27/04/2011 -

Suy tư, nghiên cứu

407

 


 


Đôi Cánh Tình Yêu


(con đường của thánh nữ catarina siena)


thân tặng các nữ tu Đa Minh Việt Nam


MARY ANN FATULA, OP.


 


Chương IX: Chúa Ba Ngôi, Vực Thẳm Tình Yêu


 


“Lạy Chúa, con tìm thánh nhan Ngài, xin Ngài đừng ẩn mặt” (Tv 27:8-9). Khi ngày càng tín thác vào sự quan phòng của Thiên Chúa, tất nhiên Catarina tiến đến chỗ đối diện với chính mầu nhiệm Thiên Chúa. Chị thấy việc Thiên Chúa tự mặc khải không phải là điều mà ta giành giật được, nhưng là một hồng ân tuyệt hảo, hồng ân mà chị khát khao. Thế nhưng, càng sống ẩn mình trong căn phòng nội tâm, Catarina càng nhận thấy mình khao khát Thiên Chúa, cũng như Thiên Chúa khao khát ban chính mình cho chị. Thiên Chúa, đấng bày tỏ chính mình cho chị, không phải là một cái hố trống rỗng không có hình dạng, nhưng là đấng mà tổ phụ Abraham mong ước thấy mà không được, đấng mà Chúa Giêsu đã mặc khải là Ba Ngôi thân thiết: Cha, Con và Thánh Thần. Trong niềm vui và sự thân mật khó tả của Ba Ngôi, Catarina không những khám phá ra căn tính và mục đích của mình, mà cả của vũ trụ nữa.


“CHÚNG TA HÃY DỰNG NÊN LOÀI NGƯỜI


THEO HÌNH ẢNH VÀ GIỐNG NHƯ CHÚNG TA” (St 1:26)


Catarina suy tư về mầu nhiệm con người mà chương I sách Sáng thế đã mặc khải. Chúng ta, những sinh linh, được Chúa biết và yêu thương mà ban sự sống; chính sự hiện hữu của chúng ta chứng tỏ Thiên Chúa yêu quí chúng ta một cách đặc biệt, vì chúng ta hiện hữu chỉ vì chúng ta được yêu thương. Catarina thưa với Chúa trong lúc cầu nguyện, “Chúa thấy con và biết con trong chính Chúa. Chúa yêu thương các tạo vật của Chúa và Chúa làm nên các tạo vật từ chính Chúa.” Chị nghe thấy trong tâm hồn mình lời Chúa nói với ngôn sứ Giêrêmia: “Trước khi tạo thành con trong lòng mẹ, Cha đã biết con” (Gr. 1:5). Người nào Chúa biết tường tận thì Chúa cũng yêu thương và đưa vào đời sống bằng tình yêu đó.


Chương đầu sách Sáng thế mặc khải cho Catarina mầu nhiệm về căn tính con người, vì trong đoạn này, chị thấy mỗi người chúng ta  đã được Chúa biết đến và yêu quí trước khi vũ trụ hiện hữu. Vì Chúa đã yêu thương mà cho chúng ta hiện hữu “theo hình ảnh và giống như” Ba Ngôi, nên lòng dạ mà từ đó Chúa kéo chúng ta ra chẳng phải là một khoảng không trống rỗng, nhưng là chính vực thẳm của trái tim Thiên Chúa. Khi suy tư về mầu nhiệm này, chị nhận thấy chị sẽ chỉ biết được con người thật của mình trong Thiên Chúa và như phản ảnh của tình yêu Thiên Chúa. “Lạy Thượng đế vĩnh cửu, trong bản tính của Chúa, con sẽ biết được bản tính của con. Và lạy Tình yêu vô biên, bản tính của con là gì? Đó là lửa, vì Chúa không là gì khác hơn là lửa tình yêu. Và… Chúa đã tạo dựng nên con bằng lửa tình yêu.”


“Chúng ta hãy dựng nên” loài người “theo hình ảnh, giống như chúng ta” (St 1:26). Sự tương phản giữa những lời này và những lời Chúa phán để tạo dựng những vật khác đánh động tâm hồn Catarina một cách mạnh mẽ. Lời nói không chỉ rõ ngôi vị trong câu “Hãy có”, giúp chị hiểu thêm tiếng hô của Thiên Chúa mầu nhiệm, “Nào chúng ta hãy tạo dựng” loài người. Thiên Chúa Ba Ngôi tạo dựng tất cả vạn vật trong vũ trụ, nhưng Chúa tán dương sự sống của con người với niềm vui đặc biệt.  Catarina thấy trong câu St 1:26 những ám chỉ về sự viên mãn nhiệm mầu của Thiên Chúa được mặc khải nơi Đức Giêsu, vì tiếng hô “Chúng ta hãy tạo dựng” loài người nói cho mỗi người chúng ta biết câu truyện tạo dựng mỗi người như là ân huệ của tình yêu và sự chuẩn nhận của Ba Ngôi Thiên Chúa.


Khi suy gẫm câu St 1:26, Catarina tìm thấy căn tính và mục đích của mình trong sự viên mãn mầu nhiệm của Thiên Chúa. Chúa Giêsu mặc khải sự sống Thiên Chúa như là sự viên mãn của cộng đoàn Ba Ngôi, là sự thân mật khôn tả giữa Cha, Con và Thánh Thần. Như từ một “khu vườn độc nhất vô nhị”, Ba Ngôi rút ra vẻ đẹp tràn trề nơi vũ trụ và nơi mỗi con người từ sự viên mãn của mình. Như một bông hoa quí giá, mỗi người chúng ta được bao bọc và được nuôi dưỡng trong khu vườn vô giá là cung lòng Chúa Ba Ngôi. Và hành động tạo dựng này không ngơi nghỉ: tình yêu của Cha, Con và Thánh Thần tiếp tục giữ cho những gì đã được rút ra từ Ba Ngôi được tồn tại. Được bao bọc trong tình yêu bao la của Ba Ngôi “như cá trong đại dương và như đại dương trong cá,” mỗi người chúng ta không ngừng rút ra sự sống từ sự viên mãn của Ba Ngôi.


Cùng với thánh Âu Tinh, Catarina thấy các năng lực nơi linh hồn chị là phản ảnh của Ba Ngôi, đấng đã tác thành chị. Chúa Cha, đấng gìn giữ tất cả mọi thụ tạo trong vòng tay của Người, phản chiếu mầu nhiệm bản tính của Người trong khả năng hoài niệm của con người, trong lúc Chúa Con, là hình ảnh sống động và là Lời của Chúa Cha, ghi dấu tính chất đặc biệt trong ngôi vị của Người nơi khả năng hiểu biết của chúng ta. Còn Chúa Thánh Thần, sự hiệp nhất cá vị giữa Chúa Cha và Chúa Con, in hình ảnh của Người trong khả năng yêu thương của con người. Một cách sâu xa hơn nữa, Ba Ngôi mong muốn chúng ta tham dự vào sự viên mãn của các ngài ngay trong chính hiện hữu của chúng ta. Khả năng hoài niệm của chúng ta chia sẻ quyền năng của Chúa Cha trong mức độ của loài thụ tạo, cũng như khả năng hiểu biết thì chia sẻ sự khôn ngoan của Chúa Con; tương tự như vậy, khả năng muốn yêu thương điều chúng ta biết là tham dự vào tình yêu và lòng thương xót của Chúa Thánh Thần.


Bạn bè của Catarina thường nghe thấy chị cầu nguyện với Thiên Chúa mà chị thờ lạy là Ba Ngôi. Khi nhìn thấy mình trong chiều sâu rực rỡ của Thiên Chúa Ba Ngôi, chị biết mình là hình ảnh và dấu chỉ sống động của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Khi ý thức mình tham dự vào quyền năng của Chúa Cha qua khả năng hoài niệm, tham dự vào sự khôn ngoan của Chúa Con qua sự hiểu biết, và tham dự vào tình yêu của Chúa Thánh Thần qua ý chí, Catarina nói lên - trong lời cầu nguyện - sự thân mật mà chị cảm nghiệm với Thiên Chúa Ba Ngôi. Chị thường xin Chúa Cha cho chị được sức mạnh trung thành trong sự yếu đuối cũng như trong sự dòn mỏng và tội lỗi của Hội thánh, và khẩn cầu Chúa Giêsu ban ánh sáng để nhìn thấy và để sống chân lý với sự quang minh mãnh liệt. Chị thường cất tiếng kêu xin lòng thương xót dịu hiền của Chúa Thánh Thần, xin được “ngọn lửa và giếng sâu” của tình yêu đã giữ Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thập giá.


Chính Chúa Giêsu đã mặc khải cho chúng ta một Thiên Chúa Ba Ngôi vô biên khiêm tốn và chiều đãi, tôn trọng con người thụ tạo một cách tuyệt vời. Catarina diễn tả chiều sâu của chân lý này trong hình ảnh Chúa Ba Ngôi như cái bàn, lương thực và người phục vụ. Chúa Cha nhân từ vô biên là “cái bàn thiết đãi…”, quyền năng của Người không phải là để đàn áp hay kiểm soát, cũng không lèo lái hay lạm dụng chúng ta. Như cái bàn chờ đợi và cung cấp một cách kính cẩn, tình yêu dịu dàng của Người mời gọi tất cả chúng ta tiến lại, đến gần và sẵn lòng nếm thử. Chính Người là cái bàn sống động rộng mở, không phòng thủ, không hăm dọa, đầy thức ăn, vì Người nắm giữ “của ăn tuyệt vời nhất”, là Chúa Giêsu, con của Người. Cũng như cái bàn Vượt qua đã giữ con chiên bị sát tế cho người Do Thái, cái bàn sống động của Chúa Cha nhẹ nhàng mang lấy và ban phát cho con cái Người của ăn là Con Chiên, người Con duy nhất yêu quí, để làm thỏa mãn cơn đói khát của họ.Và Chúa Thánh Thần quảng đại phục vụ nhu cầu của những người ngồi bàn, như người đầy tớ và người phục dịch khiêm tốn, đem lại cho họ ngọn lửa tình yêu Thiên Chúa như món ăn đặc biệt của riêng Người.


Hình ảnh cái bàn, lương thực và người phục vụ cho Catarina thấy chiều cao và chiều sâu trong điều nghịch lý nơi trái tim Thiên Chúa. Các ngôi vị Thiên Chúa bừng cháy như ngọn lửa vô hạn, bao bọc vũ trụ trong ánh sáng. Chúa Cha, Chúa Con, và Chúa Thánh Thần, đại dương bình an vô biên, nuôi dưỡng toàn thể vũ trụ bằng an bình. Và trong các ngôi vị, như trong một khối tinh thể trong suốt, mỗi người chúng ta, đã được nhào nặn theo hình ảnh và giống như Chúa, có thể nhìn thấy vẻ đẹp của các ngôi vị tuyệt vời hơn nữa. Các ngôi vị Thiên Chúa, điên lên vì yêu chúng ta, đã nghĩ ra một cách, không chỉ để in hình ảnh các ngài trong chúng ta, nhưng còn để in hình ảnh chúng ta trong các ngài. Nhìn vào gương Ba Ngôi, Catarina nhìn thấy chính mình. Nhưng khi nhìn ngắm, chị thấy Thiên Chúa trong chính mình, trong toàn thể nhân loại, liên kết và hiệp nhất chặt chẽ qua mầu nhiệm Nhập thể của Chúa Con. “Con nhìn thấy Cha giống như chúng con, và chúng con giống như Cha qua sự hiệp nhất mà Cha thực hiện với nhân loại… Ôi vực thẳm!… Ôi đại dương sâu thẳm! Thử hỏi Chúa còn có thể cho con điều gì hơn ân huệ là chính Chúa?”


“NGÔI LỜI ĐÃ TRỞ NÊN NGƯỜI PHÀM” (Ga 1:14)


Khuôn mặt Chúa Giêsu đã mặc khải cho chúng ta mầu nhiệm mà chúng ta khó lòng đoán được. Thiên Chúa cao cả đã hạ cố xuống tới “mức thấp nhất của cục đất sét nhân loại”, và nơi cục đất sét này, Người đã mặc khải chính mầu nhiệm Thiên Chúa. “Nhờ thế, với sự nhỏ bé của con, con có thể thấy được sự cao cả mà Chúa đã làm cho chính mình trở nên bé nhỏ, che giấu sự cao cả của Thượng đế trong sự nhỏ bé của nhân tính… Ôi giếng đức ái sâu thẳm, con đã biết Ngài trong chính con, trong Ngôi Lời này.”


Chúng ta, những con người đã được Chúa biết và yêu thương trước khi chúng ta hiện hữu, đã được rút ra từ tình yêu của Chúa Ba Ngôi. Nhưng kỳ diệu hơn nữa, tình yêu đã thúc đẩy Thiên Chúa Ba Ngôi chia sẻ với chúng ta chính mầu nhiệm của sự sống nội tại nơi Thiên Chúa. “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta… Và từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận được hết ơn này đến ơn khác” (Ga 1:14, 16). Nhờ ân sủng, Chúa Giêsu đã liên kết chúng ta với đời sống của Ba Ngôi. Ánh sáng của thần tính bây giờ chiếu giãi ra với màu sắc của nhân tính, vì sức nóng và lửa của Chúa Thánh Thần đã trộn ngôi vị Chúa Con vào cục đất nhân tính. Trong Chúa Giêsu, Thiên Chúa và nhân loại vĩnh viễn nên một. Tự giam mình trong cái “túi” nhân tính, Chúa Con cho thấy rằng, sau khi tạo dựng chúng ta, Chúa không còn gì để cho chúng ta ngoại trừ chính Người. Quả thực, Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần có thể hỏi: các ngài còn có thể làm gì để chúng ta chia sẻ và được vui mừng trong các ngài.


Đó không chỉ là tình yêu suông, nhưng là tình yêu dành cho chúng ta chính vì sự yếu đuối và tội lỗi của chúng ta, tình yêu đó lôi kéo Chúa Ba Ngôi đến với chúng ta. Chúa Ba Ngôi hoạt động như thể Người “say vì yêu”, “say mê” điên cuồng vì thụ tạo. Để cứu vớt chúng ta khi chúng ta héo tàn như cây không trái bị cắt đứt sự sống, Chúa Ba Ngôi đã lắp ghép thiên tính vào thân cây chết là nhân tính chúng ta. “Ôi sự tháp nhập êm ái dịu dàng, sự ngọt ngào hạ cố nối kết với sự cay đắng của chúng con… Điều gì đã khiến Chúa làm như vậy?… Chỉ vì tình yêu… Và như thế đã đủ chưa? Chưa, Chúa là Ngôi Lời vĩnh cửu đã tưới gội cây này bằng chính Máu thánh của Chúa.”


Ngôn sứ Elia đã trả lại sự sống cho một đứa trẻ bằng cách nằm đè lên tấm thân đã chết của nó. Qua hình ảnh này, Catarina thấy hình tượng sâu xa hơn về Chúa Con nằm phục trên tấm thân đã chết của dòng giống nhân loại, áp sát vào tấm thân này, nối kết sự sống của Thiên Chúa với nhân loại đã chết. Chúa Con đã mặc lấy xác thể, và trong Người, toàn thể Ba Ngôi đã trở nên thân cận với chúng ta. “Lạy Chúa, ôi vực thẳm Ba Ngôi,” trong ngôi vị của Chúa Giêsu, “tất  cả con người của con dựa vào và hiệp nhất với nhân tính của Chúa.” Catarina gọi tình yêu quảng đại này là “sự điên rồ” làm vui lòng người yêu, dường như Thiên Chúa say sưa vì ơn cứu độ của chị. “Chị chạy trốn Người, còn Người thì đi tìm chị. Chị đi lạc và Người tiến lại gần chị. Người mặc lấy nhân tính của chúng con, và tiến gần tới mức không thể gần hơn được nữa.”


Như cha mẹ thông chia bản tính của mình cho con cái, Chúa Giêsu cũng trao ban thiên tính cho chúng ta, nhờ đó, là những người yếu đuối, chúng ta có thể trở nên mạnh mẽ. Người ân cần săn sóc các vết thương của chúng ta, và chính Người uống vị thuốc đắng mà sự yếu đuối của chúng ta không thể chịu nổi. Như người vú em uống thứ nước đắng thay cho đứa trẻ, Chúa Giêsu cũng đã uống thay chúng ta chén đắng sự chết trên thập giá. “Chúa đã làm như người vú em uống thứ thuốc mà đứa trẻ cần, vì vú em là người lớn và khoẻ mạnh, trong khi đứa trẻ thì yếu ớt không chịu nổi vị đắng. Con Cha chính là người vú em của con.”


Chúa Giêsu yêu thương và chăm sóc chúng ta không chỉ như người vú em, mà còn như một người mẹ thực sự. Chúa Cha mời gọi chúng ta bám chặt lấy ngực Chúa Giêsu như bám lấy ngực bà mẹ nuôi dưỡng chúng ta bằng sữa của bà. “Như đứa trẻ nghỉ yên trên ngực mẹ, ngậm lấy vú mẹ, và uống sữa từ máu thịt mẹ… linh hồn cũng nghỉ ngơi trên ngực Chúa Giêsu chịu đóng đinh, đấng là tình yêu của con, và uống sữa nhân đức.” Và vì chúng ta uống chính sức mạnh của tình yêu Chúa Cha nơi ngực Chúa Giêsu, sữa của Chúa trở nên thịt thực sự để nuôi dưỡng và làm cho chúng ta mạnh sức.


“Không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14:6). Catarina nhận thức rằng chúng ta thấy sự dịu hiền của Chúa Cha nhờ được nuôi dưỡng nơi ngực Chúa Giêsu chịu đóng đinh, duy Người là đấng tỏ lộ và chia sẻ cho chúng ta những mầu nhiệm của sự sống thần linh và sự sống nhân loại. Vì, trong xác thể của Người, Chúa đã đi vào nỗi đau khổ thấm thía của nhân loại, ngực Chúa Giêsu vọt lên suối nước hằng sống mà tất cả chúng ta có thể đến đó để uống (Ga 7:27). Thân thể nhân loại của Người đã trở thành cây cầu sống động nối kết đất với trời, và đưa chúng ta đến vực thẳm tình yêu của Chúa Cha. Và vì duy thập giá Chúa Giêsu mới ban tặng chúng ta sự sống thật, cho nên không ai đến gần được Chúa Cha nếu không đi qua nhân tính của Chúa Giêsu.


Chúa Con đã vĩnh viễn liên kết với tất cả những gì là nhân loại, bằng cách gồm chứa trong Người những kho tàng thiên tính lẫn nhân tính, và nhờ đó tìm được cách làm thỏa mãn hoàn toàn cơn khát của nhân loại. Muốn yêu cái gì, khao khát điều thiện và chân lý nào, chúng ta đều tìm thấy nơi Chúa Giêsu. Nếu chúng ta muốn yêu mến Thiên Chúa, thì Chúa Giêsu là Thiên Chúa. Nếu chúng ta muốn yêu mến điều thuộc về con người, thì Chúa Giêsu là con người. Chúa Giêsu là Chúa, là người bạn, người anh, là sự viên mãn của mọi kho tàng mà trái tim nhân loại tìm kiếm. Khi sống gắn bó mật thiết với chân lý này, Catarina biết được ý nghĩa sâu xa những lời Chúa Cha nói với chị, “Hãy để người Con yêu quí duy nhất của Cha, là Chúa Giêsu chịu đóng đinh, trở thành nơi trú ẩn cho con. Hãy đặt nhà con và nơi cư trú của con nơi cạnh sườn mở rộng của Người.”


Cha Raymond kể lại, giữa những trách nhiệm nặng nề, Catarina dần dần cảm nghiệm Chúa Giêsu là người bạn thân nhất, chị sống với Người từng giờ trong ngày. Như chính Catarina đã nói, những người bạn thân thiết thì chia sẻ bí mật tâm hồn cho nhau; tình cảm làm cho họ “hai thân thể trở nên một tâm hồn,” nhờ đó họ không còn giấu nhau điều gì. Và như Catarina đã chia sẻ đời sống của mình với Chúa Giêsu, thì Người cũng chia sẻ đời sống của Người với chị, bộc lộ cho chị biết những bí mật của trái tim Người.


Chúa Giêsu mặc khải cho Catarina mầu nhiệm sự hiệp nhất và thân mật giữa Người với Chúa Cha, “Cha và Tôi là một” (Ga 10:30). Chị thấy Chúa Cha, đấng mà vinh quang của Người chiếu sáng với vẻ đẹp vô biên vượt quá khả năng hiểu biết của chúng ta, đã đến thật gần chúng ta trong Đức Giêsu. “Cha là đấng vô hình đã trở nên như hữu hình, bằng cách ban Ngôi Lời, Con của Cha, cho các con, được che giấu trong nhân tính của các con. Người đã bày tỏ Cha cho các con.” Trên thiên đàng, Chúa Cha mặc khải mầu nhiệm siêu việt tính của Người cho những kẻ mà thân thể nhân loại của họ “được kết hợp và đầy tràn nhân tính của Ngôi Lời,” và ngay cả bây giờ, Chúa Cha vẫn tỏ mình trong nhân dạng của người Con. Khi tới gần Chúa Giêsu và thấy nơi Người có tất cả những gì mà tâm hồn con người có thể ước muốn, Catarina cũng khám phá ra sự gần gũi khôn tả của Chúa Cha đối với chị.


“AI THẤY TÔI LÀ THẤY CHA” (Ga 14:9-10)


Cuộc Đối thoại xảy ra giữa Catarina, “nữ tử yêu quí nhất” của Chúa Giêsu, với đấng mà Chúa Giêsu dạy các môn đệ gọi “Cha ơi”, đấng là “người Cha nhân từ nhất” đối với Catarina. Khi nhận biết tình bằng hữu thâm sâu của Chúa Giêsu, Catarina đã nhận Cha của Người làm Cha của mình. Khi suy nghĩ về những hiệu qủa dồi dào của sự thân mật giữa Chúa Cha với chúng ta, Catarina nghĩ đến sức mạnh và sự an toàn nội tâm của thánh Phaolô. Thánh Phaolô đã biết đấng là nguồn gốc và cùng đích tối hậu của mình, và như vậy, thánh nhân đã biết nguồn mạch căn tính của mình. Vì đã cảm nghiệm sự gần gũi của Chúa Cha đối với mình, thánh Phaolô biết mình từ đâu đến và sẽ đi về đâu, và như vậy, thánh nhân được tự do để sống chân lý về sự tự lập và căn tính của mình một cách trọn vẹn.


Catarina diễn tả sự thân mật giữa Chúa Cha với chúng ta bằng những hình ảnh rút ra từ kinh nghiệm của chị về sự gần gũi của Chúa Cha. Giống như ký ức chúng ta lưu giữ những gì chúng ta biết và yêu mến, thì Chúa Cha cũng lưu giữ và ấp ủ tất cả các thụ tạo trong chính Người. Vì những gì Chúa Cha muốn thôi yêu thương thì cũng thôi hiện hữu, nên Người bảo vệ tất cả những gì Người đã tạo thành trong vòng tay êm ái của Người. Có người cha nào dám hy sinh con một mình cho thần chết để chuộc lại một nô lệ không nếu không phải là vì tình yêu bừng cháy. Không những Chúa Cha ban cho con cái Người những nhu cầu cần thiết với một tình yêu khôn tả, mà Người còn ban Con Một cho thụ tạo đang chống lại Người, và gửi người Con ấy đến như thầy thuốc đến chữa lành bệnh tật của họ. Người dịu dàng rửa sạch con cái bằng Máu thánh của người Con, và chiếu sáng nét mặt họ bằng niềm vui của Chúa Thánh Thần.


Càng ngày càng nhận thức được sự gần gũi tuyệt đối của Chúa Cha, Catarina thấy trong bất cứ hoàn cảnh nào chị cũng có thể chạy đến với vòng tay của Chúa, ở đó chị tìm được chỗ trú ẩn, không phải chỉ cho riêng chị, mà còn cho toàn thể thế giới. Chị đã có kinh nghiệm về Chúa Cha, mà Chúa Giêsu đã mặc khải, là đấng che phủ lỗi lầm của con cái với lòng thương xót khôn tả; khi chúng ta đau buồn mà đến với Người, chúng ta gặp được một người Cha không hề nhớ đến những tội chúng ta đã từng phạm. Quyền năng Người dùng để điều khiển vũ trụ chỉ là quyền năng của tình yêu và lòng thương xót vô biên; vì chỉ có lòng thương xót của Người tạo dựng chúng ta và giữ chúng ta trong cánh tay Người; chỉ có lòng thương xót của Người bảo vệ, che chở và chăm sóc chúng ta. Và ngay cả khi chúng ta gặp nghịch cảnh, Chúa Cha cũng bộc lộ khuôn mặt dịu hiền của Người trong Máu thánh Chúa Con, vì khi nhìn ngắm các thương tích của Chúa Giêsu, chúng ta biết rằng ai nhìn lên Người thì sẽ thấy được trái tim Chúa Cha (Ga 14:9-10).


“ANH EM BIẾT THẦN KHÍ, VÌ NGƯỜI


Ở GIỮA ANH EM VÀ Ở TRONG ANH EM” (Ga 14:16-17)


Khi suy gẫm Tin mừng Gioan, Catarina thấy Chúa Cha và Chúa Con không thể có nếu không có Chúa Thánh Thần, đấng mà Chúa Giêsu đã hứa sẽ ở với và ở trong những kẻ nào yêu mến Người. Thánh Phaolô nhận ra Chúa Thánh Thần này là đấng mà qua Người, tình yêu Chúa Cha tuôn đổ vào tâm hồn chúng ta (Rm 5:5). Cùng với thánh Âu Tinh, thánh Bênađô và thánh Tôma Aquinô, Catarina cho đoạn văn này là ám chỉ căn tính cá vị của Chúa Thánh Thần. Bằng kinh nghiệm riêng của mình về tình yêu, Catarina dần dần nhận biết Chúa Thánh Thần chính là tình yêu giữa Chúa Cha và Chúa Con, là sự kết hợp khắng khít, là nụ hôn và là tiếng thì thầm của tình yêu giữa các ngài. Khi yêu, chúng ta tham dự một cách mới mẻ vào Chúa Thánh Thần, đấng là “tình yêu” giữa Chúa Cha và Chúa Con: “Cha cho nó được tham dự vào tình yêu này, đó là Chúa Thánh Thần trong nó.”


Catarina hiểu rằng Chúa Thánh Thần không phải chỉ là “tình yêu bừng cháy” của Thiên Chúa, nhưng còn là chính ngôi vị của lòng thương xót, là lòng quảng đại và nhân hậu hạ cố đến sự yếu đuối của con người với một tình yêu đã hóa nên điên dại vượt mức. Trước tình yêu sợ hãi và ích kỷ của chúng ta, Chúa Thánh Thần đem lại ngọn lửa của tình yêu Thiên Chúa, một tình yêu sâu xa và tự do đến nỗi những ai đụng chạm đến hay bị thiêu đốt đều được tham dự vào chính vực thẳm của đời sống Ba Ngôi. Ngọn lửa Chúa Thánh Thần nhẹ nhàng chữa trị những khát vọng lộn xộn của chúng ta, và như sương sa, tưới gội những chỗ khô cằn trong trái tim chúng ta, đem lại cho chúng ta khát vọng mới về Thiên Chúa. Hơi ấm và sự sống của Chúa Thánh Thần trải rộng đến mọi thụ tạo, vì một khi đã biết đến lòng thương xót của Chúa Thánh Thần, tất nhiên chúng ta phải trở thành dấu chỉ lòng thương xót cho tha nhân.


Một điều nghịch lý bùng lên nơi trái tim Thiên Chúa: tình yêu điều khiển vũ trụ cũng là tình yêu phục vụ. Catarina nhắc lại những lời đầy xúc động trong Ga 13:4-5: “Vốn đã yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, Người yêu thương họ đến cùng… Người đứng dậy, rời bàn ăn… và bắt đầu rửa chân cho các môn đệ…” Cuộc đời của Chúa Giêsu đã diễn tả những lời này từ lâu trước Bữa Tiệc ly: vị Chúa và Thầy ở giữa các môn đệ như một người tôi tớ (Lc 22:27). Với hình tượng Tin mừng này, Catarina so sánh Chúa Cha như cái bàn, Chúa Con như thức ăn, và Chúa Thánh Thần như người phục vụ dịu dàng. Mặc dù là Chúa và là đấng ban sự sống, Chúa Thánh Thần cũng trở nên người tôi tớ và nô lệ, khiêm tốn đáp ứng mọi nhu cầu của những ai khao khát tìm kiếm Người.


Khi nói về Chúa Thánh Thần như người tôi tớ và người phục vụ, Catarina gợi nhớ dụ ngôn trong Lc 12:35-38: “Phúc cho những đầy tớ nào khi chủ về thấy tỉnh thức; … chủ sẽ thắt lưng, đưa vào bàn ăn và phục vụ họ.” Chúa Giêsu tỏ cho chúng ta thấy tình yêu khôn tả của Ba Ngôi, một tình yêu chịu lụy phục sự yếu đuối của chúng ta, nhờ đó tình yêu được tự do đáp lại bằng tình yêu. Catarina áp dụng hình ảnh người tôi tớ này vào Chúa Thánh Thần, ngôi vị tình yêu. Thiên Chúa, đấng tạo dựng, cúi mình xuống thụ tạo: “Chúa Thánh Thần trở thành người phục vụ. Trong tình yêu vô biên, Người không bằng lòng cho tha nhân phục vụ chúng ta. Người muốn đích thân làm việc đó.” Catarina tâm sự với người bạn là Tommaso dalla Fonte rằng kinh nghiệm đã dẫn chị tới hình ảnh này. Vào ngày lễ kính thánh nữ Lucia tử đạo, chị thấy mình ngồi tại bàn ăn của Con Chiên một cách nhiệm mầu, và trong lúc cầu nguyện, chị nghe thấy Chúa nói với chị: “Cha là bàn và là thức ăn.” Tuy nhiên, Chúa Thánh Thần không chỉ phục vụ, Người còn mớm  thức ăn cho chị.


Catarina mô tả Chúa Thánh Thần phục vụ chúng ta một cách dịu dàng như người mẹ nuôi dưỡng con thơ, không phải chỉ bằng đôi tay, nhưng còn bằng ngực mình. Khi tin tưởng bám chặt vào Thiên Chúa, chúng ta cảm nghiệm được sự chăm sóc của Người một cách đặc biệt: “Linh hồn ấy có Chúa Thánh Thần như người mẹ dưỡng nuôi ở ngực là tình yêu Thiên Chúa… Chúa Thánh Thần, đấng mà Cha đã quan phòng ban cho linh hồn, với tình âu yếm và sự phong phú khôn lường, sẽ bao bọc, nuôi nấng linh hồn, làm cho linh hồn say mê.” Nhất là người nghèo đến gần ngực Thiên Chúa sẽ được uống “sữa an ủi vô tận,”  vì Chúa Thánh Thần nuôi dưỡng “linh hồn và thân xác bé nhỏ của họ trong mọi hoàn cảnh.”


Chúa Thánh Thần, là lòng thương xót dịu dàng của Thiên Chúa, sống với chúng ta và ở giữa chúng ta như sức mạnh quyền năng của Thiên Chúa. Catarina cầu xin Chúa Thánh Thần năng ban sức mạnh nơi tình yêu của Người, đấng mà sự hấp dẫn của Người hoạt động một cách “cao cả và ngọt ngào”: “Ôi lạy Chúa Thánh Thần, xin ngự đến trong tâm hồn con; xin hãy dùng quyền năng của Chúa mà lôi kéo con lại gần Chúa.” Chị xin lửa Chúa Thánh Thần thiêu đốt tình yêu ích kỷ nơi chị và nơi các vị lãnh đạo Hội thánh, đồng thời  đổ đầy trong họ tình yêu mãnh liệt và ước muốn canh tân Hội thánh. Và chị khao khát Chúa Thánh Thần tuôn đổ trên chị và trên toàn thể Hội thánh ngọn lửa và sương mát đã biến đổi các Tông đồ, làm cho họ không còn sợ hãi khi phải nói sự thật (Ga 15:26-27).


Thánh Luca đồng hóa Chúa Thánh Thần với sự sung mãn của các ân phúc từ Chúa Cha (Lc 11:13). Khi suy gẫm mầu nhiệm này, Catarina nghiệm thấy ngôi vị Thánh Thần là kho tàng sung mãn của trái tim Thiên Chúa. Vì Chúa Thánh Thần đến cùng chúng ta với quyền năng của Chúa Cha và sự khôn ngoan của Chúa Con, nên lời chúng ta cầu nguyện xin Chúa Thánh Thần hoạt động trong đời sống dần dần giúp chúng ta biết đón nhận mọi ân huệ tốt lành “trong sự viên mãn của Chúa Thánh Thần.” Khi Chúa Thánh Thần đến gần chúng ta, toàn thể Ba Ngôi cũng đến gần, vì Chúa Thánh Thần phát xuất từ Chúa Cha và Chúa Con. Lúc đó, chính Chúa Thánh Thần là đấng đem đến cho chúng ta trọn kho tàng của Thiên Chúa, đấng cư ngụ trong tâm hồn chúng ta, và ngự trị trên môi miệng chúng ta để chúng ta công bố sự thật.


“THẦY ĐÃ GỌI ANH EM LÀ BẠN HỮU” (Ga 15:15)


Catarina xác tín rằng kinh nghiệm sâu xa về Chúa Ba Ngôi trong đời sống chúng ta là ân huệ mà Chúa Giêsu khao khát ban tặng cho mỗi người như di sản của bí tích Rửa tội. Bạn bè trao tăng cho nhau món quà là sự thân thiết, còn Chúa Giêsu thì gọi chúng ta là bạn hữu của Người (Ga 15:15). Chính Catarina đã “nếm thử” sự thân thiết của Ba Ngôi như là kết quả tình bằng hữu sâu xa của chị với Chúa Giêsu, đấng đã hứa rằng Người và Chúa Cha sẽ cư ngụ trong kẻ nào yêu mến Người (Ga 14:21,23).


Kinh nghiệm của Catarina cho chị thấy con đường đơn giản để hiệp nhất mật thiết với Thiên Chúa Ba Ngôi: chúng ta phải không ngừng xin ơn ấy, vì Ba Ngôi tỏ mình cho chúng ta tùy mức độ chúng ta khao khát các ngài. Chúa Cha nói với Catarina, “Đôi khi chúng tìm Cha trong kinh nguyện, muốn biết quyền năng của Cha, và Cha sẽ cho chúng được toại nguyện bằng cách cho chúng cảm nếm sức mạnh của Cha.” Những lúc khác, chúng ta tìm kiếm sự khôn ngoan của Chúa Con, và thấy mình được no đầy khi Người đến gần. Những lúc khác nữa, chúng ta tìm kiếm Thiên Chúa “trong sự thương xót của Thánh Thần,” và Chúa Cha tốt lành cho chúng ta “nếm thử ngọn lửa tình yêu Thiên Chúa.” Nhờ đó chúng ta bắt đầu cư ngụ trong Ba Ngôi, cũng như Ba Ngôi đã cư ngụ nơi chúng ta. Dù quay về hướng nào, chúng ta cũng thấy sự hiện diện của Ba Ngôi, và dù trong những chuyện nhỏ nhặt nhất, chúng ta cũng thấy những dấu hiệu thân thiết cho thấy quyền năng dịu dàng của Thiên Chúa, sự khôn ngoan đáng yêu của Chúa Con, và lòng thương xót nhân hậu của Chúa Thánh Thần.


Cha Raymond có nói đến lòng khao khát vô độ và lòng biết ơn của Catarina đối với bí tích Thánh Thể, nên cha không bao giờ ngăn cản chị rước lễ thường xuyên. Khi kết hợp với Chúa Giêsu sau khi rước lễ, chị thường “nếm thử chiều sâu của Ba Ngôi”, linh hồn chị nhập vào Thiên Chúa như đại dương trong cá và cá trong đại dương. Bí tích Thánh Thể, nhận chìm chị trong chiều sâu của Thiên Chúa, “đại dương an bình,” cho chị được ơn ngày càng trở nên thân mật với tất cả Ba Ngôi. Tuy nhiên, chị cảm thấy không xứng đáng được một hồng ân lớn lao như thế. Chúa Giêsu biết chị thực sự không xứng đáng đón nhận Người: "Nhưng Cha đáng để con nhập vào Cha.” Catarina trân trọng những lời này đến nỗi chị dùng làm lời khuyên thông thường cho những ai ngại rước Mình thánh Chúa vì nghĩ mình không xứng đáng.


Catarina nhận thức rằng chúng ta lãnh nhận “trọn vẹn Thiên Chúa” khi Chúa Giêsu ban mình cho chúng ta như của ăn. Dù là lâu sau khi rước Mình thánh, hiệu quả đó vẫn còn, để lại dấu ấn ân sủng và sự hiện diện của Ba Ngôi trong chúng ta như con dấu khắc trên sáp mềm. Chúng ta được kết hợp với thân mình và Máu thánh của Chúa Phục sinh, nhưng trong Người, chúng ta cũng được hiệp nhất với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Như thế, quyền lực của bí tích Thánh Thể thông chia cho chúng ta những hiệu quả sự hiện diện của toàn thể Ba Ngôi: hơi ấm và ánh sáng của Chúa Thánh Thần, ánh sáng và sự khôn ngoan của Chúa Con, quyền năng và sức mạnh của Chúa Cha.


“XIN CHO CHÚNG NÊN MỘT” (Ga 17:21)


Sự hiệp nhất thân mật với Ba Ngôi mà Catarina đã cảm nghiệm qua bí tích Thánh Thể thấm nhập vào đời chị đến nỗi chị mong muốn được sống mãi trong tình trạng đó. Chị thấy hình ảnh Ba Ngôi qua ba quan năng của linh hồn; tuy nhiên, chị không chỉ muốn phản ánh, mà còn muốn được hiệp nhất với Ba Ngôi. “Khi họa lại hình ảnh, chúng ta có thể tìm được sự hiệp nhất.” Qua trí nhớ, chúng ta được mời gọi vừa phản ánh vừa cảm nghiệm sự hiệp nhất với quyền năng Chúa Cha; qua trí hiểu, chúng ta phản ánh và hiệp nhất với Chúa Con, đấng là sự khôn ngoan. Đồng thời, qua ý chí, chúng ta phản ánh và lớn lên trong sự hiệp nhất với Chúa Thánh Thần, đấng là tình yêu và là sự thương xót.


Catarina đã hiểu thánh Phaolô liên kết khả năng trí nhớ, trí hiểu và ý muốn với ba Ngôi vị Thiên Chúa sâu xa như thế nào. Thánh Phaolô liên kết trí nhớ với Chúa Cha, đấng là nguồn gốc thực của mình; thánh nhân nối kết trí hiểu với Chúa Con, đấng ban sự khôn ngoan, và liên kết ý chí với Chúa Thánh Thần, mà tình yêu - cùng với niềm hoan lạc - thấm nhập vào mình. Được đưa vào cơn xuất thần chiêm ngưỡng sự hiệp nhất này, thánh Phaolô biết được sự sung mãn của Chúa Thánh Thần, và nhờ đó Người nếm thử chính chiều sâu của Ba Ngôi. Suy nghĩ về kinh nghiệm của thánh Phaolô, Catarina khao khát Chúa Ba Ngôi tràn ngập các quan năng nơi linh hồn chị. Lời Chúa Cha nói với chị chỉ làm cho chị khát khao ân huệ này sâu xa hơn: “Nếu có ai hỏi Cha linh hồn này là gì, Cha sẽ nói: “Đó là một Cha khác, do hiệp nhất tình yêu mà thành.”


Về phần Chúa Ba Ngôi, đấng mà chị được hiệp nhất nhờ hiệu quả của bí tích Thánh Thể, Người sẽ liên kết chị với các anh chị em của chị. Vì Ba Ngôi, “tất cả thiên tính” đến với chị qua Mình và Máu thánh Chúa Giêsu, thì “tất cả nhân tính” cũng vậy. Catarina không chỉ xin một mình Chúa Giêsu thông ban bản thân cho chị, mà cả “thân thể mầu nhiệm của Hội thánh và thân thể phổ quát của Kitô giáo.” Sự hiệp nhất giữa chị với Ba Ngôi dìm chị vào sâu trong tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta, nhờ đó, kinh nguyện thần bí của chị ngày càng rộng mở và thúc đẩy chị đi ra ngoài phục vụ tha nhân. Chị viết, Tình yêu Thiên Chúa làm cho trái tim con người trở nên “lớn lao, không keo kiệt, lớn đến nỗi đủ sức yêu thương mọi người.”


Nơi đức Maria, Catarina khám phá ra gương mẫu của sự kết hợp với Thiên Chúa Ba Ngôi và với tha nhân, mà Chúa Giêsu mong ước cho mỗi người chúng ta đạt được. Đức Maria đã sống như “đền thờ Chúa Ba Ngôi” và như “người mang ngọn lửa”; đời sống của Mẹ mở ra như cuốn sách trong đó chúng ta đọc thấy sự khôn ngoan của Thiên Chúa, vì nơi Mẹ đã “mặc khải sức mạnh và sự tự do của nhân loại chúng ta.” Vì Ngôi Lời cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần đến với Mẹ, nên trong Mẹ, chúng ta thấy thực tại Ba Ngôi mà bàn tay Chúa Thánh Thần đã viết nên trong con người của Mẹ. Vì lời “xin vâng” của Mẹ, tất cả chúng ta đã tiến tới gần sự sống của Chúa Ba Ngôi nơi Chúa Giêsu. Catarina cầu nguyện, “Hỡi linh hồn tôi, trong Mẹ Maria, Thiên Chúa đã trở thành họ hàng với ngươi.”


Sự kinh ngạc và lòng biết ơn trước mầu nhiệm tình yêu Chúa Ba Ngôi đối với chúng ta đã làm bùng lên nơi Catarina lời ngợi khen sâu xa nhất. Chính Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần đã tạo nên chốn cư ngụ nơi loài người mà các ngài đã tác thành. Các ngài chỉ hài lòng một khi chúng ta được chia sẻ sự sống của các ngài: đây là một mầu nhiệm mà Catarina chỉ biết thờ lạy. “Ôi Chúa vĩnh cửu! Ôi tình yêu vô biên! Các tạo vật của Chúa đã hoàn toàn hòa nhập vào Chúa, và Chúa hòa nhập vào chúng con.” Đó là sự hiệp nhất giữa những người bạn nghĩa thiết nhất, sự hiệp nhất toàn diện đến nỗi kho tàng của người này cũng là của người kia: kinh nghiệm của Catarina về Chúa Ba Ngôi bừng cháy lên với ngọn lửa của sự thân thiết này. “Ôi chiều sâu của tình yêu! Trái tim nào lại không vỡ ra khi thấy sự cao cả của Chúa hạ cố đến sự thấp hèn của loài người! Chúng con là hình ảnh của Chúa, và bây giờ, khi kết hợp làm một với chúng con, Chúa đã trở nên hình ảnh của chúng con… Chúa là Thiên Chúa đã trở nên con người và con người chúng con đã trở nên Thiên Chúa!” Đối với Catarina, mầu nhiệm Ba Ngôi không phải là một học thuyết trừu tượng hay khô khan, nhưng dần dần đã trở nên biển sâu mà chị bước vào vào với tất cả sức mạnh nơi con người chị. Càng tiến vào, chị càng khám phá và tìm kiếm được. Ở đây, trong chiều sâu của đời sống Ba Ngôi, Catarina khám phá ra vực thẳm tình yêu vô biên đủ làm thỏa mãn cơn khát của chúng ta, và mặc khải ý nghĩa sâu xa nhất của chúng ta: trong Chúa Giêsu, Thiên Chúa Ba Ngôi và nhân loại đã trở nên một.

114.864864865135.135135135250