07/04/2010 -

Suy tư, nghiên cứu

1235

 


BỐN ĐỀ MỤC CHÍNH CỦA BÀI GIẢNG TRÊN NÚI


Phần I


 


ĐỀ MỤC I


TÁM MỐI PHÚC 


 


Thánh Matthêu đã đặt 8 mối phúc thật làm nhập đề cho BGTN. Rất nhiều vấn đề được đặt ra chung quanh các mối phúc này, xét dưới khía cạnh phê bình văn bản cũng như dưới khía cạnh chú giải thần học.


I. CÁC MỐI PHÚC DƯỚI KHÍA CẠNH PHÊ BÌNH VĂN BẢN


Xét dưới khía cạnh phê bình văn bản, câu hỏi đầu tiên được đặt ra là: có bao nhiêu mối phúc thật? Chúng ta đã quen nói tới 8 mối phúc thật mỗi khi đọc BGTN; nhưng chúng ta quên rằng thánh Matthêu dùng tới 9 lần từ ngữ “Phúc thay": như vậy thì có 8 hay 9 mối phúc thật? Thường thì chúng ta gom hai cái phúc cuối cùng làm một vì thấy nội dung tương tự như nhau ("Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính” ... “Phúc cho anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại..."). Câu hỏi về con số các mối phúc thật trở thành rắc rối hơn thì đối chiếu giữa thánh Matthêu và thánh Luca (6,20-26): thánh Luca chỉ trưng có 4 phúc, nhưng lại kèm theo 4 họa. Lối hành vẫn của Luca cũng khác. Thay vì “phúc cho ai nghèo khó”, Luca đổi sang ngôi thứ hai: “phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó”. Dĩ nhiên, chúng ta có thể hình dung được cuộc tranh luận giữa các học giả Kinh thánh: ai trung thành với hình thức nguyên thủy của lời dạy của Đức Giêsu hơn: Matthêu đã thêm vào, hay Luca đã cắt đi? Vấn đề trở nên phức tạp hơn nữa khi biết rằng Phúc âm còn chứa đựng rất nhiều mối phúc khác nữa. Chẳng hạn như những câu mà Luca áp dụng cho đức Maria. “Phúc cho ai tin rằng Lời Chúa sẽ nên ứng nghiệm” (1,45); “Phúc cho ai lắng nghe và giữ lời Chúa (11,28).


II. CÁC MỐI PHÚC TRONG BỐI CẢNH BGTN


Có rất nhiều cách thức để khảo sát các mối phúc thật. Thường thường, các nhà chú giải chú ý tới việc phân tích những từ ngữ chủ chốt, tựa như: “phúc thay” (thế nào là “phúc": hạnh phúc? may mắn?), những phần thưởng được hứa (đất hứa, nước trời, được an ủi, được xót thương). Thêm vào đó, ra như mỗi thời đại tỏ ra nhạy cảm với một chân phúc riêng. Chẳng hạn, vào thời cổ, chân phúc chịu bách hại vì Phúc âm được đặt hàng đầu; vào thời Trung cổ, người ta chú ý tới chân phúc khiêm nhường và khó nghèo; vào thời cận đại, người ta nói nhiều tới việc xây dựng công lý hòa bình; gần đây, người ta vạch ra tinh thần tự do mà các chân phúc mang lại.


Ở đây, chúng ta hãy xét tới các mối phúc thật trong bối cảnh của BGTN: các mối phúc này cần được coi như dẫn nhập tổng quát, với những tư tưởng sẽ được quảng diễn trong suốt bài giảng. Dĩ nhiên, chắc chắn nhiều người cũng đồng ý với phương pháp này. Nhưng đến khi mang ra áp dụng thì chắc là sẽ có rất nhiều tranh luận chung quanh việc xác định đâu là cái tư tưởng chủ chốt làm nền tảng chung vừa cho tất cả các mối phúc vừa cho tất cả phần còn lại của BGTN? Dù biết vấn đề khó khăn, nhưng chúng ta cũng thử mò mẫm xem.


Ở 5,20 chúng ta đọc thấy lời như sau: “Nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pharisêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời”. Tiếp theo đó, đức Giêsu giải thích sự công chính mà các môn đệ của Người phải nhắm tới, và đi tới kết luận ở câu 48: “Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện”. Như vậy thánh Matthêu đi từ tư tưởng “công chính” của người Do thái để bước sang sự “hoàn thiện” của chính Thiên Chúa, “Đấng cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” (5,45). BGTN muốn đề ra một mẫu mực mới trong cách cư xử: mẫu mực đó là Thiên Chúa. Con người sẽ nên hoàn thiện nếu họa lại được mẫu mực đó. Nói thế có nghĩa là con người không thể tìm thấy sự hoàn thiện ở nơi bản thân nhưng cần phải tìm ở nơi Thiên Chúa. Con người cần phải để cho Thiên Chúa chiếm ngự hoàn toàn. Trong bối cảnh đó, các mối phúc trình bày chân dung của một con người hoàn thiện; con người đó là đức Giêsu, kẻ là dâng cả cuộc đời cho Thiên Chúa và mở rộng tới tha nhân.


a. Chân dung của một người sống trót cho Thiên Chúa


1) Chúng ta hãy lấy chân phúc thứ nhất làm khởi điểm cho sự khảo sát chân dung của con người hoàn thiện, chân phúc của tâm hồn nghèo khó. Thường thì sự nghèo khó được xét trong mối tương quan với tài sản vật chất. Người ta lưu ý rằng phúc thực được hứa cho người có tâm hồn khó nghèo, nghĩa là không quyến luyến với tài sản, không làm nô lệ cho tiền tài. (Tình cảnh nghèo túng về vật chất chưa phải là phúc thực). Tuy nhiên, giải thích như vậy thì xem ra đã hiểu từ “khó nghèo” quá hạn hẹp. Thực vậy, trong Kinh thánh, sự khó nghèo không phải chỉ giới hạn vào lãnh vực tài sản, nhưng tiên vàn nó là một thái độ của con người trước mặt Thiên Chúa. Người nghèo đồng nghĩa với người có tinh thần khiêm tốn trước mặt Chúa (Xc Is 66,2), chỉ biết cậy dựa vào Thiên Chúa. Sự khó nghèo về tài sản vật chất trong BGTN chỉ là một dấu hiệu biểu lộ sự tín thác hoàn toàn nơi sự quan phòng của Cha trên trời, Đấng đã nuôi chim trời và trang điểm cho hoa ngoài đồng.


2) Như vậy, điều căn bản của một tâm hồn nghèo khó là sống tin tưởng vào Thiên Chúa và sống cho Thiên Chúa. Điều này được bổ túc với các mối phúc kế đó: đói khát sự công chính. Ở đây sự “công chính” phải được hiểu là ý định của Thiên Chúa, kế hoạch cứu độ của Ngài: “tiên vàn anh em hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài” (6,33). Dĩ nhiên, đức Giêsu đã hiến dâng hoàn toàn cuộc đời để phụng sự chương trình của Chúa Cha, lấy đó là mối bận tâm duy nhất.


3) Sự hiến dâng trót đời cho Thiên Chúa bao hàm cả việc dành trót cả tâm tư cho Ngài. Đây là ý nghĩa của chân phúc của kẻ có tâm hồn trong sạch. Chúng ta đừng nên đối chiếu giữa “tâm hồn trong sạch” với dâm dục. Trong BGTN, “tâm hồn trong sạch” đối nghịch với sự giả hình, kẻ làm việc thiện (bố thí, cầu nguyện, ăn chay) cốt cho thiên hạ hoan hô tán thưởng. Trái lại, người có tâm hồn trong sạch là người sống ngay thẳng trước mặt Thiên Chúa từ trong thâm cung của cõi lòng, chỉ cốt tìm vinh quang Chúa và biểu lộ lòng thương xót của Ngài (6,4.6.18; xc 23,26). Hậu nhiên, con người có tâm hồn trong sạch là kẻ đã dâng trót con tim cho Chúa, không để cho tí chút tư lợi nào len lỏi.


b. Hậu quả của việc sống trót cho Chúa đối với những tương giao với tha nhân


Ba chân phúc “tâm hồn khó nghèo”, “đói khát công chính”, “tâm hồn trong sạch” biểu lộ thái độ của con người tín thác vào Chúa, chỉ mưu cầu thánh ý Chúa, dành cho Ngài con tim không san sẻ. Đức “hiền lành” và “sầu muộn khóc than” được gắn liền với tâm hồn khó nghèo khiêm tốn. Một khi con người đã để cho Thiên Chúa chiếm đoạt toàn thể cuộc sống của mình, thì những mối tương giao với tha nhân cũng được biến đổi. Đó là ý nghĩa của những mối phúc của sự “xót thương”, sự “xây dựng hòa bình”, “chịu bách hại”. Nó là bức chân dung của một con người muốn tỏ tình thương của Thiên Chúa dành cho nhân loại.


4) Thực vậy, một đặc tính của Thiên Chúa mà đức Giêsu muốn nêu bật trong BGTN là lòng thương xót, lòng lân tuất. Trong Cựu ước, nhiều ngôn sứ đã nhấn mạnh rằng Thiên Chúa cư xử khác với con người ở chỗ Ngài tỏ lòng khoan nhân: “Ngài chậm giận, giàu tình thương và lòng thành tín” (Xh 34,6; Tv 86,15; 103,8; 111,4; 145,8). Ngài không xét xử ta chiếu theo công trạng của ta: mặc dù ta bất tín, nhưng Ngài vẫn trung thành với lời hứa. Tình thương của Ngài vượt quá tầng trời xanh. Vì vậy, kẻ nào đã bị Chúa chiếm đoạt thì cũng sẽ nhiễm cả cách cư xử của Ngài: họ sẽ biết xót thương người.


5) Sự xây dựng hòa bình là một hình thức biểu lộ lòng xót thương, một hình thức của tình liên đới với tha nhân.


6) Lòng xót thương được thực hiện cách anh hùng trong việc tha thứ cho kẻ bách hại. Kẻ ấy noi theo Thiên Chúa xót thương, bởi vì Ngài không đếm xỉa gì tới sự bội bạc của con người song không ngừng giáng phúc thi ân. BGTN nói tới sự tha thứ ở cuối chương 5 và trong kinh Lạy Cha.


Như vậy, các mối phúc trình bày cho ta thấy chân dung của một con người biết để cho Thiên Chúa hoàn toàn chiếm đoạt. Họ đặt tin tưởng nơi Chúa, họ dâng hiến cuộc đời để phụng sự chương trình của Chúa, họ phản ánh đường lối cư xử của Chúa khi giao tiếp với tha nhân. Chính vì đặt trọng tâm của cuộc đời ở nơi Thiên Chúa, cho nên họ thâm tín rằng duy có Chúa mới mang lại được hạnh phúc cho họ, một thứ hạnh phúc có tính chất vững bền trường cửu, không bị lệ thuộc vào thế tạm này.


Theo nhiều tác giả, đoạn vẫn về các mối phúc cần được gắn liền với hai dụ ngôn về muối đời và ánh sáng thế gian (c.13 - 16). Lối hành vẫn của thánh Matthêu đáng cho chúng ta suy nghĩ. Chúa Giêsu không nói rằng: “anh em hãy nên muối ... anh em hãy nên ánh sáng”, nhưng: “anh em là muối ... anh em là ánh sáng”. Điều này hàm ngụ rằng đây là một thực tại đã xảy ra nơi cộng đoàn kitô hữu rồi, chứ không còn là một mệnh lệnh cần phải thực thi. Các kitô hữu được ủy thác một sứ mạng truyền giáo ở giữa đời: họ là “muối cho đất... ánh sáng cho trần gian”. Thế nhưng, liền theo đó là một lời cảnh cáo về một tình trạng nghiêm trọng: “Nhưng mà nếu muối đã nhạt... đèn bị úp lại (chứ chưa nói đến chuyện tắt lịm!)”. Nếu các Kitô hữu không chu toàn sứ mạng của mình, thì chẳng có ai thay thế được đâu! Họ hãy chiếu sáng cho thế gian bằng đời sống chứng tá; nhưng liệu làm sao để đừng rơi vào khuyết điểm của các Biệt phái: họ đừng tìm vinh danh hão huyền khi làm việc thiện, song hãy giữ gìn tâm hồn trong trắng (chân phúc thứ 6), mong sao cho thiên hạ ngợi khen Cha trên trời.


 


ĐỀ MỤC II


LUẬT CŨ VỚI LUẬT MỚI


Sau 8 mối phúc thật, phần còn lại của chương thứ 5 của Tin mừng theo thánh Matthêu gồm chứa những phản đề giữa luật cũ với luật mới. Kiểu nói đối nghịch được lăp đi lặp lại 6 lần: “Anh em đã nghe dạy rằng... Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết”. Thế nhưng phải hiểu thế nào về tầm mức của những phản đề ấy? Vấn đề thần học chính yếu được đặt lên từ những câu 17-18 ở đầu đơn vị này: “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Môsê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn. Thầy bảo thật anh em, trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong Lề luật cũng không thể qua đi được cho đến khi mọi sự được hoàn thành”. Chúng ta thấy có vài điều xem ra mâu thuẫn. Một đàng, khi nêu bật những nghịch đề, ra như đức Giêsu muốn sửa lại Luật cũ (từ ngữ “Luật của Môsê và lời các ngôn sứ” bao gồm toàn thể Cựu ước). Đàng khác, Ngài lại quả quyết rằng phải giữ cho trọn Luật cũ, không được đụng tới cả cái chấm cái phết. Có các tác giả đã đưa ra các ý kiến của các tác giả nhằm giải quyết sự mâu thuẫn vừa nói.


I. TƯƠNG QUAN GIỮA LUẬT MỚI VỚI LUẬT CŨ


1) Khuynh hướng thứ nhất chủ trương rằng Chúa Giêsu đã bãi bỏ luật của Môsê. Ý kiến này đã ra đời từ thế kỷ thứ hai. Giám mục Papias thành Hiêrapoli (k.60-130) đã gọi Tin mừng theo thánh Matthêu là “Ngũ thư mới” (gồm có 5 bài giảng). Đức Giêsu là Môsê mới, đã lên núi và nhận lãnh luật mới thay thế cho luật cũ. Luật mới thay thế luật cũ, cũng như Hội thánh thay thế cho Israel trong ơn gọi làm dân của Thiên Chúa.


2) Phần nào Lutêrô cũng chấp nhận rằng Chúa Giêsu đã bãi bỏ luật cũ của Môsê, nhưng ông còn đi xa hơn nữa. Theo Lutêrô, sau khi đã bãi bỏ luật cũ đi rồi, Chúa Giêsu không có thay thế bằng một bộ luật khác. Không thể nào quan niệm Chúa Giêsu như một nhà làm luật được. Tân ước không phải là bộ luật, nhưng là quyển sách của ân sủng. Nói đúng hơn, Chúa Giêsu cho ta thấy những yêu sách triệt để của Nước Trời. Đứng trước những yêu sách đó, không ai thực hiện nổi bằng sức riêng của mình. Con người chỉ có thể thú nhận sự bất lực của mình, và mở cửa đón nhận ơn tha thứ, có khả năng biến đổi con người nên công chính.


3) Gần đây, dựa theo những khảo cứu về sự soạn thảo các sách Phúc âm, các nhà chú giải cho rằng Chúa Giêsu không có tự mâu thuẫn khi bàn về tương quan giữa luật cũ và luật mới. Những vấn nạn đã nêu trên đây chỉ là phản ánh những tương phản ở trong cộng đoàn nơi mà tác phẩm của thánh Matthêu ra đời. Cộng đoàn ấy gồm có nhiều kitô hữu gốc Do thái trở lại. Từ đó, giữa lòng cộng đoàn đã nảy ra những tranh luận về giá trị của luật Môsê: có người yêu sách phải triệt để cắt đứt với những tập tục cổ truyền, vì vậy mà cần phải nhấn mạnh tới cái gì tiêu biểu mới mẻ của Chúa Giêsu (đây là lý do của những phản đề); nhưng có phe khác thì quan niệm rằng giữa luật cũ và luật mới có sự liên tục chứ không phải là gián đoạn (đây là lý do của câu nói 5,17: “Thầy không đến để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn"). Sự kiện toàn đó đặt ra những yêu sách nặng nề hơn cả luật cũ nữa ("nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pharisêu thì sẽ chẳng được vào Nước Trời": 5,20). Thực ra, ta đừng nên quên rằng ngay cả các tín đồ Do thái cũng đã tranh luận với nhau về giá trị của luật Môsê rồi: có buộc phải giữ luật của ông Môsê cứ như chữ đã viết, hay là cần phải thích nghi cho hợp với hoàn cảnh? Có những trường phái đã chấp nhận sự giải thích uyển chuyển luật của Môsê. Chẳng hạn trong quyển 1 sách Macabê (2,39-41), ta thấy rằng khi tình thế đòi hỏi, có thể chước chuẩn luật buộc phải nghỉ việc ngày Sabat; cũng vậy dần dần tục ly dị đã được du nhập mặc dù Môsê không cho phép (Đnl 21,1). Nói khác đi, các tín đồ Do thái vào thời đó đã hiểu luật của Môsê theo hai nghĩa:


a/ theo nghĩa đen, luật của Môsê bao gồm những gì đã được viết trong sách;


b/ theo nghĩa tinh thần, luật của Môsê ám chỉ ý muốn của Thiên Chúa trong hoàn cảnh cụ thể.


Trong bối cảnh như vậy, chúng ta sẽ hiểu được thái độ của đức Giêsu trong Bài Giảng trên núi. Nếu hiểu Luật Môsê như là mặc khải của Thiên Chúa, thì chắc chắn không bao giờ đức Giêsu lại tới phá hủy được (nghĩa b); tuy nhiên nếu hiểu Luật Môsê như những bản vẫn cứng nhắc (nghĩa a), thì đức Giêsu có sửa đổi, với mục tiêu nhằm làm sáng tỏ hơn ý định của Thiên Chúa. Những phản đề mà chúng ta sẽ thấy dưới đây có thể được coi như là những lời của đức Giêsu giải thích ý định của Thiên Chúa.


4) Sau cùng, một ý kiến nữa cho rằng trong những câu 15-17 của chương 5, đức Giêsu không có ý đối chiếu luật cũ với luật mới. Những câu này chẳng có ăn nhập gì với luật pháp cả. Ở đây, thành ngữ “luật Môsê và các ngôn sứ” không có nghĩa là những bản vẫn luật lệ, song là một giai đoạn của lịch sử cứu rỗi: Đức Giêsu đã đến để hoàn tất những gì đã được loan báo. Chính vì vai trò vô song của đức Giêsu trong kế hoạch mặc khải đã tạo cho Người một thẩm quyền để giảng dạy (như Mt ghi lại ở cuối bài giảng: 7,29).


II. NHỮNG PHẢN ĐỀ


Từ những điều trên đây, ta không nên hiểu những phản đề như là sự đối lập giữa luật cũ với luật mới như kiểu đen đối chọi với trắng. Đây không phải là những phản đề theo nghĩa chặt, nhưng là sự trưng bày cái cốt tủy của Luật Chúa, nhờ đó các môn đệ của đức Kitô có thể nhận biết đâu là sự công chính đích thực: “Nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Phariseu thì chẳng được vào Nước Trời”.


Ta có thể nhận thấy những phản đề qua lối hành vẫn: “Anh em đã nghe dạy rằng... Còn Thầy, Thầy bảo anh em”, xoay quanh 6 điểm sau đây:


- giết người và giận ghét (câu 21-26);


- ngoại tình và thèm muốn (c.27-30);


- ly dị (31-32);


- bội thề và cấm thề (câu 33-37);


- Trả thù và không chống cự (38-42);


- Ghét kẻ thù và yêu kẻ thù (câu 43-48).


1/ Giết người và giận ghét


Trong Cựu ước, giới răn “chớ giết người” (Xh 20,13; Đnl 5,17) không có tính cách tuyệt đối. Án tử hình được chấp nhận đối với vài trọng tội (Ds 35,16-21) cũng như sự chém giết được chấp nhận khi có chiến tranh (Đnl 20,13.16). Nhưng đối với Đức Giêsu, chúng ta có thể xúc phạm tới tính mạng của người anh chị em bằng nhiều cách khác nữa: sự giận dữ, chửi rủa, mạt sát họ. Không những Ngài ngăm đe những hình phạt dành cho những xúc phạm ấy, nhưng Ngài còn muốn cho các môn đệ luôn sống trong tâm tình hòa giải với tha nhân, vì điều đó đánh giá sự thờ phượng đích thực.


2/ Ngoại tình và thèm muốn


Trong Cựu ước, ngoài giới luật cấm ngoại tình (Xh 20,14; Đnl 5,18), đã có điều cấm ước ao lấy vợ của người hàng xóm (Xh 20,17b) cũng như cấm để mắt nhìn thiếu nữ (Hc 9,5-9). Xem ra điều mà đức Giêsu muốn nhấn mạnh ở đây là cái “lòng” (con tim). Trong phản đề trước, sự lỗi phạm đến tha nhân được bộc lộ ra bên ngoài (nét mặt giận dữ, lời nguyền rủa), nhưng trong phản đề này, tội xảy ra trong thâm cung, không ai thấy được ngoại trừ mình với Chúa. Giáo huấn về con tim sẽ còn được tiếp tục trong suốt BGTN; nó là chân phúc dành cho kẻ có tâm hồn trong sạch.


3/ Ly dị


Xét về thể vẫn thì đây là phản đề thứ ba; nhưng nếu xét về nội dung thì ra như nó chỉ bổ túc cho phản đề thứ hai bàn về hôn nhân và ly dị. Đức Giêsu xét lại những lý do mà tục lệ Do thái đã cho phép rẫy vợ. Thánh Matthêu chỉ chấp nhận một trường hợp, đó là “porneia” (xc 19,9). Các nhà chú giải đã đưa ra nhiều ý kiến để giải thích ý nghĩa của nó: gian dâm ngoại tình? hôn nhân bất hợp pháp?


4/ Bội thề và cấm thề


Cựu ước đã cấm làm chứng gian (Xh 20,16) và nhất là cấm kêu danh Chúa để mà thề điều gian dối (Lv 19,12). Đức Giêsu đã tuyệt đối cấm thề. Xem ra có hai lý do của điều cấm:


- phải kính trọng Thiên Chúa;


- tôn trọng giá trị của lời nói, làm sao có sự thuần nhất giữa nội tâm và sự phát biểu ra ngoài: “có nói có, không nói không” (xc. 2Cr 1,17; Gc 5,12).


5/ Trả thù và không chống cự


Câu nói “mắt đền mắt, răng đền răng” không nằm trong bản 10 điều răn nhưng là một tiêu chuẩn được đặt ra trong sách “Giao ước” (Xh 21,23; Lv 24,19; Đnl 19,21). Mục tiêu của nó không phải là dạy phải báo thù, nhưng là để giới hạn mức độ tối đa của sự bồi thường: tòa án không được đòi hỏi sự đền phạt quá mức đó! Nhưng đức Giêsu thì bảo hãy khước từ cả việc nại tới công lý. Hơn thế nữa, thay vì cắn răng nhịn nhục kẻ vũ phu, đức Giêsu còn khuyên hãy vui vẻ chiều lòng hắn! Ở đây Ngài không cho biết lý do tại sao phải cư xử như vậy; lý do đó sẽ được nói trong phản đề tiếp sau đây.


6/ Ghét và thương kẻ thù


Trong Cựu ước, ta thấy có lệnh truyền “hãy yêu người thân cận” (Lv 19,18), nhưng không đâu có chỗ nói “hãy ghét kẻ thù”. Có lẽ đây là một lưu truyền vào thời đó, như gặp thấy nơi cộng đoàn Qumran ("hãy ghét những kẻ Chúa ghét"). Đức Giêsu thì bảo hãy yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi. Lý do là vì các môn đệ của Nước Trời phải cư xử họa theo mẫu gương hoàn thiện của Cha trên trời.


Đây là tột đỉnh của các phản đề. Đức Giêsu không quan niệm luật Chúa như những bản vẫn cứng nhắc cần phải tuân giữ theo đúng chữ đen từ đời này qua đời khác. Đức Giêsu quan niệm luật Chúa cách linh động, cần phải thích ứng tùy theo hoàn cảnh. Tuy nhiên, khi thích ứng như vậy, hãy coi chừng kẻo chỉ đi tìm sự dễ dãi (tỉ như trường hợp ly dị). Trái lại, đức Giêsu đặt tiêu chuẩn của luật Chúa nơi chính ý định của Thiên Chúa. Ai muốn nên công chính thì cần phải làm theo ý Chúa, cư xử như chính Chúa.


Trong quá khứ, ra như các sách luân lý chỉ để ý đến ba phản đề đầu tiên, nhấn mạnh tới những tội trong tâm trí tư tưởng (thù hằn, tà dâm). Những phong trào cách mạng xã hội thì lưu tâm cách riêng tới phản đề thứ 5: theo họ, bộ mặt xã hội sẽ thay đổi rất nhiều qua cuộc cách mạng bất bạo động.


Lm Giuse Phan Tấn Thành, OP


(còn tiếp...)


Nguồn : TSTH số 19 - 3/2000


 

114.864864865135.135135135250