30/08/2010 -

Suy tư, nghiên cứu

916

 


ĐỨC GIÊSU NHƯ LÀ NGƯỜI ANH CẢ VÀ LÀ MỘT ÔNG TỔ ?

MỘT CHÂN DUNG MẪU MỰC CỦA NGƯỜI DÂN ĐẤT VIỆT


Peter C. Phan, giáo sư thần học
tại Catholic University of America, Washington. D.C.,
Thế Hanh, OP chuyển ngữ

Trích trong “The Ling Light” số 33.


Kitô Giáo và các tôn giáo Việt Nam


Tập tục thờ kính tổ tiên của người Việt Nam


Việc thờ kính tổ tiên đường như ngược với Kitô giáo


Đức Giêsu là Người Anh Cả và là Người Con thảo hiền mẫu mực


Đức Giêsu : Một Ông Tổ


Chúng ta có thể hình dung Đức Giêsu Kitô như là một người Việt Nam chăng ? Câu hỏi như thế thực sự không viễn vông đâu. Điều này gợi lên một ý nghĩa rất thật mang tính thăm dò và thận trọng trong việc cố gắng làm cho Đức Giêsu Nazareth có ý nghĩa đối với hơn tám mươi triệu [1] người đang sống trên mảnh đất hình chữ “S” dưới chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Nam Á này…


Dĩ nhiên, Đức Giêsu là người Do Thái, một người Do Thái bên lề theo lối diễn tả của John Meier, và như vậy Ngài thật sự không bao giờ và không thể là người Việt Nam hoặc bất kỳ một công dân nước khác. Nhưng Ngài là Đấng Kitô như Giáo hội tuyên xưng đức tin. Sau khi phục sinh từ cõi chết và do sức mạnh của Thánh Thần, Đức Giêsu, một người bị giới hạn bởi văn hoá, thời gian và không gian đã trở thành Chúa vũ hoàn. Khi nghe danh thánh Người “cả trên trời dưới đất, muôn vật phải bái quỳ, và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng Đức Giêsu Kitô là Chúa” (Pl 2, 10-11). Thật vậy, ngay khi Đức Giêsu phục sinh, các tông đồ đã khi khắp mặt đất loan truyền rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô và là Chúa của tất cả mọi người cùng quy tụ tất cả những ai đón nhận sứ điệp này vào một cộng đoàn đức tin, hy vọng và yêu thương.


KITÔ GIÁO VÀ CÁC TÔN GIÁO VIỆT NAM


Kitô giáo xuất hiện tại Việt Nam vào thế kỷ XVI. Một chỉ dụ cấm truyền bá đạo của vua Lê Trang Tông (qua đời 1533) có ghi : “Giáo lý sai trái của đạo Gia Tô do một người ngoại quốc tên là I Nu Khu loan giảng tại xã Ninh Cường và Quần Anh huyện Nam Chan và làng Trà Lữ huyện Giao Thủy thuộc tỉnh Sơn Nam”. I Nu Khu là một Kitô hữu (linh mục ?) từ Malacca đến Việt Nam bằng thuyền buôn Bồ Đào Nha trên lộ trình tới Macao và ông đã quyết định vào Việt Nam loan giảng Tin Mừng. Sau I Nu Khu, những nhà truyền giáo dòng Đaminh Bồ Đào Nha thuộc tỉnh dòng Santa Cruz thành lập tại Malacca và sau đó là những tu sĩ dòng Đaminh và Phan Sinh thuộc tỉnh dòng Holy Rosary ở Manila đã đến Việt Nam. Nhưng thành quả của những nhà truyền giáo này rất mờ nhạt vì họ không biết tiếng Việt.


Kitô giáo chỉ thực sự bén rễ tại Việt Nam khi các tu sĩ dòng Tên xuất hiện năm 1615. Vào thế kỷ XVII, dưới triều đại nhà Lê, Việt Nam bị chia thành đôi, phía bắc gọi là Đàng Ngoài (Tonkin) và phía nam gọi là Đàng Trong (Cochinchina). Mỗi vị chúa thống trị một vùng.


Trong số những vị truyền giáo Dòng Tên đến Việt Nam, vị thừa sai người Pháp, cha Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes ‘1593-1660’) là người nổi bật hơn cả. Cha thực sự là đấng thành lập Kitô giáo tại Việt Nam. Cha Đắc Lộ từ Macao đến Đàng Trong tháng 12 năm 1624 và đã học tiếng Việt đến tháng 6 năm 1626 khi cha được gọi trở về Macao. Tháng 3 năm 1627, cha được sai đến Đàng Ngoài. Cha đã làm việc tại đây ngót ba năm. Sau đó cha bị trục xuất và trở về Macao vào tháng 5 năm 1630. Trong suốt thời gian thi hành sứ vụ ở Đàng Ngoài, cha đã rửa tội cho 5.602 tân tòng. Sau một thập kỷ dạy thần học tại Macao, năm 1640 cha lại được sai đến Đàng Trong. Suốt 5 năm tiếp theo, cha năm lần bẩy lượt hết về Macao rồi lại đến Việt Nam để giảng dạy miễn là những nhà chức trách cho phép. Năm 1645, cha bị trục xuất vĩnh viễn khỏi Đàng Trong. Suốt hành trình truyền giáo lần thứ hai tại đây, cha Đắc Lộ đã rửa tội cho khoảng 3.400 người. Ngay sau đó, cha trở về Rôma thỉnh cầu Đức thánh cha gởi Giám mục tới Việt Nam. Nỗ lực của cha đã đạt kết quả. Năm 1659 hai Giám mục được phái đến Việt Nam, mỗi vùng một vị.


Ngoài việc thiết lập Kitô giáo tại Việt Nam, cha Đắc Lộ còn đóng góp hết sức mình cho nền văn hoá Việt Nam. Là một người có khả năng đặc biệt về ngôn ngữ, cha đã hoàn thành hệ thống ngôn ngữ Việt Nam theo kiểu chữ Rôma, kiểu chữ hiện nay chúng ta đang sử dụng. Với sự hỗ trợ của tổ chức Truyền Bá Đức tin ở Rôma, năm 1651, cha xuất bản cuốn tự điển Việt-Bồ-La và một cuốn Văn phạm tiếng Việt. Gia sản quan trọng nhất cho giáo hội Việt Nam là cuốn sách bổn của ngài “Giáo lý cho những người muốn nhận phép rửa, Phép giảng Tám Ngày” cũng được xuất bản năm 1651.[2] Đây là cuốn giáo lý Việt Nam đầu tiên. Sách được trình bày bằng chữ Việt mới và những đoạn văn Latinh xếp cạnh nhau.


Kitô giáo không phải là tôn giáo đầu tiên đến Việt Nam. Ngay từ thế kỷ thứ nhất, Việt Nam đã bị Trung Quốc đô hộ (một ngàn năm đô hộ giặc Tàu) và như thế Phật giáo, Khổng Giáo và Lão giáo đã du nhập vào Việt Nam từ thời đó. Ba tôn giáo này đã trở thành nền móng cho những hệ thống đạo đức, giáo dục và xu hướng chính trị của dân tộc Việt Nam. Kitô giáo đến sau nên đã chịu ảnh hưởng rất lớn từ những tôn giáo có trước vàphải biết ơn trước những nét cổ điển của những tôn giáo này.


Ba tôn giáo ngoại nhập này không hình thành một sự vô nghĩa tôn giáo. Thật sự từ xa xưa, người Việt Nam đã có một tôn giáo bản xứ liên quan đến việc thờ vật linh hay thờ cúng các thần linh. Đứng đầu hệ thống thần thánh của Việt Nam là Ông Trời. Trên bầu trời người ta nhận thấy có một Đấng có bản vị, siêu việt, nhân từ, và đúng là Thiên Chúa, Đấng tạo tác nên vũ trụ này, nguồn mạch của mọi sự sống và là vị thẩm phán tối cao. Lễ tế Trời trọng thể chỉ dành cho vua không mà thôi. Vua là con của Trời, là Thiên Tử, người đã nhận được lệnh từ Trời là phải tế Trời mỗi năm một lần. Từ thế kỷ XIX, việc tế lễ này được diễn ra ba năm một lần trong một nghi lễ trang trọng gọi là Nam Giao (theo nghĩa đen “gặp nhau ở phía nam”, bởi vì tế đàn được đặt ở phía nam cung điện).


Cạnh việc tế Trời, người Việt Nam tin rằng còn có vô vàn vô số các thần linh. Chúng ta có thể phân thành ba loại : Thần ( những vị Thành Hoàng bảo vệ làng, huyện, tỉnh, dân tộc), ma (những linh hồn của người chết) và quỷ (thế lực hung ác).


TẬP TỤC THỜ CÚNG TỔ TIÊN CỦA NGƯỜI VIỆT NAM


Điểm trọng tâm nơi tín ngưỡng của người Việt Nam – Khổng giáo đã củng cố - là việc thờ cúng ông bà tiên tổ. Môn nhân học Việt Nam lưu truyền rằng người ta có ba hồn và bẩy phách hoặc vía nơi người đàn ông và chín ở đàn bà. Theo nguyên lý âm thì phách (hay vía) đi vào cơ thể lúc thụ thai và không còn sống khi cơ thể đã chết. Theo nguyên lý dương thì hồn đi vào cơ thể lúc sinh ra và chúng bất tử.


Để hiểu được việc thờ cúng tổ tiên của người Việt, chúng ta hãy tưởng tượng một cụ ông đang hấp hối. Trong thời gian cụ hấp hối, người trai cả đặt một mảnh vải trắng dài khoảng hơn hai mét trên ngực cụ để tập hợp hơi thở. Khi cụ vừa tắt thở, một thành viên trong gia đình, thường là người trai cả, trèo lên mái nhà, tay cầm chiếc áo của người quá cố và la lên ba hồi : “Bớ ba hồn bẩy vía của cha tôi ! Hãy trở về nhập vào xác của người đang nằm trong quan tài”. Hình thức này gọi là chiêu hồn. Mục đích chiêu hồn để tránh cho người chết không trở thành một linh hồn mồ côi vì không có một nơi cư ngụ trên bàn thờ gia tiên. Thế rồi miếng vải trắng được gấp lại hoá thành hình bóng một cơ thể con người. Tấm vải trắng này chính là hồn người đã khuất được gọi là hồn bạch và được đặt gần quan tài để cúng bái.


Trước khi đưa thi thể ra nghĩa trang, người ta cử hành một nghi thức rất quan trọng gọi là chuyển cữu và giới thiệu với tổ tiên. Quan tài hoặc ít là hồn bạch được mang tới nhà thờ tổ, tại đây trưởng tộc hoặc thường là con trai cả báo cho gia tiên biết rằng một người con cháu đã trở về với họ. Sau khi an táng, hồn bạch được thay thế bằng bài vị. Bài vị bằng gỗ có hai mặt, một mặt ghi thân thế gia cảnh, sự nghiệp, địa vị của người đã khuất, mặt kia ghi ngày sinh và ngày tử. Bài vị được mang về đặt trên bàn thờ gia tiên nơi nhà của người con trai trưởng.


Một trăm ngày sau khi cha hoặc mẹ mất, người con trai trưởng cúng ba lễ cầu cho người quá cố an nghỉ bình yên và đọc lại lời thỉnh cầu như sau : “Xin vong hồn của cha hạ cố trú ngụ trong tấm bài vị này”. Lúc này, người ta không giữ hồn bạch nữa. Gia đình đặt bài vị trên bàn thờ gia tiên theo bốn đời, theo thứ tự từ trái sang phải : bắt đầu là ông bà cố tổ, ông bà cố, ông bà nội ngoại và cha mẹ.


Con cháu thường tổ chức cúng tế trọng thể vào những ngày giỗ thứ nhất, nhì, ba để ôn lại những những kỷ niệm làm rạng danh cho người đã khuất. Ngoài những ngày giỗ, việc thờ cúng tổ tiên còn được tổ chức trọng thể vào những ngày đầu tết âm lịch. Với lễ vật và hương trầm nghi ngút khói, cháu con rước ông bà ông vãi về ăn tết. Đến mùng ba tết, người ta tổ chức nghi thức tiễn ông bà ông vãi. Dân Việt tin rằng tổ tiên của họ luôn hiện diện với họ. Thật vậy, không có dịp quan trọng nào trong đời sống của gia đình Việt Nam mà người ta không mời tổ tiên về chia se, chứng dám chẳng hạn như việc sinh con, ma chay, cưới hỏi, thi đậu, thăng quan tiến chức, mừng thượng thọ…


Thậm chí ngày nay, nhiều nghi thức nêu trên không còn thực hiện nữa, nhất là người dân thành phố, nhưng người Việt Nam vẫn tiếp tục thờ cúng tiên tổ của mình với lòng kính trọng mãnh liệt sâu xa nhất. Hình thức chung của việc thờ kính là vái, lạy : người ta chắp tay trên trán, thường là cầm nhang nữa, sau đó họ quỳ gối, đưa hai tay lên qua đầu, sau đó kéo chúng lại đang khi cúi rạp người ba bốn lạy chạm đất.


VIỆC THỜ CÚNG TỔ TIÊN DƯỜNG NHƯ NGƯỢC VỚI KITÔ GIÁO


Lần đầu các thừa sai Kitô giáo đến Trung Quốc phải đối đầu với ba vấn đề : (1) hạn từ dùng để gọi Thiên Chúa; (2) Kitô hữu Trung Quốc có được phép thờ cúng tổ tiên và thờ cúng tổ tiên theo như Khổng giáo hay không; (3) Người ta thích nghi thức tế lễ theo truyền thống Trung Quốc hơn làlễ nghi Latin (?).


Trong ba vấn nạn trên, vấn nạn thứ ba được thảo luận nóng bỏng nhất. Các thừa sai dòng Tên, đặc biệt là Matteo Ricci (1552-1610) cho rằng việc thờ cúng của Khổng Giáo và thờ cúng tổ tiên hoàn toàn mang tính dân sự và có ý nghĩa chính trị, vì thế người Kitô hữu được phép thực hiện. Mặt khác, các thừa sai dòng Đaminh và Phan sinh và các thành viên của Hội Thừa Sai Paris coi như là hình thức tôn giáo, mê tín, do đó cấm người Kitô hữu thực hiện. Sau khi Toà Thánh và đặc biệt là Đức Giáo Hoàng Bênêdictô XIV khiển trách năm 1742 (Ex quo singulari), các “nghi lễ Trung Hoa” được công bố trong Propaganda Fide chấp nhận cho người Kitô hữu thờ cúng tổ tiên vì toà thánh cho rằng việc cúng tế hoàn toàn mang tính dân sự chứ không mang ý nghĩa tôn giáo.[3]


Khi đến truyền giáo tại Việt Nam, cha Đắc Lộ nhận thức rất rõ việc thờ cúng tổ tiên là trái tim, linh hồn của tôn giáo và đạo đức của người Việt nên cha cấm ngặt. Nhiều lễ nghi liên quan đến việc thờ cúng này, chẳng hạn như cúng thức ăn cho người chết cha Đắc Lộ coi đó là những việc vô bổ và mê tín. Tuy nhiên, việc thờ cúng tổ tiên chưa phải là lý do chính. Vấn đề trở nên phức tạp hơn vì cha Đắc Lộ nhận thấy rằng lý do then chốt của việc thực hành trái với luân thường đạo lý nơi đất nước này là tục đa thê. Một người đàn ông không có con trai theo tục lệ phải cưới một người vợ khác để có con trai cúng tế tiên tổ, nối dõi tông đường. Mặt khác, chính quyền Việt Nam nhận thấy rằng Kitô giáo là “đạo của Bồ Đào Nha”. Và như vậy Kitô giáo trở thành mối lo ngại đối với những nhà cầm quyền trước trật tự xã hội trong quốc gia khi Kitô giáo làm suy yếu phần nào quyền lợi của họ.


Ngay khi loại bỏ những thực hành đạo lý mà cha Đắc Lộ cho là không thích hợp, cha cố gắng liên kết việc thờ cúng tổ tiên vào việc tôn thờ Thiên Chúa. Cha đề ra ba tiêu chuẩn đối với tổ tiên : Trước tiên là bổn phận đối với Chúa, sau nữa là đối với vua và cuối cùng là đối với chamẹ. Cha cho rằng nghi lễ tế Nam Giao là lúc vua thờ kính Thiên Chúa, là Ông Tổ của đất nước. Sau nghi lễ này thì những quan lại và thường dân kính vua bằng sự vâng phục người như là vị cha thứ hai của quê hương. Cuối cùng cha Đắc Lộ nói : “Khi mọi người trở về nhà thì họ thờ cha kính mẹ cùng tổ tiên theo vai trò của từng vị nhưng thờ kính ở cấp độ thứ ba, cấp độ thấp nhất” [4]. Khuyến khích người Việt Nam thảo hiếu với mẹ cha, người vẽ ra chân dung điển hình của người cha người mẹ thế này :


“Chúng ta phải biết ơn mẹ vì người đã thai nghén, mang nặng trong chín tháng mười ngày và sanh chúng ta trong nỗi đau quằn quại, nuôi nấng và chăm bón chúng ta suốt ba năm. Người mớm cơm cho con ta. Người ăn những miếng chua cay còn của ngon của ngọt thì dành cho ta. Khi mưa dột, mẹ nằm ở chỗ ẩm ướt còn nơi khô ráo mẹ dành cho con. Sau khi con chào đời, người cha luôn lo lắng cho tương lai con cái. Cha thức khuya dậy sớm, chạy ngược chạy xuôi, làm hết nghề này đến nghề khác ước mong kiếm tiền nuôi con khôn lớn. Đó chính là lý do con cái phải hiếu thảo với cha mẹ mình. Đời đời những người con không biết hiếu thảo vâng lời mẹ cha đều là những đứa con hư hỏng”. [5]


ĐỨC GIÊSU LÀ NGƯỜI ANH CẢ VÀ LÀ NGƯỜI CON THẢO HIẾU MẪU MỰC


Theo tôi, Giáo hội quan niệm việc thờ cúng tổ tiên là một thực hành dân sự, không mang ý nghĩa tôn giáo và hơn nữa chấp nhận cho các Kitô hữu thực hành như là một cung cách truyền giáo hữu hiệu là một một quyết định tai hại. Thật vậy, khi truyền giáo tại Việt Nam việc giáo hội chấp nhận hình thức thờ cúng tổ tiên như là một hành động hoàn toàn mang tính dân sự thì Giáo hội đã phá đổ ý nghĩa sâu xa nhất của nó. Đâu còn nghi ngờ gì nữa, chính phủ đã chống lại quan niệm đó. Họ xác định rằng việc thờ cúng tổ tiên của người Việt hoàn toàn mang tính tôn giáo và là cách thể hiện lòng thảo hiếu của dân Việt. Con cái có bổn phận thờ cúng mẹ cha sau khi các ngài đã qua đời. Đây là phẩm hạnh nền tảng của nền đạo đức Việt Nam tương tự như Agape nơi Kitô giáo vậy. Với ước muốn khôi phục lại ý nghĩa tôn giáo của việc thờ cúng tổ tiên đối với những Kitô hữu Việt Nam, có lẽ sẽ hữu ích khi chúng ta xem Đức Giêsu như là một người anh cả giúp cho Kitô hữu thể hiện trọn vẹn bổn phận thảo hiếu của mình và Đức Giêsu như là một vị tổ tiên họ phải phụng thờ.


Đức Giêsu là một người Do Thái, hoà nhập như một người Do Thái và sống như người Do Thái trong suốt cuộc đời của Người. Vì vậy Người am hiểu tất cả những truyền thống Do Thái về đời sống gia đình và bổn phận con cái đối với cha me trong luật Torah. Chắc chắn Người biết rất rõ khoản luật : “Ngươi hãy thờ cha kính mẹ như Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi đã truyền cho ngươi, để được sống lâu và để được hạnh phúc trên đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa đã ban cho ngươi” (Đnl 5,16). Đối với chàng thanh niên giàu có, anh đã hỏi Đức Giêsu anh phải làm gì để được cuộc sống đời đời thì Đức Giêsu trả lời rằng ngoài những bổn phận khác, anh phải thảo kính cha mẹ (Mt 19,18). Là một bậc thầy khôn ngoan, ắt hẳn Người phải biết điều sách Châm Ngôn dạy : “Hỡi con, lệnh cha con truyền hãy lo tuân giữ, lời mẹ con dạy chớ bỏ ngoài tai. Những lời truyền dạy đó, con hãy khắc trong tim, con hãy đeo vào cổ để ghi nhớ đêm ngày” (Cn 6,20-21). Sau biến cố lạc mất tại đền thờ lúc 12 tuổi, Giêsu là nguyên cớ làm cha mẹ phải lo lắng vì đã ở lại Giêrusalem mà họ không biết. Sau đó Giêsu được gọi về nhà và “hằng vâng phục các ngài” và “ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ơn nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta” (Lc 2,51). Chống lại những người Pharisêu và kinh sư vì họ nên án Đức Giêsu phá vỡ truyền thống của tổ tiên, Người trả lời :


“Tại sao các ông dựa vào truyền thống của các ông mà vi phạm điều răn của Thiên Chúa ? Quả thế, Thiên Chúa dạy : ‘Ngươi hãy thờ cha ính mẹ, kẻ nào nguyền rủa cha mẹ thì phải bị xử tử’. Còn các ông, các ông lại bảo : ‘Ai nói với cha với mẹ rằng : những gì con có thể giúp cha mẹ, đều là lễ phẩm dâng cho Chúa rồi thì người ấy không phải thờ cha kính mẹ nữa’. Như vậy các ông dựa vào truyền thống của các ông mà hủy bỏ lời Thiên Chúa”. (Mt 15,4-5)


Vì là “con cả” (Lc 2,7 ; Mt 1,25), Đức Kitô là “Sức mạnh của Cha, tinh hoa sinh lực của Cha” (St 49,3 ; Đnl 21,17) và là “Con đầu lòng” (Xh 13,2.12-15 ; Ds 18,15), điều này nhấn mạnh về hai phương diện cả dòng dõi thuộc về cha và dòng dõi thuộc về mẹ. Vì là con trai cả, Ngài thuộc về Giavê và phải hiến dâng cho Người (Xh 13,2 ; 12-15 ; Ds 3,11-13 ; Lc 2,22-24). Chính vì thế, không những Ngài chỉ thiết lập sự liên tục trong gia đình nhưng còn thiết lập được tính liên tục và kiên bền mối tương quan giao ước giữa Israel và Thiên Chúa. Vì là con trai cả, Đức Giêsu được hưởng những ân huệ đặc biệt về “quyền thừa kế” : một di sản dồi dào, sự chúc lành đặc biệt của người cha, trở thành người lãnh đạo gia đình và được đặt ở nơi danh dự trong bàn ăn (St 25,5-6; 27,35-36 ; Đnl 21,15-17).


Tương tự tổ tiên người Việt, người Israel cũng có ý thức rất lớn về đặc tính, sự bảo trợ và trách nhiệm nơi “Ngôi nhà tổ” (Father’s house). Ngôi nhà đó bao gồm tộc trưởng, vợ, con trai, con dâu, con rể, cháu chắt chút chít trong dòng tộc, những người dưới quyền của tộc trưởng. Cũng giống như gia đình truyền thống Việt Nam, gia đình Israel cũng là một phần của thị tộc rộng lớn (người Việt gọi là họ hoặc tộc ; người Do Thái gọi là mispaha). Trong trường hợp này, Đức Giêsu cũng bị giới hạn bởi những bổn phận của một người cứu chuộc dòng tộc như : người báo thù cho dòng tộc, người bảo tồn giống nòi cho người họ hàng đã khuất, giải phóng cho những người thân khỏi nợ nần vànô lệ, giống như con trai cả Việt Nam trong vai trò trưởng tộc đó là bị giới hạn bởi những trách nhiệm thờ cúng tổ tiên.


Dĩ nhiên, niềm tin Kitô đã dạy chúng ta rằng người Cha thực sự của Đức Kitô chính là Giavê. Tin Mừng diễn tả Đức Giêsu liên kết với Đức Chúa Cha bằng tình yêu dịu dàng nhất và cảm xúc mạnh liệt nhất. Cách riêng trong Tin Mừng thứ tư , lời từ biệt đã diễn tả mối tương quan giữa Đức Giêsu và Chúa Cha bằng những hạn từ thân thiết nhất (dĩ nhiên tác giả Tin Mừng không thể thuật lại nguyên văn cuộc đối thoại của Đức Kitô), điều tất yếu Tin Mừng muốn nói với chúng ta rằng Đức Kitô gọi Thiên Chúa là “Abba” (cha ơi). Đây là cách xưng hô của con thơ dành cho cha. Trong Tin Mừng Mt 11,25-27, chúng ta cũng có một chứng tích hết sức quý giá diễn tả tương quan giữa Đức Kitô với Cha của Người. Trong vườn Gethsemane, Đức Giêsu đã thể hiện sự vâng lời tuyệt đối vào Thiên Chúa Cha (Mt 26,39) ; và đang khi bị treo trên thập giá, Đức Giêsu đã thốt ra những lời đầy tín nhiệm vào Người: “Lạy Cha, con xin phó linh hồn trong tay Cha” (Lc 23,46).


Thật vậy, Đức Giêsu đã thể hiện lối sống mẫu mực về lòng thảo hiếu. Nếu là một người Việt Nam, Ngài sẽ được công nhận là một bậc tổ tiên đáng kính trọng theo như cách Ngài đã biểu lộ lòng hiếu thảo đối với những người trong dòng tộc của mình, những người đã góp phần làm cho Người trở thành chính Người.


ĐỨC KITÔ GIÊSU, MỘT ÔNG TỔ


Chúng ta có thể chấp nhận Đức Giêsu như là một vị tổ tiên theo cách những thần học gia Phi Châu đề xướng. Theo cách đó, tôi xin đưa ra những cách thức có thể diễn tả Đức Giêsu như là một vị tổ tiên của người dân đất Việt. Trước tiên, qua cái chết, con người sẽ về với tổ tiên. Như chúng ta đã biết, trong nghi thức chuyền cữu, quan tài hay ít nhất là hồn bạch được đưa về ngôi nhà tổ, ở đây, con trai cả của người đã khuất giới thiệu với tổ tiên rằng một người con cháu vừa về với họ. Tuy nhiên, người vừa khuất chưa trở thành một bậc tổ tiên bao lâu bài vị của họ chưa được đặt trên bàn thờ tổ tiên. Người ta tin rằng linh hồn của người đã khuất ban đầu cư ngụ trong hồn bạch rồi sau đó cư ngụ trong bài vị.


Cha Léopold Cadière thuộc Hội Thừa Sai Paris đã sống tại Việt Nam hơn mười lăm năm và là một học giả nghiên cứu văn hoá Việt Nam, ông đã diễn tả rất rõ về sự hiện diện của tổ tiên trong gia đình :


“Ông bà tổ tiên cư ngụ trong gia đình không ở trong tình trạng thụ động đâu, họ hiện diện một cách chủ động. Thông thường, uy thế của họ có ảnh hướng rất lớn đến hạnh phúc của những thành viên đang sống trong gia đình. Ngay khi cháu con thi hành những bổn phận tỏ lòng hiếu thảo vào những ngày cúng tế, giỗ chạp thì tổ tiên ban cho con cháu tất cả những điều cần thiết như hạnh phúc, bình an. Sự hiện diện của tổ tiên được cảm nghiệm bằng tất cả những điều tốt lành thiện hảo họ dành cho cháu con. Nhưng nếu cháu con chọn nơi phần mộ không xứng đáng hoặc là quên dâng cúng tế hay nếu như cháu con thờ ơ đối với tổ tiên thì tổ tiên sẽ trả thù hoặc tiến xa hơn là trừng phạt cháu con vì tội lỗi đó. Lúc bấy giờ con cháu phải thỉnh ý một thầy địa lý hoặc một thầy số, làm theo sự hướng dẫn của ông ta, chuyển hài cốt của tổ tiên đến một nơi xứng đáng để chuộc lại lỗi lầm vì đã làm cho tổ tiên phải bực mình” [6].


Cái chết của Đức Giêsu là việc chuển trạng thái về với tổ tiên là điều hiển nhiên. Ngoài ra, người ta không tự nhiên trở thành tổ tiên qua cái chết. Một người chỉ được gia nhập vào cộng đoàn tổ tiên khi bài vị được đặt trên bàn thờ tổ tiên và được cháu con thờ kính. Như vậy, Đức Giêsu được xem như là một vị tổ tiên ở bốn lý do : Dòng dõi của Người giữa những người đã khuất, sự phục sinh của Người được tán tụng, Người trở thành Ađam mới và những môn đệ của Người đã tôn thờ Người.


Tuy nhiên, 1Pr 3,18-19 và câu nói : “Ngài xuống ngục tổ tông” được giải thích rằng : họ có thể được nhấc lên, nghĩa là Đức Giêsu đã đi vào thế giới tổ tiên của Ngài, qua những bậc tổ tiên, Đức Giêsu được gia nhập vào thị tộc và bộ tộc của mình và những người đã giao ước (kết ước). Việc Đức Giêsu mang ơn cứu độ đến cho những người đã khuất có thể so sánh với nghi lễ Việt Nam gọi là phần hoàng[7]. Khi một người đạt được chức quan lớn, vua sẽ ban một sắc phong tấn chức cho cha mẹ đã khuất của vị quan đó. Trong nghi lễ trang trọng , bản sắc phong được đốt trước bàn thờ tổ tiên. Đây là danh dự lớn nhất con cái dành cho cha mẹ, một biểu hiện sống động nhất để bày tỏ lòng thảo hiếu và là phút giây hạnh phúc nhất vì toàn bộ cháu con quây quần bên bàn thờ tổ tiên. Lúc này người con trai được xem như quý tử. Tương tự như thế, bằng việc đem ơn cứu độ đến cho tổ tiên, Đức Giêsu đã làm cho họ cùng được chia sẻ với vinh quang của chính Ngài.


Sự phục sinh của Đức Giêsu được tán tụng và tôn vinh như là bậc tổ tiên. Ngài không còn chết nữa, Ngài đang sống, đang cư ngụ giữa chính gia đình con cháu thiêng liêng của Ngài, nơi anh chị em của Ngài như là những bậc tổ tiên đang sống thật sự và hiện diện trong ký ức của con cháu họ. Tương tự như một bậc tổ tiên, Đức Giêsu hiện diện trong cuộc sống của những ai theo Ngài. Ngài hiện diện với họ trong những buổi họp mặt, trong những sinh hoạt của họ, trong những lời Ngài nói với họ và trong những ân huệ Ngài ban cho họ, đặc biệt là nơi Mình và Máu thánh của Ngài.


Là một bậc tổ tiên nhân từ, Đức Giêsu bảo vệ và chúc phúc cho con cháu tinh thần của Người, tưới gội cho họ muôn vàn điều tốt, đặc biệt là ban Thánh Linh của Ngài để hướng dẫn cháu con trở về ngôi nhà tổ tiên, nhà của Thiên Chúa Cha.


Tin Mừng nhiều lần giới thiệu Đức Giêsu như là Ađam mới, vị tổ tiên của dòng dõi nhân loại mới. Thánh Lu-ca liên kết mạch lạc gia phả của Đức Giêsu tới tận Ađam. Thánh Mác cô diễn tả Đức Giêsu sống giữa loài giã thú (Mc1,13). Sau bài tán tụng của Phaolô (Pl 2,6-11) là một hình thức tương phản giữa Ađam cũ và Ađam mới. Ađam cũ đòi được bằng Thiên Chúa còn Đức Giêsu, Ađam mới không nghĩ mình ngang hàng với Thiên Chúa. Cạnh đó, những đoạn văn tương tự như Cr 5,45-49 và Rm 5,12-21 cũng diễn tả sự tương phản như thế : Ađam đầu là người con bất tuân (“không vâng phục”) ; Ađam mới là người con thảo hiếu (“vâng phục”), Ađam đầu là vị tổ tiên tồi đã mang con cháu đến cái chết và sự kết án còn Ađam mới là vị tổ tiên tốt đã phục hồi cuộc sống và bào chữa cho cháu con.


Sau cùng, cũng giống như bao vị tổ tiên nhận sự thờ kính của cháu con ruột thịt của họ thì Đức Kitô cũng nhận sự thờ lậy của những cháu con tinh thần. Như đã trình bày ở trên, việc thờ kính tổ tiên không phải là một biểu hiện lòng thảo hiếu với đấng sinh thành mang tính dân sự, xã hội, nhưng là hành động mang tính tôn giáo. Dĩ nhiên, rất cần phân biệt rõ ràng giữa latreiadouleia, giữa việc tôn thờ Thiên Chúa và việc tôn kính các thánh và tổ tiên. Nhưng sự phân biệt như thế không hề làm giảm thiểu, làm mất đi nét đặc sắc của việc tôn kính tổ tiên.


Toàn bộ bài suy tư thần học này mang ý nghĩa tượng trưng và tương đồng. Lối diễn tả Đức Giêsu như là người con cả, một người con thảo hiếu mẫu mực và là một bậc tổ tiên đều theo nguyên tắc tượng trưng và tương đồng. Quan điểm này rất cần được trân trọng. Dĩ nhiên, chúng ta không nói Ngài như là một vị tổ tiên mang tính hận thù nếu cháu con không phụng thờ Ngài. Đặc biệt, việc tôn kính tổ tiên dành cho Ngài phải mang một ý nghĩa sâu sa nhất. Nghĩa là Đức Giêsu phải được xem như là một vị tổ tiên cao trọng và hoàn hảo nhất. Ngài phải được gọi là “nguyên tổ tiên” (pro-ancestor) như các thần học gia Phi Châu đã gọi.


Rất nhiều danh hiệu được dành cho Đức Kitô trong truyền thống Kitô giáo. “Tổ tiên” không phải là hạn từ kinh thánh hoặc truyền thống nhưng nó lại rất có ý nghĩa đối với hàng tỉ người Á Châu mà đối với họ những tước hiệu mang tính thần học Kitô như Messiah thì đọc thật khó hiểu, thậm chí không thể chuyện dịch nữa. Chính vì vậy, mặc dù có nhiều hạn chế thiếu sót về điểm này, chúng ta phải liều lĩnh để hình dung ra Đức Giêsu như là một người con cả, một bậc tổ tiên. Đức Giêsu Kitô là một người Việt Nam chăng ? Với tất cả những ý nghĩa vừa nêu trên, ta có thể trả lới : Đức Giêsu là một người Việt Nam.


Thế Hanh, OP


 




 






[1] Xin được điều chỉnh theo hiện tình. Tác giả viết 70 triệu…


[2] Cathechismus pro ijs, qui volunt suscipere baptismum in octodies divisus (Rome : Sacted Congregation of Propaganda Fide, 165).


[3]Số 4 ở trong bản dịch


[4] Cathechismus, 23


[5] Cathechismus, 18


[6] Croyances et pratiques religieses des vietnamiens, cuốn I (Hà Nội xbản 1944) tr. 39


[7] Các vị tam tứ đại nếu được phong vì con cháu, nếu đã qua đời, con cháu phải làm lễ thần hoàng, nghĩa là đốt sắc đê cáo với các cụ được truy phong. Trước hết, bản sắc phong được sao rao ra một tờ giấy vàng, rồi đặt cả hai bản lên mâm, đệ lên bàn thờ. Người chủ (tức vị quan là con cháu cụ) đốt hương và khấn lễ, đọc một bài văn nêu việc phong tặng của triều đình cho cha mẹ cùng chức tước được phong. Sau đó một người đọc bản sắc của nhà vua. Lễ xong, bản chính được giữ lại thờ, còn tờ sao được đem đốt (phần hoàng). Làm lễ ở nhà xong, chủ nhân lại sửa lễ ra đình cáo yết thần linh. (Chú thích của người dịch).




 


.

114.864864865135.135135135250