28/10/2011 -

Suy tư, nghiên cứu

5185

 


 


Cuộc Đối Thoại Giữa Đức Tin Và Lý Trí Qua Các Thời Đại (phần 2)


 


Tạ Văn Tịnh OP.


II. Thời Kinh Viện



1. Thánh Anselmo – Đức tin tìm kiếm lý trí



Trước khi triết học Kinh viện đạt đến đỉnh cao ở thế kỷ XIII, thánh Anselmo (1033 – 1109) được coi là người đề cao lý trí và sử dụng suy tư triết học vào thần học một cách hài hòa hơn cả. Thánh nhân khẳng định rằng lý trí và đức tin dẫn tới cùng một kết luận. Ngài đi theo truyền thống Augustin vốn chủ trương dung hòa lý trí để hiểu nội dung của đức tin. Với công thức: “đức tin tìm kiếm lý trí” (Fides quoerens intellectum), thánh nhân đã nhìn thấy một sự hòa điệu căn bản giữa nhận thức do đức tin và nhận thức do lý trí. Lý trí giúp đức tin thêm sáng tỏ, đức tin không những không hạ giá lý trí mà còn hướng dẫn và cung cấp cho nó chất liệu để suy tư, giúp lý trí được mở rộng và kiện toàn hơn “tôi tin để được am hiểu” (Credo ut intelligam). Điều này không đối lập với quan điểm của Augustin, nhưng có phần khác. “Tôi tin để được am hiểu” và “Đức tin tìm kiếm lý trí” có nghĩa là không phải để đi tới đức tin bằng suy nghĩ mà là phải tin rồi mới suy nghĩ để am hiểu điều mình tin. Ngài không tìm cách khám phá chân lý về Thiên Chúa chỉ bằng lý trí mà thôi, nhưng muốn sử dụng lý trí để hiểu điều mình tin. Thật vậy, trí khôn con người không thể thâm nhập vào sự sâu thẳm của Thiên Chúa mà đức tin lãnh hội, nhưng đức tin tìm kiếm lý trí để “lý giải” những điều sâu thẳm.


2. Thánh Thomas D’Aquin – phân biệt giữa đức tin và lý trí



Sự dung hòa giữa đức tin và lý trí về sau được tư tưởng gia nỗi lạc Thomas D’Aquin tiếp tục phát triển và kế thừa có chọn lọc. Ngài lấy những tinh hoa của triết học làm nền tảng cho sự phát triển và khám phá mới, hầu làm cho sự dung hòa này đạt đến đỉnh điểm của nó. Đối với thánh nhân, cả lý trí và đức tin đều là quà tặng của Thiên Chúa cho nhân loại.


Nếu như thánh Augustin lấy triết học của Platon làm nguồn suối nền tảng, thì triết lý thánh Thomas là một công trình suy tư từ học thuyết triết học Aristote. Bên cạnh đó, thánh nhân còn tổng hợp từ nhiều triết thuyết khác nhau, như trường phái Khắc kỷ, thuyết Platon mới, Augustin và Boece, cộng với sự phản chiếu từ một số ý tưởng của những nhà giải thích Hy Lạp về Aristote và của Cicéron, Avicenne, Averroès…


Tổng hợp từng ấy yếu tố, người ta không khỏi nghĩ rằng đó là một thứ triết lý hỗn tạp, nhưng nó đã thực sự được nhào nặn qua thực hành triết lý và thực tiễn lý thuyết của những tiền bối thành một triết lý hệ thống. Chính hệ thống ấy đã để lộ ra ấn tích trí khôn và tầm ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống Kitô giáo của ngài.


Một trong những khuynh hướng triết lý rõ ràng nhất của thánh Thomas D’Aquin đó là tìm một giải pháp trung dung, hòa giải cho các vấn đề khác nhau của triết học. Khi chủ trương thuyết duy thực ôn hòa, thánh Thomas giải quyết vấn đề về phổ biến niệm (universal) giữa hai cựu đoan của thuyết duy danh và thuyết duy thực.


Thánh Thomas cho rằng, những phổ biến niệm không phải là những thực tại có thực biệt lập như kiểu những lý tưởng trên lý giới. Đó là lập trường duy danh, nhưng không phải là duy danh cực đoan, vì ngài không chủ trương những phổ biến niệm chỉ là những hư từ, một khi chúng không phải là những thực tại biệt lập. Theo ngài, phổ biến niệm là những khái niệm và phán quyết tổng quát của trí khôn con người. Nhưng chúng không phải những hư danh vô nền tảng mà chúng có nền tảng trong thực tại ở ngoài trí khôn con người. “Nền tảng” ấy là nền tảng cho tính cách phổ biến. Đó là lập trường duy thực, nhưng không phải là duy thực cực đoan. Vì ngài cho rằng, mỗi cá nhân đều có nhân tính phổ biến, hiện tại và biệt lập cho riêng mình. Nhưng chỉ có những cá nhân là những thực tại có thực, song có những điểm giống nhau (phổ biến) từ cá nhân này qua cá nhân khác trong cùng một chủng loại hay cùng một tiểu loại. Sự giống nhau này là nền tảng để nghĩ rằng chúng có một bản tính chung, phổ biến cho mọi người.


Khác với Thánh Augustin, trong tư tưởng và học thuyết của thánh Thomas, vai trò của lý trí và đức tin được phân định một cách rõ ràng hơn. Theo ngài, tất cả những chân lý đã biết được hay có thể biết được một cách hiển nhiên bằng trải nghiệm hay bằng chứng minh là thuộc về lĩnh vực lý trí; còn tất cả mọi chân lý không biết được bằng hiển nhiên mà chỉ duy nhất bằng mạc khải thì thuộc về lĩnh vực đức tin. Vì lẽ đó, thánh Thomas cũng phân rõ ranh giới giữa triết học và thần học, nhưng không có sự đối lập giữa chúng. Ngài cho rằng, đối tượng của triết học là chân lý của lý trí, đối tượng của thần học là chân lý của niềm tin tôn giáo; còn Thiên Chúa là khách thể cuối cùng của cả triết học và thần học, là nguồn gốc và nền tảng của mọi chân lý. Như vậy, trong quan điểm của thánh nhân, không có sự đối lập giữa đức tin và lý trí, ngược lại chúng có một điểm chung cùng đích là Thiên Chúa. Bên cạnh đó, cả đức tin và lý trí đều là những tác động (thông qua mạc khải hay phản ánh) và thái độ đón nhận của con người (thông qua phản tỉnh); vì khi tin tưởng, người tín hữu không chỉ được khích lệ bởi ý muốn chấp nhận đức tin mà còn nhờ vào sự soi sáng, ban ơn của Thiên Chúa. Còn khi tri thức, mỗi người được khích lệ bởi chính nhận thức (xuất phát từ bản chất khao khát tìm kiếm chân lý) của mình.


Có thể nói, trong các tư tưởng lớn của thời trung cổ, tư tưởng Thánh Thomas D’Aquin là đầy đủ nhất. Người ta quen nói ngài đã rửa tội cho triết gia Aristote. Đi theo truyền thống Aristote vốn duy lý hơn Platon mà Augustin, Anselmo và Bonaventura kế thừa và đề cao, thánh Thomas có tinh thần cởi mở hơn cả.


Đến đây cũng cần nói thêm học thuyết triết học vô thần đã có những nhận định hơi quá khích và sai lạc về triết học của thánh Thomas. Họ cho rằng: “chủ nghĩa Thầy tu (ý nói triết học của Thánh Thomas) đã giết chết những gì sinh động nhất trong triết học của Aristote và làm thành bất tử những gì đã chết rồi”[1].


Thực ra, một tư tưởng dù vĩ đại đến đâu nhưng nếu nó không phục vụ cho con người thì tư tưởng ấy sẽ thành vô dụng. Thánh Thomas đã làm cho triết học của Aristote trở nên hữu dụng và sinh động chứ không phải là “giết chết” theo cách hiểu của chủ nghĩa vô thần. Như vậy, có thể phủ nhận vế thứ nhất của quan điểm trên. Mặt khác, ở vế thứ hai từ “chết” của Lênin không mang ý nghĩa như từ “chết” trong quan niệm của Kitô giáo, mà là cái chết của một đối tượng đã bị “giết”, đó là cái chết tiêu cực.


Thánh Thomas không e dè chút nào đối với triết học, cởi mở đón nhận chân lý dù nó đến từ bất cứ nguồn nào. Sự tác động của ngài đến triết học của Aristote đã làm cho nó trở nên hữu hiệu và sinh động hơn bao giờ hết.


Dĩ nhiên, trong quan điểm của thánh nhân, triết học đi sau thần học và phục vụ cho thần học, là nữ tỳ của thần học. Tuy nhiên, trong phạm vi riêng của mình, triết học đứng tự lập và được xảy ra đến tận cùng khả năng của nó. Từ nhiều thế kỷ nay, tư tưởng của Thánh Thomas được Giáo hội Công giáo lấy làm học thuyết chính thức trong các trường dạy thần học, trường đại học Công giáo và các đại chủng viện.


3. Những bài học từ triết học Kinh viện



Triết học thời kỳ Kinh viện đã tiếp bước những bước đi của các Giáo phụ trong vấn đề giải quyết mối tương quan giữa đức tin và lý trí, dung hoà giữa triết học với thần học. Trong hai quan điểm được phân tích trên đây, quan điểm của Anselmo rất gần gũi với thời kỳ các Giáo phụ. Nhưng quan điểm của thánh Thomas thì khác trong cách nhìn về vai trò và mối tương quan giữa đức tin và lý trí. Nếu như thánh giáo phụ Augustin đề cao ý chí, thì thánh Thomas lại đề cao lý trí; thánh Augustin chủ trương dung hòa giữa triết học với thần học, còn thánh Thomas lại phân định rõ ràng giữa hai lĩnh vực này mặc dù ngài không đối lập giữa chúng. Như vậy, trong tư tưởng của thánh Thomas, lý trí có “đất sống” của mình.


Lý trí, trong phạm vi hoạt động của nó, phải có tính độc lập với đức tin; triết học là một khoa học riêng mà đối tượng của nó là tự nhiên, xã hội và tư duy. Lý trí khởi đi từ tạo vật, từ những điều khả giác để lần bước lên đến Thiên Chúa là nguyên nhân tạo thành.


Đức tin vượt quá lý trí trong khả năng đặt tới những đối tượng siêu việt mà một lý trí tự nhiên sâu sắc nhất không đặt tới. Thần học khởi đi từ những chân lý mạc khải và từ chính Thiên Chúa. Có những lĩnh vực của đức tin mà lý trí tỏ ra mù mờ.


Do đó, giữa triết học và thần học có một ranh giới, mỗi lĩnh vực có khả năng và trách nhiệm của riêng mình. Chúng có thể hỗ trợ cho nhau trên con đường tìm kiếm chân lý. Lý trí giúp cho đức tin sáng tỏ hơn và vững chắc hơn; đức tin chắp cánh cho lý trí đi xa hơn trong việc khám phá vũ trụ. Trong mối tương quan này nếu quá đề cao đức tin sẽ làm hạn chế vai trò của lý trí, làm cho nó không khai mở được những khám phá mới, không trả lời được những khúc mắc của thời đại. Tuy nhiên, cả đức tin và lý trí đều xuất phát từ Thiên Chúa và cuối cùng quy về Thiên Chúa nên không mâu thuẫn nhau.


 


Sách tham khảo



  1. Stumpf, Samuel E. Philosophy history & problems. New York: McGraw-Hill, 1994.

  2. Alston, William. “History of philosophy of riligion.” The Routledge Encyclopedia of philosophy. Vol. 8. Ed. E. Craig. New York: Routledge, 1998.

  3. Stumpf, Samuel E. & Abel, Donald C. Elements of philosophy. Người dịch: Lưu Văn Hy. TPHCM: TPHCM, 2004.

  4. Brown, Colin. Philosophy and the Christian Faith. Tyndale, 1969.

  5. Lê Tôn Nghiêm. Lịch sử triết học Tây phương, tập II, thời Trung cổ, TP. Hồ Chí Minh, 2000.

  6. Nguyễn Trọng Viễn. Lịch Sử Triết Học Tây Phương, tập II, thời Trung cổ, 1998.


 


 


 







[1] V.I. Lnin: Tồn tập (Tiến bộ, Mtxcơva, 1981), tr 29, tr 389.



114.864864865135.135135135250