ĐIỀU GÌ ĐÃ ĐÓNG ĐINH ĐỨC GIÊSU ?
(vụ án Đức Giêsu dưới cái nhìn của một thần học gia Do Thái)
Ellis Rivkin
Thế Hanh, OP chuyển ngữ
Hẳn rằng chúng ta đã đọc nhiều bài viết về Đức Kitô của các thần học gia Kitô giáo hoặc của các tác giả Kitô giáo. Tuy nhiên, những bản dịch về Đức Kitô của những tác giả ngoài Kitô giáo hơi khan hiếm. Những học giả ngoài Kitô giáo nghĩ gì về Đức Giêsu? Xin được giới thiệu bài viết “Điều gì đã đóng đinh Đức Giêsu?” của tác giả Ellis Rivkin, một giáo sư lịch sử Do Thái tại Hebrew Union College-Jesish.
Thời xưa, trọng tội đóng đinh Đức Giêsu được qui cho người Do Thái. Tuy nhiên, ngày nay lại có khuynh hướng quy cho thể chế Rôma. Bài viết này đứng trên lập trường thứ hai : Không phải người Do Thái nhưng chính thể chế Rôma đã đóng đinh Đức Giêsu. (Người dịch).
AI ĐÃ ĐÓNG ĐINH ĐỨC GIÊSU?
Đây là một thực trạng buồn thảm một cách nào đó người Do Thái đã trực tiếp gây ra. Sự kiện này tạo nên những cơn đau quặn thắt tựa cơn đau đẻ nơi những người Kitô hữu. Thật vậy, đây là một thực trạng hết sức bi thảm vì nó là nguyên cớ gây ra nỗi oán hận mãnh liệt giữa tôn giáo mẹ và tôn giáo con, hai tôn giáo có liên hệ máu mủ với nhau mà chắc rằng không bao giờ có thể chia cắt. Bao lâu người Kitô hữu còn xem các sách Tông đồ công vụ, các thư Phaolô và các sách khác trong Tin Mừng là những cuốn sách Thánh, thì mối dây ràng buộc với người Do Thái và giữa giữa hai tôn giáo vẫn còn tồn tại. Vì tất cả những lời nguyện cầu Kitô hữu dâng lên Đấng Cứu Thế đều bắt nguồn từ những bài thơ trong Cựu Ước. Tất cả những lời khẩn nài để trở thành Israel đích thực đều hàm chứa trong sách Ngũ Thư. Và niềm tin người Kitô hữu về Đức Giêsu phục sinh từ cõi chết thì cũng là niềm tin trọng yếu của nhóm Kinh sư Pharisêu trong thời đại Đức Giêsu sống. Nếu cắt lịch sử và tôn giáo Israel ra khỏi Tin Mừng thì Kitô giáo tiêu tan. Có thể Tân Ước thay thế Cựu Ước, Israel Tinh Thần thay thế cho Israel vật chất, Đức Kitô thay cho Luật, nhưng nội dung chính vẫn không thay đổi.
Vì nội dung chính vẫn còn, nên mối tương quan giữa Kitô giáo và Do Thái giáo là một mối giây căng đét trong thảm kịch. Đức Giêsu đã chết cách bất thường với những tình huống bất thường. Theo các sách Tin Mừng, Đức Giêsu bị bắt do lệnh của thượng tế. Người bị xét xử trước thượng hội đồng do những người nắm trọng trách Do Thái, trong đó thượng tế là người đứng đầu. Người bị thượng tế trao nộp cho Phongxiô Philatô. Người bị kết án đóng đinh thập tự với trọng tội xưng mình là Vua Do Thái. Thiên Chúa Cha đã cho Người phục sinh sau ba ngày kể từ khi Người tắt thở. Qua một chuỗi những dữ kiện khủng khiếp trên, thứ tự những người Do Thái có liên can được sắp xếp : Thượng tế, những kinh sư, những bô lão, thượng hội đồng, đám đông chống đối kêu gào đóng đinh, những người Do Thái nhạo báng Người khi Người đang bị treo trên thập giá trong cơn đau hấp hối. Khi nghe hoặc đọc bản tường thuật cảnh bi thương thảm khốc của một bậc Thầy từng chữa lành bệnh tật, cảm thương những người nghèo khổ, xua đuổi ma quỷ, an ủi những người tội lỗi, và loan truyền Vương Quốc Thiên Chúa đang đến thì khỏi sao trong chúng ta không dấy lê nỗi đớn đau, buồn rầu và đắng cay giận dữ ? Trong những thế kỷ qua, người Kitô hữu vẫn thể hiện nỗi đau, nỗi uất hận và sự đắng cay giận dữ đối với người Do Thái, những người mà dường như là căn nguyên gây ra mọi cảnh bi thương đó.
Đóng đinh là một hình phạt tàn ác vô nhân đạo. Thậm chí nó là hành động tàn ác và vô nhân đạo với cả những ai đã gây nên tội ác nghiêm trọng. Hành động đó càng trở nên tàn ác và vô nhân đạo bội phần khi nó giáng xuống trên một người được thần hứng, một ngôn sứ, một người tha thiết truy tầm ơn cứu độ và cứu chuộc nhân loại. Những ai gây nên tội ác tầy trời này đáng phải chịu sự phẫn nộ rất chính đáng của chúng ta nếu không nói là xứng đáng chịu chúng ta trả thù.
Do đó, chúng ta dễ hiểu tâm trạng các môn đệ, những người chứng kiến tận mắt mọi đau khổ Đức Giêsu chịu. Chứng kiến Thầy mình quằn quại trong nỗi đau thương nhục nhã thì khỏi sao các ông không bị chao đảo, bị lăng nhục, ngậm đắng nuốt cay và chắc rằng các vị sẽ không thể quên được những người đã gây đau khổ cho Thầy của mình. Chúng ta cũng biết rằng, tường thuật về cuộc đời Đức Kitô, vụ án, cuộc tử nạn và phục sinh ẩn khuất nhiều căm hận đối với những người bằng cách này hay cách khác đã không chấp nhận Người là Đấng Mêsia ngay khi Người đang sống và không chấp Người là Đấng Mêsia sau khi các môn đệ của Người đã chứng kiến Người sống lại từ cõi chết.
Thật vậy, chúng ta khó có thể tống khứ vấn nạn trách nhiệm khủng khiếp này. Giống như Cựu Ước, Tân Ước luôn ở bên chúng ta. Trình thuật cuộc khổ nạn bi thương của Đức Giêsu luôn khơi gợi nỗi đau, sự buồn phiền và cả căm hận nơi con tim của người Kitô hữu. Chẳng có cuộc phẫu thuật nào có thể cắt bỏ khỏi Tin Mừng những khối u đau thương : một cuộc bắt bớ, một vụ án, một cuộc đóng đinh và những chứng cớ Đức Giêsu đã phục sinh.
Chúng ta không thể tránh né khỏi việc quy trách nhiệm này. Là những người truy tầm chân lý, chúng ta ước muốn biết được điều gì đã xảy ra, tại sao sự kiện đó lại xảy ra và ai là người phải có trọng trách về sự kiện đó. Là những người truy tầm sự hoà giải giữa tôn giáo mẹ và tôn giáo con, chúng ta ước muốn kiến tạo sự giao hoà dựa trên những sự kiện đã diễn ra hơn là tìm cách loại bỏ hay cố tìm quên chúng.
Có lẽ mục đích khả thi nhất là việc chúng ta thay đổi nhãn quan từ vấn nạn “Ai là người đã đóng đinh Đức Giêsu ?” thành vấn nạn “Điều gì đã đóng đinh Đức Giêsu ?”.
Tuy nhiên, việc thay đổi nhãn quan này nói thì dễ mà làm thì khó. Vì vậy, chúng ta cần một vài nguồn tường thuật về cuộc đời Đức Giêsu không ảnh hưởng đến sự thù hận như những câu chuyện Tin Mừng – Một nguồn diễn tả cho chúng ta biết Đức Giêsu lịch sử thực sự không bị ảnh hưởng bởi sự nồng nhiệt của những người xác tín mạnh mẽ Đức Giêsu đã sống lại từ cõi chết.
Nhưng chúng ta biết đào đâu ra một nguồn như thế đây ? Chúng ta chỉ có những trình thuật trong Tin Mừng, trình thuật được viết bằng niềm tin, bằng sự nồng nhiệt, và trong đó có cả sự thù địch và oán giận. Như vậy, chúng ta sẽ khởi đi từ đâu ?
Tôi đề nghị chúng ta quay trở về với những bản văn của Josephus – không phải vì ông đã tường thuật cuộc đời, vụ án, cuộc khổ hình và sự phục sinh nhưng vì ông không tường thuật những điều đó ! Josephus chào đời ngay sau khi Đức Giêsu chết, ông cũng là một người tham gia mãnh liệt, một quan sát viên trước tình trạng náo động trong thời gian này. Là một công dân có chức vụ trong miền Galilê trong suốt thời gian người Do Thái nổi dậy chống lại Rôma, hoàn cảnh thu hút ông một cách mãnh liệt. Ông đã viết chi tiết nguyên nhân đưa đến chiến tranh trong cuốn “The Jewish War”, phần cuối của bộ “Antiquities” và bộ tự truyện của ông, cuốn “The Life”.
Là một người say mê Thucydides và Polybius, những sử gia vĩ đại của thế giới Hy-La, Josephus là một sinh viên sắc sảo về chính trị và là một bậc thầy của thể văn lịch sử. Là một người thuộc nhóm Pharisêu, ông rất giỏi trong lãnh vực truyền đạt cả văn Luật lẫn khẩu Luật. Ông tin linh hồn bất tử và sự phục sinh thân xác. Là một người Do Thái bị đàn áp, ông cảm nhận sâu xa những nỗi khổ đau, cảnh cô thế cô thân, bơ vơ lạc loài mà thân phận những người Do Thái đang bị vòng kìm kẹp của đế quốc Rô ma khoác lên. Josephus là nguồn tư liệu quý giá biểu lộ hệ thống cai trị của đế quốc Roma vào thời Đức Giêsu; những hệ thống Do Thái thông dụng trong thời đại này ; cuộc cách mạng bùng nổ làm náo động lãnh thổ ; những người được thần hứng, những ngôn sứ và những người mang dáng dấp Mêsia đã loan giảng trên những vùng núi Giuđêa và Galilê.
Nguồn tài liệu của Josephus rất cần cho mụch đích chúng ta đang truy tầm. Từ những bài ông viết, chúng ta có thể phác hoạ nên khung ảnh mà trong đó cuộc đời, vụ án, cuộc khổ nạn và sự phục sinh của Đức Giêsu được tỏ bày. Nhưng chúng ta sẽ làm gì hơn nữa. Với sự hướng dẫn của Josephus, rất có thể chúng ta sẽ phục hồi chân dung Đức Giêsu lịch sử, một người đã sống quá xa chúng ta. Bằng cách vẽ chân dung một trong những vị được linh hứng từ một mạng phức tạp trong cấu trúc thời gian, nơi chốn và những nối kết do Josephus dệt nên, chúng ta sẽ có một vị trí để so sánh chân dung này với với những hình ảnh Tin Mừng vẽ lên cho chúng ta.
Kế đó chúng ta sẽ làm nổi bật hành trình thay đổi nhãn quan từ câu hỏi “Ai đã đóng đinh Đức Giêsu ?” tới câu hỏi “Điều gì đã đóng đinh Đức Giêsu ?” – Một hành trình khởi đi từ nỗi cay đắng, ghét nghen và đui mù của con người đến tình yêu thương, sự hoà giải và sự khai sáng của Thiên Chúa.
TRẢ LẠI CHO XÊZA : SỰ KÌM KẸP CỦA ĐẾ QUỐC RÔMA
Trước thời Đức Giêsu sinh ra rất lâu, người Do Thái đã phải sống trong sự kìm kẹp của Roma. Khoảng khắc nguy kịch khởi đi từ khi Pompay sử dụng con triện của Rôma vào thời Hyrcanus II (63-40 tcn). Lúc này, người Do Thái bị giảm đi chút ít quyền kiểm soát lãnh thổ và vận mạng của mình. Tất cả những người cai trị Do Thái, dù là những ông vua bù nhìn như Hêrôđê (40-4) hoặc là những quan tổng trấn như Phongxiô Philatô chẳng hạn, chỉ lãnh đạo như những công cụ của đế quốc Rôma. Sự kìm kẹp của Rôma không có một chút mảy may nới lỏng trong suốt những năm xảy ra vụ án và cuộc tử nạn của Đức Giêsu.
Sự kìm kẹp của đế quốc rất khổ cực nhưng vẫn còn thở được trong những năm Hyrcanus II và Hêrôđê còn giữ chức vụ. Và rồi bầu khí càng ngày càng ngột ngạt hơn trong thời đại Hêrôđê. Nỗi thất vọng, sự đắng cay, và nỗi oán hận của dân chúng bắt đầu thể hiện bằng sự thách thức với những tiếng la hét đinh tai nhức óc và những cuộc biểu tình bạo động. Sự kìm kẹp càng quá quắt hơn kể từ khi Hêrôđê băng hà. Rôma không cần dùng những ông vua bù nhìn nữa. Thay vào đó là những quan tổng trấn do hoàng đế bổ nhiệm trực tiếp thống trị Giuđêa. Từ lúc này, người Do Thái không còn biết thế nào là hoà bình, thế nào là thanh thản, không còn biết thế nào là an ninh, và rồi Đền Thờ bị thiêu rụi, hàng ngàn người bị giết chết, ngàn ngàn người Do Thái bị chất lên những cỗ xe ngựa chở khỏi Roma.
Theo Josephus thì một người “đại diện” rất mới, (nhưng thực tế là một “La Mã thái thú”) Copinis, ông đưa ra một hệ thống tôn giáo mới với một đạo luật dồn ép sức mạnh của người Do Thái vào một tình trạng nguy kịch. Chẳng bao lâu sau khi nắm chính quyền vào năm 6 cn, ông ra lệnh điều tra dân số và định mức thuế trên tài sản của người Do Thái hầu có thể thâu nhận sự cống nộp sao cho thật chính xác. Người Do Thái bị chao đảo và có chiều hướng kháng cự. Chỉ những lời van nài của thượng tế mới có thể ngăn cản họ khỏi những cuộc đối chất bi thảm. Nhưng hai hiền nhân Giuđa ở Galilê và Zadok, một người Pharisêu không chịu khuất phục. Hai vị kêu gọi mọi người đứng dậy đấu tranh. Hai vị nhấn mạnh rằng Thiên Chúa và chỉ có Thiên Chúa mới được gọi là Hoàng Đế (Emperor). Vâng phục sắc lệnh của hoàng đế Rôma là hành động báng bổ Thiên Chúa và là một sự điên rồ.
Sự xuất hiện của Forth Philosophy càng làm cho ranh giới giữa lãnh vực tôn giáo phi chính trị và lãnh vực tôn giáo chính trị ngày càng mờ nhạt. Theo quan niệm của những người thành lập Forth Philosophy, lời kêu gọi cách mạng chống lại Roma bắt nguồn từ cảm hứng tôn giáo chứ không phải bởi nhiệt huyết chính trị. Họ cho rằng thật hồ đồ khi gọi bất kỳ một cá nhân nào đó là despotes, là chúa, là thầy và là hoàng đế. Lời kêu gọi gia nhập quân đội của họ có dụng ý lật đổ một Antiochus khác. Ông nghi ngờ vào việc tuyên tín Một Thiên Chúa duy nhất. Lời mời gọi nhập ngũ như thế hàm chứa mục đích chính trị, nhưng nó không được thúc đẩy và diễn ra trên vùng đất chính trị. Thực ra thì Giuđa và Zadok là những hiền nhân chứ không phải là những người lính, và thực tế thì Josephus đề cao phong trào cách mạng bằng việc đặt phong trào này ở bên cạnh những môn phái của Xađốc, Pharisêu và Étxen như là một nền triết học tôn giáo khác bắt nguồn từ Do Thái hầu chứng thực những nguồn gốc tôn giáo là những nguyên nhân gây bạo động chống lại Roma.
Từ nhãn quan này cộng với nhãn quan của Thượng Tế Joaza và nhãn quan của những người phát ngôn cho Pharisêu, việc điều tra dân số, qui định mức thuế trên tài sản, việc cống nộp cho hoàng đế đều thuộc về lãnh vực của Xêza. Đối với họ, nộp thuế cho hoàng đế thì không tương đồng với việc nộp thuế cho một vị chúa.
Chính vì vậy, vào năm 26 Phongxiô Philatô làm tổng trấn, ông trực tiếp đặt Caipha làm thượng tế. Caipha thừa kế một đất nước quá đổ nát do những bạo động xảy ra triền miên. Vùng đất này chính là một bãi chiến trường, nơi mà lòng trung thành của tổng trấn và thượng tế của ông “được kiểm tra” mỗi ngày. Nếu Phongxiô sử dụng con dấu của mình và tự biểu lộ giá trị của mình trong cấp bậc hoàng đế ban cho, thì đó là hành động nhằm gây ấn tượng tốt cho hoàng đế trong thẩm quyền của ông với mục đích duy trì luật lệ và trật tự trên một vùng đất luôn xảy ra bất đồng, rối loạn và bạo động. Sau đó, nếu như Phongxiô không khôn ngoan đủ để lãnh đạo những con người ngỗ ngược này, thì chức vụ tổng trấn của ông sẽ luôn chao đảo tựa chỉ mành treo chuông.
Josephus nhận định thật rõ rệt khi diễn tả Phongxiô Philatô là một con người cứng ngắc, hiểm ác và thành công. Suốt mười năm làm tổng trấn, ông hoàn thành bổn phận trong việc giữ gìn luật lệ và trật tự không chê vào đâu được. Ông có tài chặt đầu những rắc rối trước khi chúng trở nên vấn đề nghiêm trọng. Chìa khoá làm ông lãnh đạo thành công là thui chột mọi hơi hướng cách mạng ngay khi chúng còn trong trứng nước bằng việc tạo nên sự mập mờ giữa sự bất đồng chính trị và tôn giáo. Sự bất đồng không có động cơ thúc đẩy, không tụ tập gào thét đó là mục tiêu của ông. Đối với ông, lời loan giảng Vương Quốc Thiên Chúa mà chính Chúa sẽ mở ra không gì khác hơn lời kêu gọi thành lập cuộc cách mạng chống lại Roma, vì trọng tâm của vấn đề giống nhau: quyền lực của Roma sẽ bị trừng phạt. Đối với Philatô, đầu mối sự khôn ngoan là biết khiếp sợ cuộc nổi dậy đang ẩn kín nơi những người công giáo đạo hạnh.
Tuy nhiên, Philatô sẽ không bao giờ thực hiện được mục đích của mình bao lâu ông chưa tìm được một người Do Thái ý hợp tâm đồng với ông để ông ủy thác chiến lược của mình. Nơi Caipha, ông đã tìm thấy những gì ông muốn. Từ trước đến nay chưa có vị thượng tế nào đã nắm chức vụ cao cả trong suốt thời đại dài như thế và ngay cả sau này cũng chẳng có vị thượng tế nào có được công trạng đáng nể như Caipha. Thực ra thì công trạng của ông không có nghĩa là thành tích. Mỗi vị tổng trấn, mỗi người đại diện, cả những người trước và Philatô sau này đều tự do chọn lựa cho mình một vị thượng tế dễ sai khiến. Từ thời Hêrôđê, thượng tế được bổ nhiệm hay sa thải tùy vào ý thích của người cầm quyền. Trang phục tư tế của thượng tế được các nhà chức trách chính trị khoá kỹ trong tủ, chúng chỉ được mang ra sử dụng vào những ngày lễ hội khi vị thượng tế cần chúng để thi hành bổn phận tế tự. Như vậy, bị nắm giữ cứng ngắc trong vòng kìm kẹp của tống trấn và người đại diện, tất cả những thượng tế chỉ còn một cách duy nhất là phải phục tùng.
Ngoài chức vụ thượng tế, Caipha còn được phép sử dụng những quyền hạn đặc biệt nhằm phục vụ không những một nhưng là hai tổng trấn. Từ khi ông giữ chức vụ suốt mười năm dưới sự đòi hỏi của một tổng trấn như Philatô, rõ ràng Caipha có khả năng kiềm chế cơn tức giận của dân chúng đang sục sôi trong những cuộc biểu tình bạo động chống lại Rôma. Caipha dẹp tan những cơn giông tố và giữ vững địa vị của mình nhờ vào quyền lực của Philatô. Chẳng có hục hặc nào đáng kể trong mối tương quan giữa hai người – điển hình cụ thể là Caipha có khả năng dẹp tan mọi đốm lửa hục hặc trước khi chúng bốc cháy.
Tuy nhiên, trong suốt những năm làm thượng tế, có một sự kiện làm Caipha run rẩy khiếp hãi. Mặc dù sự kiện này xảy ra ngoài lãnh vực chính trị của Phongxiô Philatô, nhưng nó lại phản chiếu khá rõ nét về những con người thực thi quyền hạn trong suốt những thời kỳ nhiễu nhương đầy phiền toái này. Sự kiện này có liên quan đến một vị ngôn sứ, người được linh hứng, đó là Gioan Tiền Hô mà Quận Vương Hêrôđê đã giết chết.
Trong nhãn quan của sử gia Josephus thì Gioan là một người tốt. Ông gọi mời những người Do Thái sống ngay chẳng, chính trực với đồng loại và trung thành với Thiên Chúa. Khi Gioan kêu gọi dân chúng đến chịu phép rửa, ông thôi thúc họ tham gia vào một hành động mang tính biểu tượng nhằm diễn tả linh hồn của họ sẽ được tẩy rửa do đời sống chính trực mà họ đã sống từ khi nghe theo lời ông mời gọi. Bài giảng của Gioan không hàm chứa mảy may hơi hướng chính trị. Ông là một ngôn sứ thanh khiết và dản dị.
Bên cạnh đó, Josephus còn cho thấy rằng, Quận Vương Hêrôđê không chấp nhận Gioan vì những hành động Gioan làm. Khi những lời kêu gọi của Gioan thức tỉnh dân chúng, Hêrôđê e sợ một người lợi khẩu như thế rất có thể sẽ kích động đám đông đứng lên nổi loạn. Gioan không phải là một bậc thầy bình thường. Gioan làm lay động những người lắng nghe bằng những tinh hoa toát ra từ ông đến nỗi người ta sẵn lòng theo ông đến bất cứ nơi nào ông có thể dạy dỗ họ. Chính vì thế Hêrôđê rơi vào tình trạng tiến thoái lưỡng nan : nếu ông làm ngơ Gioan, có nguy cơ đám đông sẽ dễ dàng tụ tập tổ chức bạo động. Đàng khác, nếu như ông giết Gioan, rất có thể ông sẽ tạo nên một cuộc bùng nổ mà ông đang gắng sức tránh né. Trong trường hợp cá biệt này, Quận Vương Hêrôđê đã thực hiện một quyết định tinh xảo: việc ông làm đã khiến dân chúng tức giận nhưng họ đã không nổi dậy bạo động.
Cơ cấu đế quốc Roma được diễn tả khá rõ nét trong cuộc đời, việc giảng dạy, vụ án, cuộc khổ nạn và những chứng cớ phục sinh của Đức Giêsu. Đỉnh cao sự thống trị và quyền lực là hoàng đế, người thực thi quyền lực trên người Do Thái cũng như những ông vua bù nhìn như Hêrôđê và những quan tổng trấn như Coponius và Phongxiô Philatô. Những công cụ này gắng sức biểu hiện bổn phận của mình với hoàng đế bằng cách tuyển lựa và bổ nhiệm những thượng tế dễ điều khiển hơn là vì lòng trung thành. Những thượng tế chỉ là tai mắt của những ông vua bù nhìn hay tổng trấn nhằm xoi mói kiếm tìm những ai có âm mưu chống lại thể chế Roma. Trong số những thượng tế, Caipha có cặp mắt sắc bén và lỗ tai tinh xảo hơn cả. Do đó ông luôn thể hiện lòng trung thành với những tổng trấn mà ông phục vụ bao lâu họ còn có chức quyền.
Nhưng chắc chắn Caipha không làm việc cách đơn thương độc mã. Ông ở vào địa vị rất cao, ông đã triệu tập một hội đồng hay toà án Do Thái gồm những người có khả năng lường trước những hậu quả thảm khốc sẽ kéo theo nếu có bất kỳ một cuộc bạo động chống lại chính quyền Rôma, cho dù kẻ chủ mưu hết sức đơn thành và vô tội.
Theo hạn từ quen thuộc của Josephus, một toà án Do Thái như thế thuộc hội đồng chính trị chứ không phải hội đồng pháp luật, quyền lực hoặc là sự xét xử tôn giáo. Đây là hội đồng do thượng tế triệu tập nhằm giúp ông biểu hiện bổn phận chính trị của mình với những tổng trấn tựa như những công cụ “tai mắt” của họ. Như vậy, hội đồng này gồm cả những người thuộc phái Xađốc và Pharisêu, hai nhóm này bất đồng với nhau về phương diện tôn giáo.
Đọc bản văn Josepus cách kỹ lưỡng như thế có thể giúp chúng ta nhận thức được thể chế chính trị, để từ đó có thể tìm thấy cuộc đời, chức vụ, toà án, cuộc tử nạn và chứng cớ phục sinh của Đức Giêsu. Thể chế chính trị này cũng được diễn tả trong các sách Tin Mừng, Tông Đồ Công Vụ, và các thư Phaolô. Hoàng đế Rôma thống trị Giuđêa, Galilê và Samari bằng những ông vua bù nhìn, những tổng trấn và những thượng tế do tổng trấn bổ nhiệm. Nhưng những người Do Thái tỏ ra bất trị trước những dụng cụ “thượng tế” cai quản họ.
Đây là một đất nước hết sức nhiễu nhương: một đất nước bạo lực xảy ra như cơm bữa, chết chóc diễn ra nhan nhản trên đường phố Giêrusalem và những cuộc nổi loạn không ngừng gây náo động ngoài đền thờ ; một đất nước mà nhất cử nhất động có mang hơi hướng của sự bất đồng đều làm cho những ông vua bù nhìn, những quan tổng trấn và những thượng tế ớn lạnh đến tận xương tủy ; một đất nước mà một người được linh hứng phi chính trị nhất ôm cuộc đời trong cánh tay của mình khi rao giảng tin mừng về Triều Đại Thiên Chúa đang đến. Nếu như lời gọi mời sám hối của Người quá hấp dẫn đến độ dân chúng tụ họp quanh Người để lắng nghe và hy vọng thì không phải là năng lực nơi ngôn từ của Người gọi mời nụ hôn của thần chết sao ?
TRẢ LẠI CHO THIÊN CHÚA : LUẬT LỆ CỦA DO THÁI
Giuđêa nằm dưới quyền kiểm soát của Roma. Hoàng đế, quan tổng trấn, thượng tế và công hội bí mật của thượng tế – tất cả ràng buộc nhau do hai lợi ích : bảo vệ sức mạnh của đế quốc chống lại bạo động và thu vén huê lợi làm giàu cho Roma. Tất cả những người làm việc nhằm ích lợi cho đế quốc đều không phát xuất từ động lực tôn giáo nhưng là nhằm mục đích chính trị. Thượng tế không nằm ngoài trường hợp này dù ông vẫn chăm nom Đền Thờ và chỉ một mình ông được phép đi vào Nơi Cực Thánh vào ngày Lễ Xá Tội để xin Chúa thứ tha tội lỗi cho dân Israel. Như vậy chính ông – ở trước nhan Thiên Chúa - ở vòng cung của người tội lỗi, dù cho chẳng có chỗ nào trong năm cuốn sách luật của Môsê hoặc kho Khẩu Luật nói về việc một ông vua, một hoàng tử hay bất kỳ một kẻ thống trị nào bổ nhiệm thượng tế. Theo Ngũ Thư, chức vụ thượng tế được ủy trực tiếp cho những người con cháu thuộc dòng tộc Aaron, Eleazar và Phineas.
Theo Luật Lệ của Chúa, những thượng tế giữ chức vụ từ thời Hêrôđê đều bất hợp pháp. Họ chỉ là những dụng cụ chính trị thực hiện theo lệnh của đế quốc và tuân theo những người đại diện của ba nhóm Do Thái khác nhau : Xađốc, Pharisêu và Étxen. Đối với những người thuộc nhóm này, những người theo nhóm khác đều là những người lạc giáo và là những người không theo ý muốn của Chúa. Dưới mắt của những nhà cầm quyền, người Do Thái như là bức tranh ghép với ba hoa văn. Mỗi hoa văn có một kiểu mẫu hết sức riêng biệt khi so sánh ba loại với nhau. Giới lãnh đạo của mỗi nhóm tự giao phó mình cho hai giáo thuyết : giáo thuyết của hai lãnh vực để điều chỉnh mối tương quan của họ với chính quyền và một giáo thuyết sống-và-để-cho-sống nhằm giữ hoà khí giữa nhóm này với nhóm kia. Tắt một lời, họ thúc dục những người thuộc nhóm mình trả lại cho Xêza cái gì thuộc về Xêza, và từ đó trả lại cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa. Để mà sống thân ái bên nhau, họ khởi sự một chính sách là cùng chung sống hoà bình.
Bây giờ chúng ta cùng quan sát chi tiết từng loại hoa văn – Xađốc, Pharisêu và Étxen – để tìm hiểu xem tại sao ba thể loại hoa văn xung khắc này xuất hiện dưới mắt của những nhà cầm quyền Roma tựa như một bức tranh ghép hơn là những hình thức riêng rẽ, phân biệt, bất hoà trong cộng đồng tôn giáo Israel. Nhìn thoáng qua chúng ta nhận thấy rằng những khác biệt này là những căn nguyên đẩy họ xa nhau hơn là chúng liên kết họ lại với nhau.
Nhóm Xađốc xác tín Thiên Chúa chỉ mạc khải trong một Luật : năm cuốn sách của Môsê ; phái Kinh Sư Pharisêu tin rằng Thiên Chúa mạc khải qua hai Luật : Văn Luật và Khẩu Luật ; trong khi đó, nhóm Étxen cũng tin Thiên Chúa mạc khải ý định của Người trong sách Ngũ Thư và những cuốn khác trong Thánh Kinh. Bên cạnh đó còn có những khác biệt : Nhóm Xađốc xác tín Thiên Chúa ủy cho Aaron và hậu duệ của ông độc quyền trên Luật Của Chúa và những việc phụng tự Người. Nhóm Kinh Sư Pharisêu cho rằng Thiên Chúa ủy thác quyền đó cho Môsê, Giôsuê, những vị bô lão, các ngôn sứ và cuối cùng là chính họ giữ độc quyền Luật của Chúa gồm cả Văn Luật và Khẩu Luật. Nhóm Étxen tự tách mình ra khỏi những sinh hoạt và phụng tự của dân. Sau nữa, nhóm Xađốc quan niệm Thiên Chúa thưởng công cho người ngay chính và trừng phạt người tội lỗi ngay ở đời này. Nhóm Kinh Sư Pharisêu quan niệm Thiên Chúa thưởng cho linh hồn người công chính một cuộc sống vĩnh hằng và phục sinh thân xác của họ, còn linh hồn người tội lỗi bị trừng phạt trong khổ đau vĩnh viễn ở một thế giới khác. Nhóm Étxen lại cho rằng linh hồn người công chính sẽ được hưởng một cuộc sống vĩnh cửu nhưng họ không chấp nhận quan niệm phục sinh thân xác. Thế nhưng dù khác nhau thế nào đi nữa thì nhóm Xađốc, Kinh Sư Pharisêu và nhóm Étxen đều nghiêm khắc và trung kiên cậy trông vào Thiên Chúa chứ không phải hoàng đế Rôma như là Thiên Chúa của họ. Nhưng ngược lại, thượng tế do hoàng đế bổ nhiệm và hội đồng bí mật của ông lại bị buộc vào cỗ xe của hoàng đế, còn các nhóm Xađốc, Pharisêu và Étxen khoác ách của Thiên Chúa.
Vào thời Đức Giêsu, những người thuộc nhóm Kinh Sư Pharisêu là những hoa văn nổi trội hơn cả trong bức tranh ghép của người Do Thái. Họ là những người ngồi trên toà Môsê. Họ là những người định đoạt những luật lệ. Họ quy định những phận vụ tôn giáo sao cho đúng với những điều khoản được nghi chép trong Văn Luật và Khẩu Luật. Như vậy, lịch tôn giáo Đền Thờ tính theo lịch mặt trăng - mặt trời (lunar-solar calendar) dựa theo Khẩu Luật. Lễ hiến tế trong Đền Thờ và những buổi lễ hội cũng được tổ chức dựa theo Khẩu Luật. Tóm lại, Khẩu Luật của nhóm Kinh Sư Pharisêu có tính cách quy chuẩn cho tất cả mọi người Do Thái, đến nỗi nó trở thành những chuẩn mực phổ thông trong lãnh vực tôn giáo. Hoạt động tôn giáo của nhóm Xađốc và Étxen bị giới hạn trong những gia sản riêng của họ và những bài huấn giáo của họ giới hạn trong ưu sách đạo lý và những lời cam đoan của họ.
Đạo lý thuộc hai lãnh vực – của Xêza và của Thiên Chúa - này chứng tỏ rất hấp dẫn những người cầm quyền trong lãnh vực chính trị thế tục. Hơn nữa, họ có dự định sẽ trao quyền tự trị tôn giáo cho nhóm Kinh Sư Pharisêu. Tuy nhiên, đạo lý này dẫn đến những hậu quả hết sức nghiêm trọng vì thực ra chẳng có gì khác ngoài việc chính quyền Rôma hứa với nhóm Kinh Sư Pharisêu rằng chẳng bao lâu nữa họ sẽ an tâm tự trị và những nhà chức trách của họ sẽ được phép tự do hành động. Rồi đây các nhà cầm quyền chính trị sẽ thất bại ngay trong lãnh vực của họ, rồi đây họ sẽ xâm phạm trong lãnh vực mầu nhiệm, thánh thiêng và kế đó quần chúng sẽ nổi dậy tấn công như họ đã từng làm khi John Hyrcanus và Alexader Janneus đã ngăn chặn con đường tiến đến cuộc sống vĩnh hằng. Hoặc là sẽ khiến họ kháng cự cách tiêu cực chẳng thà chịu tử đạo còn hơn là bị khuất phục. Và thật sự họ đã làm như vậy. Họ chống lại những lời dọa nạt của Phongxiô Philatô khi họ quyết tâm ngăn cản ý định của hoàng đế vào trong Jerusalem và vào trong đền thờ.
Khế ước này được tái xác nhận khi Coponius (tổng trấn kế vị của Archelaus năm 6) ra lệnh kiểm tra dân số nhằm mục đích thu thuế cho đế quốc. Như chúng ta đã biết, lệnh này hết sức cay nghiệt, làm cho người ta điên tiết đến độ dễ dàng phát ra tia lửa đấu tranh. Những Kinh Sư là những người đứng vững chãi ở đàng sau hiệp ước đó. Sưu cao thuế nặng bao trùm trên lãnh thổ của Xêza. Sự kiện này đã không ngăn chặn con đường tiến tới đời sồng vĩnh hằng. Cuộc điều tra dân số là hành động hợp pháp trong chính quyền Rôma. Những vùng đất tôn giáo phải chấp nhận cuộc điều tra này, bất kể việc sưu cao thuế nặng sẽ giáng xuống làm cho họ đau khổ và gian nan ra sao. Cuộc điều tra dân số, sưu thuế, những quy ước phải cống nộp là điều hết sức hợp lý vì chủ quyền Roma hợp pháp. Nó hợp pháp trong đạo lý hai lãnh vực : trả cho Xêza tất cả những gì thuộc về Xêza và trả lại cho Thiên Chúa tất cả những gì thuộc về Thiên Chúa. Nhóm Kinh Sư Pharisêu phải trả một giá rất đắt trong việc trung thành với hiệp ước này. Ngay từ đầu, khi họ ngồi trên toà Môsê, một số thành viên quan trọng trong nhóm của họ đã chống đối lại cách thức lãnh đạo của họ khi nghe hai hiền nhân Giuđa và Zadok lên án rằng lệnh của Coponius lăng mạ chủ quyền của Thiên Chúa. Quả thật, đây chính là nền tảng gây chia rẽ trong nhóm Kinh Sư Pharisêu, điều này được nhận thấy trong Fourth Philisophy trong hình thức phân biệt của đạo Do Thái với các nhóm Kinh Sư Pharisêu, Xađốc và Étxen.
Đạo Lý sống-và-để-cho-sống đã có từ lâu trước thời Đức Giêsu khi nhóm Kinh Sư Pharisêu không còn phải nỗ lực như trước kia trong việc ép nhóm Xađốc chấp nhận Khẩu Luật. Ngoài việc thờ phượng trong Đền Thờ, tôn trọng lịch tôn giáo, tập trung đám đông tổ chức những lễ nghi tôn giáo và lễ hội thường ra, nhóm Xađốc và những người theo họ xem những hoạt động riêng, việc huấn giáo của họ cũng là phận vụ của chính họ. Đến lúc này, những xung khắc chính giữa nhóm Pharisêu và Xađốc chỉ còn là việc tranh luận đạo lý. Trên cơ bản, thường ngày hai nhóm này sống với nhau khá hoà hợp và thoải mái. Những thượng tế Xađốc thi hành phận vụ của mình trong Đền Thờ dựa theo những khoản quy định trong Khẩu Luật trong phong thái hoà nhã. Thật vậy, nhóm Pharisêu và nhóm Xađốc nghiêng tới việc chấp nhận những vấn đề trên chỉ vì chủ quyền chính trị, họ tự nguyện chấp nhận đạo lý hai lãnh vực.
Cảnh tượng này được thể hiện rõ nét vào thời Đức Giêsu. Trên bề mặt tôn giáo, hai nhóm này sống hoà hợp với nhau và có chung quan điểm chính trị. Cả hai đã chấp nhận một chính sách không phải bàn cãi nữa. Hai nhóm này không những chỉ ảnh hưởng đến nhau nhưng còn ảnh hưởng đến tất cả những nhóm khác trong đạo Do Thái. Tuy nhiên, làm như thế là đã ít nhiều đi ngược với niềm tin của chính họ. Bất kể những gì trong phần giảng dạy của họ có liên quan đến những bất đồng tôn giáo đều rất nguy hiểm vì như vậy là dính líu đến chính trị. Sự kiện này mang tính chính trị chứ không phải tôn giáo : mọi nguyên nhân bất đồng đều phải được trình lên những người cầm quyền thích hợp – ông vua bù nhìn, tổng trấn và thượng tế do tồng trấn bổ nhiệm - để xét xử trên những vùng đất chính trị. Những bất đồng này không được xét xử trước Bet Din Ha-Gadol, thượng hội đồng của Kinh Sư Pharisêu, hoặc bất kỳ một tổ chức nhỏ hơn nào khác, chẳng hạn tổ chức được gọi đơn giản là một bet din. Vào thời Đức Giêsu, sự xét xử của những tiểu hội đồng nói trên không mang hơi hướng chính trị, nhưng chỉ xét xử dựa theo luật lệ tôn giáo do những người Do Thái tự nguyện làm theo từ những bài giáo huấn của những Kinh Sư Pharisêu. Vì trung thành giữ hiệp ước với đế quốc, rõ ràng nhóm Kinh Sư Pharisêu đã hướng tới mục đích chính trị, và vì trung thành hiệp ước với nhóm Xađốc và Étxen, họ cố gắng tránh không nói những lời lẽ gây nên những bất đồng tôn giáo.
Nếu một người được linh hứng như Đức Giêsu đã hấp dẫn đám đông bằng những lời gọi mời sám hối, thức tỉnh đám đông bằng những việc làm diệu kỳ hoặc làm họ ngất ngây bằng lời hứa một Triều Đại Thiên Chúa đang đến thì tức khắc những Kinh Sư Pharisêu sẽ khiển trách Người. Thậm chí họ còn có thể tố cáo Người là con quỷ Beelzebul, nhưng họ không bắt Người (chỉ vì không được phép) đến để xét xử tại thượng hội đồng Bet Din Ha-Gadol, hay hạ hội đồng bet din. Họ không thể mang Người đến xét xử trước những thể chế tôn giáo nên họ trao Người cho Thượng Tế Caipha, người thuộc nhóm Xađốc.
Như vậy, trong mắt những nhà chức tránh Rôma, đạo Do Thái thời Đức Giêsu như là một bức tranh ghép gồm ba mảnh hoa văn đan quyện vào nhau, từ đó loé lên một sứ điệp vững chắc : “Trả cho Xêza những gì thuộc về Xêza và trả lại cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa” (Mc 12. 27).
(còn tiếp)