25/11/2011 -

Suy tư, nghiên cứu

1125

 


 


Cử Hành Các Bí Tích Thăng Tiến Đời Sống Tâm Linh



 





Gioan Phê Ny Ngân Giang, OP.




Ngày nay, không ít những Kitô hữu trở nên nhàm chán với việc cử hành phụng vụ. Đôi khi việc cử hành các bí tích hay á bí tích chỉ là những “thủ tục” trong đạo mà những ai đã gia nhập thì phải giữ. Bên cạnh đó, việc lơ là do không thấy được tầm quan trọng của đời sống phụng vụ hay do ảnh hưởng của một lối tư duy “tương đối và tục hoá” cũng khiến cho đời sống thiêng liêng nơi một số tín hữu trở nên khô cằn và mất sức sống. Thế nên, cần thiết phải nói đến tầm quan trọng của việc cử hành các bí tích và á bí tích đối với đời sống của mỗi Kitô hữu.Thật thế, sự cần thiết của việc cử hành các bí tích và á bí tích trong đời sống mỗi Kitô hữu được nhìn dưới hai khía cạnh. Trước hết, việc sống các bí tích là một nhu cầu, một đòi hỏi thiết yếu cho sự triển nở của đời sống thiêng liêng. Sau là, cử hành các bí tích và á bí tích được nhìn như một cuộc hiện tại hoá mọi biến cố cuộc đời: sinh ra, lớn lên, những thăng trầm của cuộc hiện sinh, cái chết và niềm hy vọng phục sinh. Ngang qua những biến cố đó, mỗi Kitô hữu khát mong nhận lấy nơi việc cử hành thánh nguồn ân sủng cho một cuộc sống thật, cuộc sống sung mãn vì được chữa lành và kiến tạo trong niềm hy vọng nơi Đức Giêsu Kitô nguồn phát sinh các bí tích.


1. Sống các bí tích và á bí tích như một nhu cầu


Việc cử hành các bí tích thường được quy trách nhiệm cho những ai chịu sự uỷ thác của Hội thánh như hàng giáo sĩ chẳng hạn. Tuy nhiên cách hiểu này đánh mất ý nghĩa nền tảng của bí tích. Vì lẽ, bí tích không phải là việc cử hành nghi thức theo luật buộc nhưng trên hết là thực thi việc thờ phượng Thiên Chúa và thánh hoá con người. Những ai càng sống hết mình cho cuộc đời càng nghiệm thấy một nhu cầu thiết yếu không thể thiếu: nhu cầu được có Chúa trong mọi cảnh huống đời mình. Sống kinh nghiệm này là sống với tất cả nhân tính nơi mỗi người. Nhân tính ấy cảm nhận và thấy cuộc đời của nó được ban tặng, còn nó là kẻ lãnh nhận. Thật thế, cuộc sống đầy tràn biểu tượng tính, những biểu tượng khả dĩ vén mở và bày tỏ những thực tại lớn lao được ẩn giấu. Nói khác đi, cuộc sống chính là ân sủng mà biểu tượng của nó là tất cả những gì đang sống và hiện hữu. Đời sống con người với tất cả lời nói, việc làm, những thăng trầm, mọi biến đổi đều vén mở cho thấy sự hiện diện và hoạt động của một Thiên Chúa vô hình. Như vậy, nhu cầu mang tính bản chất của hiện hữu người, cách riêng nơi mỗi Kitô hữu, không dừng lại ở những hoạt động hữu hình bên ngoài nhưng là sự lớn lên và triển nở của những thực tại siêu nhiên được tặng ban nhưng không cho mỗi người.


Đức Kitô đã nhập thể và trở nên bí tích của mọi bí tích. Chính Người là sức mạnh lôi kéo người tín hữu đến với các bí tích. Một khi họ đã kinh nghiệm thế nào về một khát vọng được lấp đầy trong ân sủng của Đấng Tạo Hoá thì họ cũng sẽ nhìn thấy thực tại được biểu tượng hoá nơi tất cả những cử hành và nghi thức. Không một ai khi đã thấy nơi mình một nhu cầu chân thật là cần được sống trong ân sủng lại có thể từ khước chính điều thiện hảo này. Nhưng thực tế cho thấy người ta lầm lẫn giữa nhu cầu chân thật là được sống kết hợp với Chúa với nhu cầu của một cuộc sống tạm bợ. Thế nên, nếu vượt qua được những cản trở của đòi hỏi thực dụng, của thói quen thiếu tâm tình hay của những cử hành “vụ hình thức và kỷ luật” thì chúng ta sẽ khám phá thấy một mầu nhiệm về tình yêu Thiên Chúa vốn khắc ghi nơi mọi loài thụ tạo đã trở nên rõ ràng nơi Đức Giêsu – Đấng là ân sủng và là nguồn cội của mọi bí tích đã trở nên một người trong con người. Cuộc khám phá này cho chúng ta biết ân sủng của Thiên Chúa tự bản chất có tính nhập thể và tính bí tích.[1]


Đọc ra nhu cầu cần có các bí tích của Đức Kitô trong cuộc đời mình cũng có nghĩa là đọc ra hành vi đáp trả tương xứng mình cần có. Việc đón nhận và đáp trả ân sủng cách  nào đó không phải là hai thực tại rời rạc, nhưng là một thực tại duy nhất nơi một chủ thể tràn đầy ý thức và tự do, trong mối giao hảo với Thiên Chúa qua Đức Giêsu Kitô. Nói khác đi, đó là tính hai mặt được bày tỏ trong một nhu cầu duy nhất: sống các thực tại bí tích – một nhu cầu được biến đổi trong ân sủng. Như vậy, chúng ta có thể nói rằng các bí tích không chỉ là những phương tiện chuyên chở ân sủng, mà còn hơn thế nữa, chúng là những diễn tả cụ thể của ân huệ được trao ban. Ân huệ ấy không gì khác hơn là chính hiện thân của Lời “cắm lều” (x. Ga 1,14) nơi thâm sâu tâm hồn mỗi người mà kết quả là sự biến đổi đời sống con người như lời đáp trả đối với hành động tự truyền đạt chính mình của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô. Quả thế, những gì mà các Kitô hữu cảm nhận và theo đuổi như những giá trị và mục đích cao nhất cho đời mình đều được diễn tả trong bí tích. Thế nên, việc cử hành bí tích cũng chính là việc diễn tả cách sống của người tín hữu trong mối tương quan đúng đắn với Thiên Chúa và tha nhân. Điều này có nghĩa là trong các bí tích của Giáo hội, các Kitô hữu không chỉ đọc thấy nhu cầu thiết yếu của chính mình nhưng còn nhận ra những khuôn thước ứng xử trong tương quan với tha nhân qua thực tại cuộc sống của mình.


2. Hiện tại hóa các cảnh huống của cuộc đời


Sẽ là vô nghĩa nếu lối sống đạo của người Kitô hữu chỉ nhắm đến những chuyện xa vời, rời bỏ thực tại theo kiểu “lẩn trốn cuộc đời”. Chẳng phải người môn đệ của Đức Giêsu cũng sẽ chịu chung số phận “trong thế gian” với Thầy, nghĩa là cũng phải lao vào cuộc đời và mang lấy những thương tích, thậm chí cả cái chết cho cuộc đời này sao? Một Kitô hữu, một người môn đệ Đức Giêsu, người lấy Đức Giêsu là lý tưởng cuộc đời, cũng phải lấy thái độ được sai vào cuộc đời như một lời mời gọi thánh hoá cuộc hiện hữu này. Thế nên, nhìn dưới khía cạnh của một “cuộc hiện tại hoá” thì việc cử hành các bí tích và á bí tích là sống cái hiện tại sung mãn của cuộc đời và phận người, là kinh nghiệm thấy “thập giá” và niềm hy vọng “phục sinh” trong từng thời khắc hiện hữu. Công đồng Vaticanô II, trong hiến chế về phụng vụ thánh cũng nói:[2] mọi biến cố đời sống được thánh hoá qua các bí tích và á bí tích nhờ ân sủng xuất phát từ mầu nhiệm tử nạn và phục sinh của Chúa Kitô. Như thế, điều cốt lõi của việc cử hành bí tích và á bí tích không phải là cử hành những nghi thức thần linh cho bằng sống thực tại cuộc đời trong ân sủng của Thiên Chúa qua Đức Giêsu Kitô, Đấng khơi nguồn mọi bí tích. Người tín hữu sẽ nghiệm thấy một Thiên Chúa cho mình “được sống thật” như thế nào trong phép tái sinh. Họ cũng sẽ đọc ra một Thiên Chúa đang sống với họ thế nào trong những thăng trầm cuộc đời: sinh, lão, bệnh, tử, sa ngã, được chữa lành và hồi sinh. Khuôn mặt Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô đồng hành và ở với họ qua ân sủng của Người trong mỗi chặng đường hiện tại này.[3]


Một cuộc sống thật


Thánh Phaolô đã nói lên cảm nghiệm này: “Đức Kitô sống trong tôi” (x. Gl 2,20). Như thế, ngài đang sống nhưng không phải là ngài bởi con người cũ đã chết cho tội. Điều này cũng cho phép hiểu những ai chưa có Đức Kitô sống trong mình thì họ chưa thật đang sống! Giá trị vĩnh cửu là được sống trong Đức Kitô, nghĩa là được thông dự vào sự chết và phục sinh với Người. Bí tích Thánh tẩy khai mở sự sống thật, sự sống của những kẻ biết cất lên tiếng gọi Thiên Chúa là “Cha ơi!” (x. Rm 8,15). Điều mà không phải bất kỳ tôn giáo nào cũng có, hay nói khác đi, điều mà Công giáo có được cho riêng mình như nguồn gia sản có một không hai là được sống sự sống thần linh trong chính cõi trần này. Có Thiên Chúa là Cha thì cũng đồng nghĩa là trở nên con của Đấng là Chủ Vũ Trụ, là được thông dự vào chính bản tính Sáng Tạo của Người. Chính Thánh Thần là Nguồn Tình Yêu, là Sức Mạnh và sự Thánh Hoá làm cho mỗi Kitô hữu bước đi trong đường lối của Thiên Chúa, con đường mà chính Đức Giêsu là Đấng mà mọi kẻ bước vào Vương quốc Thiên Chúa đều phải nhờ Người, qua Người và trong Người. Nơi bí tích Thêm Sức, mỗi Kitô hữu đánh dấu một bước chuyển hướng mới trong cuộc đời mình. Họ sẽ dứt bỏ mãnh lực trói buộc của thế gian, xác thịt và ma quỷ mà quy phục sức mạnh của Thánh Thần và để cho Người dẫn dắt theo con đường của sự sống. Hoa trái nơi cuộc đời của mỗi tín hữu khi chìm ngập trong ân sủng của Thánh Thần là bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ (x. Gl 5,22-23).[4]


Như thế, một khi trở nên thụ tạo mới, con người mới trong Thánh Thần, đời sống mỗi tín hữu lại càng được chứa chan ân sủng hơn nữa nơi nguồn dưỡng nuôi là bí tích Thánh Thể. Chính trong việc cử hành Thánh Thể, các Kitô hữu biết được rằng mình đang sống thật, sống một cuộc sống sung mãn.


Một cuộc sống sung mãn


Có thể nói đỉnh cao cho toàn bộ việc sống và cử hành phụng vụ các bí tích nằm ở đây, nơi bí tích chóp đỉnh và là nguồn mạch sung mãn này: bí tích Thánh Thể. Thật thế, cùng đích cuộc sống và thực tại lịch sử của hành trình mỗi ngày trong đời người được diễn lại và trở nên hiện tại trong mỗi cử hành Thánh Thể. Tương quan chiều dọc và chiều ngang được móc nối và dính chặt lấy nhau. Chính trong mầu nhiệm một Thân Thể mà Kitô hữu cảm nghiệm rõ nhất một Thiên Chúa làm người nơi chính những người được gửi đến cho họ: người thân thuộc, hàng xóm láng giềng, bạn bè thân thích, người nghèo trong xã hội, kẻ bị ức hiếp chà đạp và bị loại trừ... Thật thế, chúng ta đọc thấy tầm quan trọng của việc trở nên một cuộc đời được chia sẻ, được bẻ ra và trao ban có ý nghĩa như thế nào trong việc cử hành và sống mầu nhiệm các bí tích nói chung và cách riêng nơi bí tích Thánh Thể, nguồn mạch và chóp đỉnh của mọi bí tích.


Sự sung mãn của đời sống bí tích còn là cuộc hiện sinh, trong đó, thực tại mang lấy chiều kích nhập thể, nghĩa là mang lấy khả năng bị tổn thương, hư hoại và cần được chữa lành cùng được kiến tạo.


- Một cuộc sống được chữa lành và kiến tạo trong hy vọng


Cộng đoàn những kẻ tin Đức Kitô là cộng đoàn của những con người yếu đuối và mỏng giòn (x. 2Cr 4,7). Họ ý thức thân phận bất toàn và hay sa ngã, đồng thời cũng đọc thấy trong nội tâm sâu xa của mình một khát vọng được biến đổi, được chữa lành và được sống. Thật bi đát khi con người thời nay cố chối bỏ những gì thuộc về hữu hạn và bất toàn nơi hành trình làm người của mình. Hệ luỵ của việc chối bỏ này là sự bài trừ cái thánh thiêng hay một quá trình tục hoá có chủ đích trong mọi quan niệm, ứng xử, hành vi cá nhân thậm chí đến những tổ chức, đoàn thể, quốc gia...


Trong khi đó, mỗi Kitô hữu đang khi vẫn là một thành viên của gia đình nhân loại được mời gọi sống một tương quan mới trong ân sủng của tình thương và sự chữa lành. Chính họ khi được “lành” trong tương quan với Chúa thì cũng trở nên nguồn lan toả sự “chữa lành” cho anh em đồng loại. Quả thế, nơi các bí tích chữa lành, chúng ta gặp thấy lòng thương xót và thứ tha vô giới hạn của Thiên Chúa. Đó là món quà của tình thương mở ra cho nhu cầu không ngừng được cải hoá trong Đức Kitô cho mọi kẻ tin dẫu rằng những đỗ vỡ, tỗi lội và sự dữ vẫn đang hoành hành nơi mỗi cá nhân, trong từng cộng đoàn và ngay cả nơi “thân thể” Giáo hội. Nhìn dưới khía cạnh về tầm quan trọng, việc cử hành và sống mầu nhiệm chữa lành không thiết yếu là một sự đền bù về những lỗi phạm gây ra cho bằng đó là việc cử hành niềm hân hoan ca ngợi lòng thương xót của Thiên Chúa, một lòng thương xót mang lại sự chữa lành, bình an, sự cải hoá và hoà giải với Thiên Chúa, với lương tâm và với cộng đoàn anh em.


Tóm lại, nơi các bí tích và á bí tích, mỗi Kitô hữu được no thoả sự khát mong ân sủng cho tâm hồn. Sống các bí tích không dừng lại nơi những nghi thức, thời gian, không gian hay lòng đạo đức cá nhân nhưng trên hết, là được biến đổi nhờ tác động của ân sủng Thánh Thần trong Đức Kitô. Nhờ đó, mỗi tín hữu đọc thấy ý nghĩa cuộc đời mình trong tương quan với Thiên Chúa và với tha nhân. Đó cũng là thực tại bí tích của cuộc sống: một thực tại qua những biểu tượng, hiện tại hoá chính những gì đang được diễn đạt, cử hành và được sống trong mọi cảnh huống.


 







[1] Bernard Cooke, Sacraments and Sacramentality (New London: Twenty-Third, 2006), tr. 6-28.




[2] Vat. II, SC, số 61. Cũng xem Giuse Phạm Quốc Văn, OP., Từ cạnh sườn bị đâm thâu (HVĐM, 2010), tr. 118.




[3] Michael Downey (Editor), The New Dictionary of Catholic Spirituality (USA: The Liturgical Press, 1993), tr. 834-844.




[4] Ibid., tr. 834-844.



114.864864865135.135135135250