhu cầu cần có một nghi điển thống nhất trên toàn dòng là một nhu cầu cấp thiết.[8]


Vào năm 1245, nhiều bản thỉnh nguyện yêu cầu soạn nghi thức thống nhất toàn dòng đã đưa đến việc chọn một uỷ ban gồm bốn anh em. Các anh em này đã đưa ra nhiều đề nghị sửa đổi, tuy đã được chấp thuận năm 1248, song vẫn chưa làm thoả mãn mọi người.[9] Vậy nên Tổng hội 1254 đã uỷ nhiệm cho cha Humberto, vị tổng quyền thứ năm của Dòng, điều hành việc san định lại. Mãi đến năm 1956, nghi điển mới hoàn tất. Và năm 1267, Đức giáo hoàng Clemente IV đã châu phê nghi điển của Dòng, cho phép sử dụng rộng rãi. Việc làm này, theo như nhận định của sử gia William Hinnebusch, “đã tạo nên sự thống nhất cho toàn bộ Dòng.[10] Nghi điển này được cử hành trong Dòng cho đến tận năm 1965.


2. Các sách Phụng vụ của Dòng[11]


Bộ sách phụng vụ của Dòng do Bề trên tổng quyền Humberto ban hành, lúc đầu gồm 14 quyển trong đó có các sách sau:



  1. Phần thường lễ (Ordinarium), quy định “chữ đỏ”, cách thức thi hành các lễ nghi.

  2. Sổ bộ các thánh (Martyrologium: Tử đạo thư), gồm danh sách và ngày kính các vị thánh tử đạo và các thánh khác.

  3. Các lời nguyện (Collectarium), là sách dành cho vị chủ tuần, gồm những bản văn hay ghi chú dành cho việc cầu nguyện, chúc tụng… (gồm các lời tổng nguyện cho các giờ

  4. Sách kinh rước kiệu (Processionale), bao gồm những bài thánh thi, thánh ca dành cho việc rước kiệu.

  5. Thánh vịnh (Psalterium), gồm các Thánh vịnh.

  6. Sách bài đọc (Lectionarium), bao gồm những bài giảng Chúa nhật, những bài đọc Sách Thánh và Hạnh các thánh, đọc giờ Kinh Đêm (nay gọi là Kinh Sách).

  7. Ca vịnh hay Tiền xướng (Antiphonarium) gồm những thánh thi và thánh ca dùng trong Các giờ kinh Phụng vụ, được hát ngoài Thánh lễ, chẳng hạn các tiền xướng thánh vịnh.

  8. Ca tiến cấp (Graduale), là những bài thánh ca dành cho ca đoàn, hát trong Thánh lễ: ca nhập lễ, đáp ca, ca dâng lễ, ca hiệp lễ.

  9. Sách lễ tu viện (Missale Conventuale), dùng trong các lễ Đại trào và các thánh lễ Tu viện.


10.  Thánh Thư (Epistolarium), gồm Các Thư của Thánh Phaolô và các thư khác, sử dụng trong Thánh lễ và Các giờ kinh, dành cho Tuỳ phó tế.


11.   Sách Tin mừng (Evangeliarium), gồm các bài Tin mừng trong Thánh Lễ, dành cho phó tế.


12.  Sách thánh ca (Pulpitary) gồm các dấu nhạc gợi ý hòng áp dụng cho các Vinh tụng ca, Giáo đầu, Lời cầu, thánh thi và Halleluia.


13.  Sách lễ (Missale minorum altarium), dùng cho việc dâng lễ riêng tại các bàn thờ cạnh.


14.  Kinh nhật tụng (Breviarium). Sách nguyện nhỏ, dùng khi đi đường


Mười bốn cuốn sách ban hành lúc đầu của cha tổng quyền Humberto, dưới sự ảnh hưởng của nghi điển Roma, dần dần có những sách không còn thông dụng, thêm vào đó nảy sinh những nhu cầu mới. Qua thời gian sàng lọc, nghi điển phụng vụ của  còn lại những sách Phụng vụ sau:



  1. Sổ bộ các thánh.

  2. Các lời nguyện.

  3. Sách kinh rước kiệu.

  4. Ca vịnh

  5. Ca tiến cấp.

  6. Sách lễ tu viện.

  7. Sách lễ.

  8. Kinh nhật tụng[12]

  9. Kinh chiều (Vesperal).


10.  Các giờ kinh trong ngày (Horæ Diurnæ).


11.  Sách các nghi thức (Ceremonial).


Tuyển tập các sách phụng vụ sau này phần nhiều được lấy lại từ bộ sách phát hành ban đầu của cha Humberto, chỉ có ba sách cuối cùng là được thêm vào sau. Lưu ý rằng, sách hoàn toàn được biên soạn mới là cuốn Các giờ kinh trong ngày, còn cuốn Kinh chiều thì được tổng hợp bởi hai cuốn Kinh nhật tụng và Ca vịnh. Trong khi đó, Sách các nghi thức lại là cuốn tổng hợp tất cả các Luật chữ đỏ (rubrics) trong các tập sách phụng vụ kia.



 


3. Một vài nét đặc trưng riêng trong Phụng vụ của Dòng


Đến đây vấn đề đặt ra là nghi điển  có nét gì riêng so với nghi điển Roma đang phổ biến lúc bấy giờ, đến nỗi Dòng phải làm ra một nghi điển riêng?


3.1.Thánh lễ


Có lẽ những nét riêng trong phụng vụ thể hiện rõ nét nhất trong các thánh Lễ Thường hay còn gọi là Lễ Đọc (low Mass)[13]. Trong nghi điển Đa Minh , vị chủ tế trùm khăn lễ[14] lên đầu thay vì trùm vai như những nghi điển khác[15]. Và vị chủ tế cứ trùm như thế cho đến khi bắt đầu phần Lễ chính thức. Sở dĩ vậy là vì trước đó, nghi điển Đa Minh có phần chuẩn bị bánh và rượu. Đây là nét đặc trưng có trong nghi điển này.


Sau khi mặc áo lễ, vị chủ tế và giúp lễ tiến ra cúi chào bàn thờ. Trên tay vị chủ tế cầm chén đựng bánh và rượu. Sau đó, vị chủ tế, với sự trợ giúp của người giúp lễ sẽ chuẩn bị phần bánh rượu. Khi tất cả đã xong, lúc này đây, vị chủ tế mới tự mở khăn lễ và mũ áo Dòng đang đội. Và Thánh lễ thực sự bắt đầu với Dấu thánh giá.[16]


Trong nghi điển Đa Minh vị chủ tế đọc Kinh cáo mình với nét rất riêng. Kinh này bao gồm cả danh của Thánh Đa Minh . Mẫu kinh này cũng ngắn hơn Kinh cáo mình theo nghi điển Roma cử hành khi ấy.[17] Sau khi đọc Kinh thương xót, Kinh vinh danh và phần Bài đọc, vị chủ tế trở lại giữa bàn thờ và Dâng bánh rượu.


Trong phần Dâng bánh rượu, vì đã được chuẩn bị từ đầu lễ, nên các lời nguyện dâng lễ vật cũng chỉ tóm gọn trong một lời khi vị chủ tế dâng một lượt bánh và rượu.[18] Có nghĩa là linh mục dâng cả bánh và rượu cùng một lúc (đĩa bánh đặt trên chén rượu).


Sau Kinh tạ ơn, tới phần Hiệp lễ, người thưa lễ đọc kinh Chiên Thiên Chúa ngay sau khi chào chúc bình an của chủ tế.[19] Tiếp đó, vị chủ tế đọc ba lời nguyện “Hæc sacrosancta commixtio”[20] “Domine Jesu Christe”[21], and “Corpus et sanguis”[22] trước khi đọc lời Tung hô “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian…”. Sau đó vị chủ tế rước mình và máu, không đọc lời nguyện “Corpus et sanguis” nữa vì đã đọc trước rồi.


Trên đây là một vài nét đặc trưng riêng có trong nghi điển Đa Minh ở các Lễ thường. Tiến trình này khác với những lễ Đại trào.[23] Trong những lễ Đại trào, phần chuẩn bị bánh và rượu do thầy Phụ Phó tế cử hành sau phần Bài đọc.



3.2.Những dịp lễ đặc biệt[24]


Trong bầu khí Giáo hội đang sống và tưởng niệm mầu nhiệm Thương khó và Phục sinh của Chúa Kitô, chúng ta cùng tìm hiểu một số nét đặc trưng riêng trong nghi điển Đa Minh có từ thủa trước.


Lễ Tro


Lời nguyện làm phép tro : sách lễ Roma có 2 lời nguyện có thể thay đổi và tương đối ngắn. Còn lời nguyện làm phép tro của Dòng Đa Minh thì dài hơn:


Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa thương xót và yêu thích mọi loài Chúa đã dựng nên, hằng bỏ qua lỗi lầm cho người thống hối. Chúng con nài xin Chúa thương nâng dậy tất cả những kẻ khốn quẫn, và thánh hoá + tro bụi này mà Chúa đã truyền dạy chúng con xức trên đầu, noi gương dân thành Ninivê như dấu chỉ của lòng khiêm nhường, đạo đức và hoán cải của chúng con. Nhờ việc kêu cầu danh thánh Chúa, xin Chúa ban cho tất cả những ai xức tro này trên đầu mà nài xin lòng thương xót Chúa thì đáng nhận được ơn tha thứ lỗi lầm. Và như hôm nay chúng con bắt đầu mùa chay thánh, thì xin cho chúng con vào ngày phục sinh cũng được tham dự tiệc vượt qua của Chúa, và cùng được chia sẻ vinh quang Chúa đến muôn đời. Nhờ Đức Kitô…


Khi so sánh, ta thấy lời nguyện dài hơn của nghi điển Đa Minh bao gồm cả hai ý nghĩa có trong hai lời nguyện tách rời của sách lễ Roma hiện tại. Một mặt chúng vừa nói lên sự thánh hoá của Thiên Chúa trong nghĩa cử bỏ tro (Lời nguyện 1 trong sách lễ Roma), mặt khác chúng vừa diễn tả tấm lòng thống hối ăn năn của người tín hữu (Lời nguyện 2 trong sách lễ Roma). Tuy nhiên, lời nguyện làm phép tro của dòng Đa Minh còn trưng ra ý nghĩa của tro xức trên đầu, được kín múc trong Sách Thánh, trong lịch sử cứu độ với nghĩa cử của dân thành Ninivê.[25]


Kế đến, theo nghi thức hiện nay thì trong khi xức tro, cộng đoàn hát Thánh vịnh 50. Thánh vịnh này là một lời kinh thú tội cổ điển. Theo truyền thống, Thánh vịnh này được xem là lời kinh của vua Đavít sau khi vua nhận ra mình đã phạm tội ngoại tình với bà Bát Seva, và đã giết chồng bà là ông Urigia. Theo mạch đó, thánh vịnh này ra như là một lời thú tội và cầu xin của cá nhân trước Chúa.[26]


Còn nghi thức của Dòng ngày xưa thì hát Thánh vịnh 68 (69) với điệp ca Exaudi nos, Domine (lạy Chúa, xin đoái nghe chúng con). Thánh vịnh này một mặt gợi nhớ đến hình ảnh thân phận con người tội lỗi, nhưng mặt khác cũng hướng đến Đức Kitô khổ nạn.


Đang khi hát Tv 68 thì từng 2 anh em một đến quỳ gối trước bàn thờ để Bề trên rắc tro vào giữa đỉnh đầu Courone và rảy nước thánh. Sau khi xức tro cho mọi người, bề trên sẽ nhận tro từ vị chủ tuần.


Lời đọc khi xức tro của Dòng là một trong hai công thức trong sách lễ hiện nay, đó là : “Hãy nhớ mình là bụi tro, và sẽ trở về bụi tro.” (Memento quia cinis es, et in cinerem revertéris)


Thứ Sáu thánh


Sáng Thứ Sáu tuần thánh, khi trời còn rất tối, có một cử hành phụng vụ gọi là Tenebrae (bóng tối) gồm có giờ Kinh Sách (9 Thánh vinh), Kinh Sáng (4 Thánh vịnh, 1 thánh ca Cựu ước, thánh ca Tân ước - Benedictus), tổng cộng là 15 ca vịnh.


Trong cung nguyện, người ta đặt một chân nến trên đó đốt 15 cây nến tượng trưng cho 15 ca vịnh. Và mỗi lần hát xong một ca vịnh thì người ta tắt lần lượt từng ngọn nến một. Cũng cần nói thêm về giờ kinh Tenebrae, theo diễn giải của Linh mục Phan Tấn Thành op., truyền thống đọc 15 ca vịnh này trong ngày Thứ sáu thánh, khi theo chân các vị thừa sai Đa Minh đến Việt Nam, các vị cũng muốn cho giáo dân tham dự vào phụng vụ long trọng ấy một cách “bình dân”, nên đã sáng tạo nên hình thức Ngắm 15 sự thương khó của Chúa – một nét đặc trưng trong các địa phận Dòng. Trong tiến trình ngắm này, người ta cũng đốt nến 15 ngọn. Sau mỗi một ngắm, một ngọn nến được tắt đi.


Sau đó cộng đoàn tu sĩ hát các bài từ sách Ai Ca trong đó bài Ai ca thứ năm, được gọi là Lời cầu nguyện của Giêrêmia (Oratio Ieremiae) với những đặc sắc riêng của chúng. Ai ca thứ năm là lời than vãn của tập thể. Tác giả tóm tắt các sự kiện, các biến cố liên quan đến Giêrusalem thất thủ và tất cả phải đi đày, dân chúng buồn rầu vì Giêrusalem không còn là nơi Đức Chúa ngự. Thế nhưng bài Ai ca cũng không che dấu niềm tin tưởng, tác giả hy vọng Đức Chúa sẽ nhớ lại và giải thoát dân khỏi cảnh lưu đày mà cho về quê cha đất tổ. Rồi sẽ đến ngày : “Khi Chúa dẫn tù nhân Xion trở về, ta tưởng mình như giữa giấc mơ” (Tv 125,1).


4. Một vài nhận định để kết


Còn rất nhiều những nét đặc sắc riêng trong nghi điển Đa Minh . Ví dụ nét riêng trong cử hành Vọng Phục Sinh với những nghi thức ca mừng ngọn lửa mới long trọng; nét riêng trong Kinh nhật tụng với sự phân chia các giờ kinh thành bảy loại và năm bậc khác nhau.[27] Tuy nhiên qua việc tìm hiểu những nét đặc trưng trong nghi điển phụng vụ Đa Minh này, chúng tôi thấy xuyên suốt những nét khác biệt ấy là sự cử hành phụng vụ long trọng và yếu tố cộng đoàn[28] phảng phất trong tất cả những soạn tác của lời nguyện hay những Thánh vịnh chọn đọc trong những dịp này dịp khác. Ra như những nhà phụng vụ Đa Minh , vì sống trong linh đạo của Dòng, nên những chọn lựa của họ thấm đẫm tinh thần Dòng. Tất cả đều mưu cầu sao cho phụng vụ diễn ra một cách long trọng, lôi kéo sự tham dự của toàn thể anh em, ngắn gọn và giản đơn nhất có thể mà vẫn không làm mất hình ảnh một cộng đoàn luôn hợp tiếng chúc tụng, ngợi khen Thiên Chúa. Một mặt, nghi điển này hướng người tham dự cử hành lời tạ ơn, chúc tụng dâng lên Thiên Chúa; mặt khác nghi điển ấy cũng mở rộng cửa nhất trong việc gây ý thức cho sự tham dự (ví dụ việc chọn các Thánh vịnh, ý nghĩa mà những lời cầu chuyển tải…).


Nương theo những hội nhập và cải biến nét đặc sắc riêng trong phụng vụ Dòng mà các vị thừa sai thực hiện, chúng tôi nghĩ các nhà phụng vụ dòng Đa Minh cần đào sâu hơn nữa hòng có thể thích ứng giữa nghi điển Đa Minh và nghi điển hiện hành. Tiến trình này cần khởi đi từ trong các Tu viện của Dòng. Ví dụ, như nhận định trên, phụng vụ của Dòng chứa đựng trong đó sự cử hành long trọng và đặc tính cộng đoàn, nên chăng ta có thể thay đổi những thánh ca hát trong những dịp lễ đặc biệt hòng nêu bật chiều kích cộng đoàn đang thay mặt cho đoàn Dân Thiên Chúa cử hành? Trong khi thay đổi như thế, cũng cần có đôi lời dẫn giải hòng hướng ý cho cộng đoàn.


Một vấn nạn khác, tuy không được quan tâm tại Tỉnh dòng Việt Nam, nhưng đã trở thành một vấn đề gây tranh luận nơi một số Tỉnh dòng Hoa Kỳ và những ai yêu thích nghi điển Đa Minh . Vào ngày 07/06/2007, đức Benedicto XVI đã ra Tự sắc “Summorum Pontificum” cho phép cử hành thánh lễ bằng tiếng Latinh, theo nghi điển Roma trước Công đồng Vat. II. Tuy nhiên Tự sắc này lại không đưa ra những hướng dẫn cụ thể cho việc áp dụng. Đến đây vấn đề đặt ra là anh em Dòng Giảng có được phép áp dụng Tự sắc này cho nghi điển riêng của mình không? Khi đặt ra vấn đề như thế, người ta dựa vào phúc thư cho Dòng của Thánh bộ Phụng tự, ban hành ngày 02/06/1969 (Prot no. 98/69), trong đó có viết:


Magister autem Generalis Ordinis, post adoptionem Missalis Romani pro universo Ordine Fratrum Prædicatorum, ipse pro sacerdotibus totius Ordinis vel Prior Provincialis pro suis subditis concedere valet licentiam celebrandi Missæ Sacrificum iuxta ritum dominicanum hucusque vigentem.”


Tạm dịch: “Sau khi tiếp nhận và cử hành theo Nghi điển Roma trong toàn Dòng, vị Bề trên Tổng quyền vẫn có thể cho phép : các linh mục trong Dòng hoặc một vài Tỉnh dòng hay một số linh mục thuộc quyền được cử hành Thánh lễ theo nghi điển Đa Minh .”


Trước những đòi hỏi nảy sinh từ Tự sắc của Đức thánh cha, cách riêng nơi một số Tỉnh dòng Hoa Kỳ, ngày 26/05/2009, Tổng quyền dòng khi ấy, Fr. Carlos Aspiros Costa, O.P., đã viết một lá thư cho các Tỉnh dòng Hoa Kỳ. Trong đó có đưa ra những hướng dẫn cho việc áp dụng Tự sắc. Cũng trong lá thư ấy, cha Tổng quyền cũng nhắc lại sự cho phép của Thánh bộ Phụng tự cũng như quyền được đáp ứng từ phía các Tỉnh dòng. Tuy nhiên, cha cũng không minh nhiên đồng ý việc áp dụng nghi điển Đa Minh trong toàn dòng. Tức là, nếu ai có nhu cầu, cần làm đơn lên Tổng quyền và sẽ được cứu xét.[29]


DSC04158_Copy


Để kết, như đã trình bày trong phần dẫn nhập, mục đích của bài viết không phải nói lên nỗi lòng “hoài cổ”. Nhưng thông qua việc tìm hiểu nghi điển của Dòng Đa Minh, chúng ta muốn tìm hiểu nguồn mạch nuôi dưỡng đời sống tâm linh của biết bao cha anh và các vị thánh của Dòng. Qua đó, như trong phần nhận định đã trình bày, người ta thấy sáng lên yếu tố cộng đoàn ẩn hiện trong mọi nghi thức phụng vụ trải dài suốt 700 năm Dòng thành lập và phát triển. Đấy cũng là một điểm đáng lưu tâm khi con người thời nay tìm hiểu và thích nghi những yếu tố phụng vụ cổ xưa hòng bồi đắp cho đời sống tâm linh của mình.







[1] http://en.wikipedia.org/wiki/Dominican_Rite. Xem thêm: Phan Tấn Thành, Tìm Hiểu Dòng Đa Minh (Angelicum: Roma), tr. 108.




[2] Xc. LCO. n. 57.




[3] Kinh sĩ : là thành phần của một tập thể giáo sĩ làm việc ở nhà thờ chính toà hay một nhà thờ lốn khác, có những nhiệm vụ đặc biệt như hát kinh Thần vụ chung với nhau. [Nguồn: John Hardon, Pocket Catholic Dictionary (Image Books, New York: 1985), Nguyễn Xuân Thành và nhóm Chánh Hưng chuyển dịch, Từ điển Công Giáo phổ thông (nxb. Phương Đông: 2008), mục từ “canon”, tr. 85.]




[4] Xc. Guy Bedouelle, Thánh Đa Minh – Ân sủng Lời Chúa (Tủ sách Đại Kết : 1992), tr. 59-60.




[5] Xc. Libellus, n.12-14.




[6] Có những chứng nhân nhận thấy rằng trong thánh lễ- trung tâm đời sống phụng vụ, đặc biệt đến phần Kinh Nguyện Thánh Thể, và khi đọc kinh Lạy Cha, người ta “luôn luôn thấy đôi mắt Người đẫm lệ… đến nỗi lòng sốt sắng của Người rạng rỡ hiển nhiên trước mắt mọi người dự lễ.” [Nguồn: Guy Bedoulle, ibid., tr. 257.]




[7] Xc. Anselme Davril “Cái nhìn tổng quát và các nguồn mạch lớn của Phụng vụ” trong: Gelineau, Khi họp nhau cử hành Phụng vụ , bản dịch tiếng Việt, tập I và II (Không rõ nơi và năm xuất bản), tr. 87-93.





[9] W. Hinnebusch, Hành trình chân lý – lược sử dòng Đaminh, Lớp tập 92-93 chuyển ngữ, tr. 49.




[10] W. Hinnebusch, ibid., tr. 50.


Cũng lưu ý thêm rằng bộ sách phụng vụ do cha tổng quyền Humberto ấn hành gồm 14 cuốn. Bản gốc được giữ tại Paris. Các Tỉnh dòng phải trả tiền để có được phó bản. Hiện tại, tu viện Santa Sabina vẫn bảo quản được một ấn phẩm xuất bản thời ấy.


[Nguồn: http://www.op-stjoseph.org/preaching/dominican_rite/the_dominican_rite_then_and_now/]




[11] Tham khảo chủ yếu trong: http://www.newadvent.org/cathen/13064b.htm




[12] Sách Kinh nhật tụng gồm hai phần: Phần I: Từ Mùa Vọng đến Lễ Chúa Ba Ngôi; Phần II: Từ Lễ Chúa Ba Ngôi đến Mùa Vọng.





[14] Khăn lễ là một miếng vải hình vuông (thường là vải trắng), mỗi cạnh khoảng 80cm. Hai góc cùng chiều nối thêm hai sợi dây để buộc. Các tư tế Triều thường choàng trên vai.




[15] Lưu ý rằng, tập tục vị chủ tế trùm khăn lễ phổ biến rộng rãi trong xã hội ở thế kỷ thứ 9. Trong khi đó, việc các tư tế Triều đội mũ ba khía khi tiến ra bàn thờ, chỉ thịnh hành vào thế kỷ thứ 16. Vậy nên nghi điển dòng Đa Minh có thể xem là giữ được những truyền thống xa xưa.




[16] Theo các nhà nghiên cứu, thói quen này chịu ảnh hưởng bởi nghi điển của Công giáo Đông phương và tập tục thời Trung cổ. Xc. Bonniwell, A History of the Dominican Liturgy, đăng trong : http://www.liturgialatina.org/dominican


Lưu ý rằng, tập tục vị chủ tế trùm khăn lễ phổ biến rộng rãi trong xã hội ở thế kỷ thứ 9. Trong khi đó, việc các tư tế Triều đội mũ ba khía khi tiến ra bàn thờ, chỉ thịnh hành vào thế kỷ thứ 16. Vậy nên nghi điển dòng Đa Minh có thể xem là giữ được những truyền thống xa xưa.




[17] Kinh cáo mình trong phụng vụ thánh lễ hiện nay được lấy lại từ nghi điển Đaminh, sau khi có một vài thay đổi nhỏ. Nguyên bản Kinh cáo mình thuộc nghi điển Đaminh:


P. Confiteor Deo omnipotenti, et beatae Mariae semper virgine, et beato Dominico patri nostro, et omnibus sanctis, et vobis, fratres, quia peccavi nimis, cogitatione, locutione, opere et omissione, mea culpa; precor vos orare pro me.


S.  Misereatur tui omnipotens Deus et dimittat tibi omnia peccata tua: liberet te ab omni malo, salvet et confirmet te in omni opere bono, et perducat te ad vitam aeternam.


P. Amen.”




[18] P.  Suscipe sancta Trinitas hanc oblationem, quam tibi offero in memoriam passionis Domini nostri Jesu Christi: et praesta, ut in conspectu tuo tibi placens ascendat, et meam et omnium fidelium salutem operetur aeternam.




[19] Không có lời kêu gọi cộng đoàn chúc bình an cho nhau. Thay vào đó, linh mục hôn chúc bình an được diễn tả qua việc hôn dĩa thánh.




[20] Haec sacrosancta commixtio corporis et sanguinis Domini nostri Jesu Christi fiat mihi, et omnibus sumentibus, salus mentis et corporis; et ad vitam aeternam promerendam atque capessendam praeparatio salutaris. Per eumdem Christum Dominum nostrum.  Amen.




[21] Domine Jesu Christe Fili Dei vivi, qui ex voluntate Patris, cooperante Spiritu Sancto, per mortem tuam mundum vivificasti: libera me per hoc sacrosanctum corpus et sanguinem tuum ab omnibus iniquitatibus meis, et universis malis; et fac me tuis semper inhaerere mandatis, et a te nunquam separari permittas: Qui cum eodem Deo Patre et Spiritu Sancto vivis et regnas Deus in saecula saeculorum.  Amen.




[22] Corpus et sanguis Domini nostri Jesu Christi custodiat me in vitam aeternam.  Amen.




[23] Cần phân biệt, thủa xưa, các thánh lễ Tu viện thường cử hành theo hình thức lễ Đại trào (Phụng vụ long trọng). Vậy nên mới có hai sách lễ là Lễ Tu viện và Lễ riêng.




[24] Phần này có tham khảo bài giảng Tĩnh tâm của linh mục Vinhsơn Phạm Xuân Hưng OP., dành cho cộng đoàn Tu viện Rất Thánh Mân Côi – Gò Vấp (01/04/2011).




[25] Nghi điển Roma trước Công đồng Vat. II có bốn mẫu Lời nguyện dành cho việc làm phép Tro. Tuy nhiên, không có lời nguyện nào giống như mẫu Lời nguyện trong nghi điển Đaminh.




[26] John Brook, Trường cầu nguyện của mọi Kitô hữu, 1996, tr. 182.




[27] Bảy loại là : theo Mùa (de tempore), các Thánh (de sanctis), các buổi canh thức (vigils), Tuần bát nhật (octaves), Các giờ kinh ngoại lịch (votive Offices), Các giờ Kinh kính Đức Trinh Nữ (Office of the Blessed Virgin), và Kinh cầu hồn (Office of the Dead). Năm bậc là "totum duplex", "duplex" "simplex" "of three lessons", và "of a memory".




[28] Để hiểu rõ những yếu tố cấu thành tính long trọngcộng đoàn trong phụng vụ Đa Minh thế nào, xin coi: Phan Tấn Thành, ibid., tr. 102.




114.864864865135.135135135250