07/10/2011 -

Suy tư, nghiên cứu

411

 


Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI suy niệm Thánh Vịnh 23


Thành Vatican, thứ tư 05/10/2011


 




Anh chị em thân mến,


Hướng lòng về Thiên Chúa trong cầu nguyện diễn tả một hành vi tin tưởng tuyệt đối, chúng ta tín thác vào Thiên Chúa vì biết rằng Người thật tốt lành, “là Thiên Chúa nhân hậu từ bi, Ngài chậm giận, lại giàu tình thương và lòng thành tín.”  (x. Xh 34,6-7; Tv 86,15; x. Gio 2,13; St 4,2; Tv 103,8; 145,8; Ne 9,17). Chính vì điều này mà hôm nay tôi muốn suy niệm cùng với anh chị em một Thánh vịnh dẫy tràn niềm tín thác, trong đó tác giả thánh vịnh diễn tả cách xác tín rằng chính ông là kẻ được dẫn dắt và bảo vệ, ông được đem đến chốn thanh nhàn thoát khỏi mọi hiểm nguy, bởi vì Chúa là Mục tử của ông. Đây là Thánh Vịnh 23, hay theo truyền thống La Hy là 22, là một bản văn gần gũi với mọi người và được mọi người yêu mến.


“Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì.”, lời cầu nguyện mở đầu thật đẹp, nó gợi lên khung cảnh của đời sống du mục chăn chiên và kinh nghiệm về mối tương quan hiểu biết lẫn nhau giữa người mục tử và những con chiên, hợp thành đàn chiên bé nhỏ của ông. Hình ảnh này gợi lên một bầu khí tin tưởng, thân mật, dịu dàng: người mục tử biết từng con chiên của mình, ông gọi tên từng con một và chúng theo ông bởi vì chúng cũng nhận ra ông và tin tưởng vào ông (x. Ga 10, 2-4). Ông chăm sóc chúng, ông canh giữ chúng như những của quý giá, ông sẵn sàng bảo vệ chúng, để đàn chiên của ông được sống sung mãn, được sống bình an. Khi người mục tử ở bên đàn chiên, thì chúng chẳng thiếu thốn gì. Trải qua kinh nghiệm ấy, tác giả Thánh Vịnh gọi Thiên Chúa là Mục tử của ông, và để Người dẫn dắt ông đến những đồng cỏ an toàn:


“Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ.
Người đưa tôi tới dòng nước trong lành
và bổ sức cho tôi.
Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính
vì danh dự của Người.” (cc. 2-3)


Một khung cảnh mở ra trước mắt chúng ta là những đồng cỏ xanh tươi, những dòng nước trong mát, và những ốc đảo yên bình, và người mục tử dẫn đàn chiên đang hướng về chốn ấy, đó là biểu tượng của những miền đất của sự sống, Chúa dẫn dắt tác giả Thánh Vịnh đến đất ấy, ông cảm thấy mình như những con chiên đang nằm trên đồng cỏ xanh tươi bên cạnh một dòng suối trong mát, chúng được nghỉ ngơi, không phải căng thẳng, không phải sống trong tình trạng báo động, nhưng rất thư thái và bình an, bởi vì chốn ấy là nơi an toàn, có nước trong mát, và người mục tử luôn canh giữ chúng.


Chúng ta nhớ rằng khung cảnh mà tác giả Thánh Vịnh gợi lên được đặt vào một vùng đất phần mà lớn là sa mạc, nơi ấy mặt trời chói chang thiêu đốt, ở đó người mục tử vùng Trung Đông sống với đàn chiên của họ trên những đồng cỏ khô cháy trải dài quanh các làng mạc. Nhưng người mục tử biết chỗ nào có cỏ tươi và nước trong mát, những điều thiết yếu cho cuộc sống, ông biết cách làm thế nào để đem đàn chiên đến những ốc đảo, nơi đó linh hồn “được bồi dưỡng”, có thể hồi sức và tiếp thêm năng lực mới để tiếp tục cuộc hành trình.


Như tác giả Thánh Vịnh nói, Chúa dẫn dắt ông tới "những đồng cỏ xanh tươi" và "những dòng nước trong mát”, ở đó tất cả mọi sự đều dẫy tràn, tất cả được ban tặng cách dồi dào. Một khi có Chúa là Mục Tử, thì ngay cả trong sa mạc, một nơi hiu quạnh và chết chóc, ông không chút nghi nan về sự hiện diện tuyệt đối của sự sống, đến nỗi ông có thể nói, "tôi chẳng thiếu thốn gì." Thực vậy, người mục tử luôn ấp ủ trong lòng điều tốt nhất cho đàn chiên của mình, ông điều chỉnh nhịp sống và nhu cầu của bản thân cho hoà điệu với nhịp sống và nhu cầu của đàn chiên, ông đồng hành và sống với chúng, ông dẫn dắt chúng trên những nẻo đường “ngay chính”, nghĩa là những nẻo đường thích hợp với chúng, ông lưu tâm đến những nhu cầu của chúng, chứ không phải những nhu cầu của bản thân. Sự an toàn của đàn chiên là ưu tiên hàng đầu của ông, và tuân theo nguyên tắc này, ông dẫn dắt chúng.


Anh chị em thân mến, chúng ta cũng thế, như tác giả Thánh vịnh, nếu chúng ta đi theo sau "Người Mục Tử Tốt”, dẫu có trải qua những nẻo đường bao khó khăn, gập gềnh hay ngút ngàn thế nào trong cuộc sống chúng ta, ngay cả khi trải qua những sa mạc tâm linh, không có nước, và bị mặt trời của chủ nghĩa duy lý thiêu đốt, thì dưới sự dẫn dắt của Người Mục Tử Tốt, là Đức Kitô, chúng ta chắc chắn đang đi trên những nẻo đường "ngay chính", Người dẫn dắt chúng ta, Người ở bên chúng ta và không để chúng ta thiếu thốn gì.


Đó là lý do tại sao tác giả Thánh Vịnh có thể công bố sự bình an và niềm tin tưởng mà không chút nghi nan hay dè dặt:


“Dầu qua lũng âm u
con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng.
Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm.”
(c. 4)


Ai sánh bước với Chúa thì ngay cả khi trong thung lũng tối tăm của đau khổ, của tình trạng bấp bênh và của tất cả những vấn đề của con người, đều cảm thấy an tâm. Chúa ở bên tôi: đó là niềm xác tín của chúng ta, điều đó nâng đỡ chúng ta. Bóng tối của đêm đen khiến người ta sợ hãi, những cái bóng chập chờn của đêm đen khiến người ta khó nhận ra những nguy hiểm, sự im lặng của đêm đen đầy những tiếng động khó hiểu. Nếu đàn chiên di chuyển sau khi mặt trời lặn, khi không còn thấy rõ nữa, thì những con chiên thường trở nên xáo động, vì chúng dễ bị vấp ngã hoặc tách khỏi đàn và bị lạc, và còn thêm nỗi sợ hãi vì có thể có những kẻ tấn công đang ẩn nấp trong bóng tối.


Tác giả Thánh Vịnh nói về những thung lũng "âm u", đó là cách diễn tả của người Do Thái gợi lên những bóng tối của tử thần, vì thế thung lũng phải vượt qua là một nơi đau khổ, đầy những mối đe dọa kinh hoàng và nguy hiểm chết người. Dẫu thế, người cầu nguyện vẫn tự tin tiến bước, không chút sợ hãi, bởi vì ông biết rằng Chúa ở bên ông. "Chúa ở bên tôi" là tuyên ngôn của một niềm tín thác kiên vững, và tóm tắt sự trải nghiệm của một đức tin triệt để; sự gần gũi của Thiên Chúa biến đổi thực tại, thung lũng âm u không còn nguy hiểm, không còn một đe dọa nào. Giờ đây đàn chiên có thể an tâm tiến bước, kèm với âm thanh quen thuộc của chiếc gậy đập trên mặt đất, là dấu hiệu cho biết sự hiện diện của người mục tử để trấn an đàn chiên.


Hình ảnh đầy an ủi này khép lại phần thứ nhất của Thánh Vịnh, nhường chỗ cho một khung cảnh khác. Chúng ta vẫn đang trong sa mạc, nơi người mục tử sống với đàn chiên của ông, nhưng giờ chúng ta được đưa đến lều của ông, căn lều rộng mở đón tiếp khách:


“Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù.
Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm,
ly rượu con đầy tràn chan chứa.”
(c. 5)


Giờ đây Chúa được trình bày như Đấng đón tiếp người cầu nguyện bằng những dấu chỉ của lòng hiếu khách thật quảng đại và chu đáo. Vị chủ nhà thần linh ấy chuẩn bị thức ăn trên "bàn"-đây là một thuật ngữ Do Thái, mà theo nghĩa gốc nó ám chỉ một tấm da thú được trải ra trên nền đất, trên đó người ta đặt những đĩa thức ăn cho bữa ăn thông thường. Đó là một cử chỉ chia sẻ không những thức ăn mà còn cả cuộc sống, trong sự hiệp thông và tình bằng hữu ấy, những mối liên hệ được kiến tạo và nó diễn tả sự tương trợ lẫn nhau. Kế tiếp là một món quà hào phóng, Chúa xức dầu olui thơm lừng trên đầu ông, dầu làm dịu bớt cái nắng nóng của mặt trời sa mạc, làm tươi mát và dịu làn da, gây phấn chấn tinh thần với hương thơm của nó. Cuối cùng, là chén rượu đầy tràn, lồng thêm vào đó một dấu hiệu của lễ hội, với rượu ngon được chia sẻ dồi dào. Thức ăn, dầu thơm và rượu: là những món quà khiến lòng người phấn khởi và đem lại bao niềm vui, bởi vì chúng vượt quá những gì là nhu cầu thiết yếu và chúng diễn tả lòng biết ơn cũng như sự phong phú của tình yêu. Thánh Vịnh 104 công bố và ca ngợi sự quan phòng tốt lành của Thiên Chúa: "Ngài khiến mọc cỏ xanh nuôi sống đàn gia súc, làm tốt tươi thảo mộc cho người thế hưởng dùng. Từ ruộng đất, họ kiếm ra cơm bánh, chế rượu ngon cho phấn khởi lòng người, xức dầu thơm cho gương mặt sáng tươi, nhờ cơm bánh mà no lòng chắc dạ." (cc. 14-15).


Tác giả Thánh Vịnh đã trở thành đối tượng của nhiều cặp mắt đang dò xét, vì thế ông nhận mình như một lữ khách tìm được một chỗ nghỉ trong một lều hiếu khách, trong khi đó ba thù của ông phải dừng bước, chúng thấy ông nhưng không thể làm gì được, vì người mà chúng coi là con mồi đã được đặt ở một nơi an toàn, đã trở thành một khách thánh, bất khả xâm phạm. Và chúng ta cũng sẽ là tác giả Thánh Vịnh nếu chúng ta thực sự là những kẻ tin trong sự hiệp thông với Đức Kitô. Khi Thiên Chúa rộng mở cửa lều của Người để tiếp đón chúng ta, thì không gì có thể làm hại chúng ta.


Thế rồi lữ khách lại lên đường, Thiên Chúa vẫn bảo vệ ông và đồng hành với ông trên cuộc hành trình:


“Lòng nhân hậu và tình thương Chúa
ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời,
và tôi được ở đền Người
những ngày tháng, những năm dài triền miên.”
(c.. 6)


Sự tốt lành và lòng trung tín của Thiên Chúa là đội vệ binh cùng đi với tác giả Thánh Vịnh khi ông rời khỏi lều và tiếp tục cuộc hành trình. Nhưng cuộc hành trình giờ đây mang một ý nghĩa mới, trở nên một cuộc hành hương lên Đền Thờ của Chúa, một nơi thánh, ở đó người cầu nguyện muốn "cư ngụ" mãi mãi và cũng là nơi ông muốn "trở về".  Thuật ngữ Do Thái được sử dụng ở đây có nghĩa là "trở về", nhưng với một thay đổi nguyên âm nhỏ, nó cũng có thể được hiểu là "cư ngụ", nó đã được viết như thế trong các bản văn cổ cũng như trong hầu hết các bản dịch hiện đại. Cả hai nghĩa có thể được hiểu đồng thời: trở về Đền Thờ và cư ngụ ở đó là ước nguyện của mọi người Do Thái, được sống bên Thiên Chúa trong sự thân mật và sự tốt lành của Người là ước nguyện và nỗi hoài hương của tất cả kẻ tin: có thể được sống ở nơi thực sự Thiên Chúa ở, được ở bên Thiên Chúa. Theo bước chân Người Mục Tử, Người dẫn chúng ta về nhà của Người, đó là cùng đích của cuộc hành trình, đó là một ốc đảo mà người ta mong muốn trong sa mạc, đó là chiếc lều trú ẩn khi phải chạy trốn ba thù, đó là một nơi bình an mà ở đó người ta có thể cảm nghiệm được sự tốt lành và tình yêu như nhất của Thiên Chúa, hết ngày này qua ngày khác, trong niềm vui thanh nhàn vô tận.


Những hình ảnh trong Thánh Vịnh này thật giàu ý nghĩa và sâu sắc, chúng đồng hành với chiều dài lịch sử và trải nghiệm tôn giáo của dân Ít-ra-en và cũng đang đồng hành với dân Kitô giáo. Một cách đặc biệt, hình ảnh người mục tử gợi nhắc thời đầu của cuộc Xuất hành, một cuộc hành trình dòng dã trong sa mạc, như đàn chiên dưới sự dẫn đắt của Người Mục tử Thần Linh (x. Is 63,11-14; Tv 77,20-21; 78,52-54). Và trong Đất Hứa, vị vua được trao trọng trách chăn dắt đàn chiên của Chúa, như vua Đa-vít, người mục tử được Chúa chọn và là hình ảnh Đấng Thiên Sai (x. 2 Sam 5,1-2; 7, 8; ​​Tv 78, 70-72). Rồi, sau thời lưu đày Babylon, như trải qua một cuộc Xuất Hành mới (x. Is 40, 3-5.9-11; 43, 16-21), dân Ít-ra-en đã được đưa về cố hương như con chiên bị lạc, được Chúa tìm thấy và dẫn về những đồng cỏ màu mỡ và chỗ nghỉ ngơi (x. Ed 34, 11-16, 23-31). Nhưng chỉ nơi Chúa Giêsu, tất cả sức mạnh mà Thánh Vịnh của chúng ta gợi lên mới đạt tới sự trọn vẹn, mới tìm thấy  ý nghĩa sung mãn của nó: Chúa Giêsu chính là "Người Mục Tử Tốt", Người đi tìm con chiên bị lạc, Người biết chiên của Người và trao ban sự sống cho chúng (x. Mt 18, 12-14, Lc 15,4-7; Ga 10, 2-4, 11-18), Người là con đường, một chính lộ dẫn chúng ta đến sự sống (x. Ga 14, 6), là ánh sáng chiếu soi thung lũng âm u và xáo tan mọi nỗi sợ hãi của chúng ta (x. Ga 1, 9; 8, 12; 9, 5; 12, 46). Người là chủ nhà rộng lòng tiếp đón chúng ta và giải cứu chúng ta thoát khỏi tay ba thù, Người dọn tiệc Mình và Máu của Người cho chúng ta (x. Mt 26, 26-29; Mc 14, 22-25, Lc 22, 19-20), và một bữa tiệc Thiên Sai trên trời (x. Lc 14, 15; Kh 3, 20; 19, 9). Người là vị Vua Mục Tử, một vị Vua dịu hiền và hay tha thứ, Người đã lên ngôi trên cây gỗ Thánh Giá vinh quang (x. Ga 3, 13-15; 12, 32; 17, 4-5).


Anh chị em thân mến, Thánh Vịnh 23 mời gọi chúng ta canh tân niềm tín thác của chúng ta nơi Thiên Chúa, chúng ta đặt đời mình trong bàn tay của Người. Như vậy, với đức tin, chúng ta hãy khẩn cầu Thiên Chúa ban cho chúng ta được luôn mãi tiến bước trên những nẻo đường của Người, ngay cả những nẻo đường khó khăn của thời đại hôm nay, như một đàn chiên ngoan ngoãn và vâng phục, Người sẽ dẫn chúng ta về nhà của Người, và đưa chúng ta đến bàn tiệc của Người, Người dẫn chúng ta tới “dòng nước trong mát”, nhờ đó khi lãnh nhận hồng ân Thần Khí của Ngài, chúng ta có thể trở thành những mạch nước của Người, những mạch nước hằng sống "tuôn trào sự sống đời đời" (Ga 4,14; x. 7, 37-39). Xin cám ơn anh chị em.


Phaolô Cao Chu Vũ, OP chuyển ngữ


nguồn http://www.vatican.va

114.864864865135.135135135250