20/03/2011 -

Suy tư, nghiên cứu

910

 


 


Nỗi Khát Vọng Cháy Bỏng


 


Quốc Văn, OP.


 


Con người là một hữu thể có khả năng hướng về vô biên, mở ra với tuyệt đối. Và như thế, niềm hy vọng của con người, thời nào cũng thế, đều là vô hạn. Nếu phải trả lời ngay, đâu là niềm hy vọng cơ bản nhất của con người thời nay, thì e rằng khó có câu trả lời dứt khoát. Ta có thể đặt vấn đề dưới một khía cạnh khác, đâu là niềm hy vọng, là nỗi khát vọng của con người, xuyên suốt qua dòng lịch sử cứu độ, và ứng với mọi người, mọi thời.


Lối ngỏ Địa Đàng


Chúng ta khởi đi từ niềm hy vọng của con người trong Kinh Thánh Cựu Ước. Nếu đặt mình trong cảnh buồn thảm của vườn địa đàng sau khi nguyên tổ phạm tội, trong bối cảnh của con người lầm lỗi, thì niềm hy vọng đầu tiên lóe sáng từ lời hứa của Thiên Chúa trong sách Sáng Thế đoạn 3 câu 15. Đó là lời hứa đem đến cho con người niềm hy vọng có cuộc sống tươi sáng hơn, niềm hy vọng chiến thắng sự ác, niềm hy vọng hạnh phúc như buổi ban đầu nơi vưòn Ê-đen Thiên Chúa mới tạo dựng.


Từ khi tội lẻn vào thế gian, bước chân con người ngày càng lầm lũi. Ngày ngày con người phải đối diện với bao thảm cảnh : đói rét, mất mùa, loạn lạc… Con người khao khát hạnh phúc, mà chỉ thấy nước mắt ngậm ngùi. Con người mong mỏi tự do, mà chỉ thấy mình là thân nô lệ. Điển hình cho nỗi khát vọng chung của con người là niềm hy vọng của dân Israel.


Và đây, lời của ngôn sứ Nathan (2 Sm 7) như thổi vào dân Chúa một niềm hy vọng mới. Từ dòng tộc vua David, một Đấng minh quân sẽ trị vì và lãnh đạo dân Israel, đem đến cho dân một cuộc sống thái bình thịnh trị. Nhưng thực tế, dân vẫn lầm than, vẫn sống kiếp nô lệ, lời ngôn sứ vẫn là một niềm hy vọng nóng bỏng.


Và rồi, hình ảnh một con người vĩ đại xuất hiện (Dn 7,14), phải chăng ngày Israel được vinh quang đã đến? Nỗi chờ mong của dân Chúa lại càng cháy bỏng hơn. Chung quy niềm hy vọng của dân là họ trông chờ một vị cứu tinh đến để giải thoát họ khỏi ách nô lệ, đem đến cho họ một đời sống sung túc, an bình, hạnh phúc. Phải nói rằng : đây là nỗi khát vọng chung của con người, nỗi khát vọng hạnh phúc ; tuy rằng họ chưa hề ý thức và hy vọng một đời sống vĩnh cửu. Ý tưởng về một đời sống mới sau cái chết, xuất hiện rất muộn thời so với suốt chiều dài của lịch sử Kinh Thánh Cựu Ước.


Cơn khát


Tác giả Thánh vịnh 41 không kém phần ví von, thi vị khi dùng hình ảnh con nai vàng khát khao đi tìm dòng nước để diễn tả tâm hồn con người luôn khao khát hướng về Thiên Chúa:


Như nai rừng mong mỏi


tìm về suối nước trong


hồn con cũng trông mong


được gần Ngài, lạy Chúa” (41,2).


Lòng khao khát khôn nguôi này của con người có thể gọi tên một cách khác đó là đời sống tâm linh. Đời sống tâm linh là một nhu cầu không thể thiếu trong đời sống người Kitô hữu. Cũng như bất cứ một tiến trình phát triển tự nhiên nào khác, đời sống tâm linh cũng cần được huấn luyện, để mỗi cá nhân có thể trải nghiệm, trưởng thành, và nên như lời chứng tá.


Tiến trình thanh luyện mỗi người có thể ít nhiều, dài ngắn, và cách thức khác nhau. Xin được khởi đi từ hình ảnh :


Nai khát xa nguồn


Như nai rừng khát khao tìm nguồn nước, lòng người cũng khắc khoải kiếm tìm không nguôi. Có thể nói những khát vọng của con người là khát vọng khôn cùng. Người ta biểu lộ những khát vọng này bằng nhiều cách khác nhau.  Xuyên qua những nhu cầu vật chất, tình cảm, danh vọng, địa vị ... con người để lộ cho thấy không gì có thể lấp đầy khát vọng thăm thẳm của lòng mình.


Cũng trong thời đại chúng ta, hơn lúc nào hết, nhiều giáo phái mới ra đời, con người tìm đến những gì là siêu nhiên, là đời sống tinh thần. Đặc biệt những tôn giáo lớn có truyền thống tâm linh sâu xa đã có sức thu hút nhiều người. Tông huấn “Giáo hội tại Á châu” số 18 đã gọi tên những hiện tượng này là “cơn khát nước hằng sống” của con người hôm nay.


Mọi người, trong đó có chúng ta, đều như nai khát. Đâu là nguồn suối mát  ? Cứ theo bài học mà trả lời, dễ ợt : chính Thiên Chúa. Câu trả lời không sai, nhưng sớm quá, đốt giai đoạn quá, mấy môn sinh có thể hiểu, có thể cảm nổi. Trả lời câu hỏi này không miễn chấp cho mỗi cá nhân phải lên đường tìm kiếm, phải “giác ngộ”. Điều khó khăn là người môn sinh gặp phải quá nhiều thách đố trên bước đăng trình.


Thách đố đầu tiên là mỗi môn sinh, theo lẽ thường, phải được một vị thầy khải thị và đồng hành. Nếu thiếu đi sự đồng hành thiêng liêng nay, người môn sinh dù có cố gắng mấy cũng cứ mò mẫm mãi, không khéo lại lạc đường, bỏ cuộc. Tiếc thay !


Thách đố thứ hai là người môn sinh đang được khuyến khích để lội ngược dòng; trong khi đó dòng chảy lại mạnh quá, ồ ạt quá : dòng chảy tục hóa, hưởng thụ, thờ ơ, coi nhẹ phẩm giá của con người... Các chọn lựa đi liền với những bậc thang giá trị bị đảo lộn, lòng người không khỏi hoang mang. Đâu là những giá trị đích thực trong cuộc sống  ? Đâu là một đời sống đạo đúng nghĩa  ? Đâu là khoảng không tự do mỗi người có thể xoay xở  ? Hoặc đâu là sự dung hoà giữa những chọn lựa Chúa, với những thực tại của đời thường  ? ... Những câu trả lời theo mẫu in sẵn chỉ việc điền vào có lẽ không thoả mãn được những vấn nạn hiện sinh này. Vẫn cứ phải lội ngược dòng, dẫu lòng chưa xác tín  ?


Một điều rất thật, là mỗi người trẻ hôm nay đều là những “con đẻ của thời đại” được mang những “gien di truyền của bố” từ nếp suy nghĩ, cách hành xử, kiểu xoay xở... Cái khó là phải thanh lọc, phải lột xác. Đau lắm!


Bên cạnh đó, theo xu hướng chung của xã hội, người môn sinh của Đức Giêsu cũng rất dễ có nguy cơ đánh mất sự thăng bằng giữa những lo toan bề bộn của cuộc sống và đời sống thiêng liêng. Những chứng tá đức tin sống động lúc này cần thiết biết bao !


Và rồi đâu phải người môn sinh lúc nào cũng hăng hái, có những lúc chán nản, muốn buông xuôi, muốn bỏ cuộc; ấy là chưa kể những vấp váp trên hành trình có vẻ như đơn độc dẫu đang cùng đi với nhiều người. Bóng mát bên đừng vẫn mời gọi, một cám dỗ muốn dừng chân. Cần sự cảm thông biết bao ! Cần được nâng đỡ biết chừng nào !


Cuộc hành trình mỗi ngày cứ phải làm mới lại. Mỗi ngày là một khởi đầu, một niềm hy vọng mới. Và như thế là cuộc kiếm tìm chưa kết thúc, nai khát vẫn xa nguồn, vẫn khắc khoải, lòng vẫn canh cánh một điều:


Tìm về suối nước trong


Chúng ta có thể khởi đầu cuộc tìm kiếm này bằng cách trở về với Kinh thánh.


Sách Diễm Ca diễn tả một cuộc tìm kiếm người yêu, một cuộc gặp gỡ trong tương quan ngôi vị, đó cũng phải là cuộc tìm kiếm của mỗi chúng ta:


Suốt đêm, trên giường ngủ,


tôi tìm người lòng tôi yêu dấu.


Tôi đi tìm chàng mà đâu có gặp !


Vậy tôi sẽ đứng lên, đi rảo quanh khắp thành,


nơi đầu đường cuối phố,


để tìm người yêu dấu của lòng tôi.


Tôi đi tìm chàng mà đâu có gặp !” (Dc 3, 1-2)


Trong đời sống thiêng liêng, đôi khi mối tương quan của ta với Chúa như một cuộc trốn tìm. Không ít khi ta cảm thấy Chúa dường như vắng bóng : “Tôi đi tìm chàng mà đâu có gặp !”. Nhưng nếu phải nói rốt ráo hơn, Thiên Chúa đã đi tìm ta, nhiều khi ta đã lẩn mặt Người !


Thiên Chúa đã gieo vào lòng chúng ta niềm khát vọng, nỗi khắc khoải khôn nguôi, để rồi chúng ta phải lên đường tìm kiếm Người luôn mãi. Tác giả Thánh vịnh 62 diễn tả rất sống động điều này:


Lạy Thiên Chúa, Ngài là Chúa con thờ


ngay từ rạng đông con tìm kiếm Chúa.


Linh hồn con đã khát khao Ngài,


tấm thân này mòn mỏi đợi trông,


như mảnh đất hoang khô cằn không giọt nước” (62,2).


Ngôn sứ Isaia nhắc nhở chúng ta: Hãy tìm kiếm Chúa khi Người còn cho gặp (Is 55, 1 - 11), và Thánh vịnh 118 ca ngợi hết lời hạnh phúc của những ai hết lòng tìm kiếm Thiên Chúa (118,1 - 8).


Những cuộc tìm kiếm này càng tỏ rõ hơn trong những trình thuật của Tin mừng. Trong Tin mừng ta bắt gặp được sự tìm kiếm của các mục đồng (Lc 2, 1-20), nỗi khát khao những nhà chiêm tinh đi tìm Chúa (Mt 2, 1-12). Và rồi chúng ta cũng thấy hình ảnh của Giakêu : Thiên Chúa đi tìm kiếm kẻ tìm kiếm Người (Lc 19, 1-10).


Và đây, lời khẳng định của Chúa Giêsu như một bảo đảm cho những ai tìm kiếm Người : “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho” (Mt 7,7). Tuy nhiên phải nhìn nhận rằng người ta hay hiểu lầm và tách biệt tâm linh như một mảng giữa muôn vàn mảng khác của cuộc sống. Đúng hơn, tâm linh là trọn vẹn đời sống, là cả một tiến trình với không ít những thăng trầm. Ứng với từng lứa tuổi, từng thời điểm khác nhau, con người có những cách cảm nhận, có những cơn khủng khoảng khác biệt, do vậy làm sao chúng ta có được một cuộc gặp gỡ đích thực với chính Thiên Chúa, chứ không chỉ dừng lại ở những tình cảm hời hợt chóng qua, hay những mớ lý thuyết cao siêu huyền bí.


Thoả thuê bên nguồn suối


Điểm mốc quan trọng của lịch sử hội tụ với sự xuất hiện của Đức Giêsu, Đấng Cứu Thế. Người đem đến cho con người một niềm hy vọng mới, niềm hy vọng cứu độ, niềm hy vọng được sống vĩnh cửu.


Nếu lấy Đức Giêsu làm điểm quy chiếu, thì tất cả Kinh Thánh Cựu Ước đều hướng về Người, và tất cả các lời ngôn sứ, nhờ Người đã được nên trọn. Đức Giêsu chính là trung tâm điểm của lịch sử, là Đấng các ngôn sứ loan báo, là điểm thành toàn của lời hứa Thiên Chúa xưa kia.


Biến cố Đức Giêsu xuất hiện, và việc nhập thể - cứu độ của Người, phải chăng đã lấp đầy mọi khát vọng của con người, và những ai xuất hiện sau Đức Giêsu cho tới bây giờ thì đã hoàn toàn hạnh phúc và không còn hy vọng nữa  ?  Và nếu còn hy vọng, thì niềm hy vọng căn bản của con người thời nay là gì  ?


Con người vốn là bất toàn, và chẳng bao giờ con người nguôi ngoai niềm hy vọng hướng về Trọn Vẹn. Con người luôn là thân phận lữ hành, và niềm hy vọng vẫn là điều không thể thiếu đối với con người trong cuộc hành hương.


Nếu phải gọi tên niềm hy vọng của con người cụ thể hôm nay là gì, ta có thể tạm gọi đó là niềm hy vọng hạnh phúc. Người ta xoay sở mọi cách để có được hạnh phúc. Người ta lao đầu vào chính trường, vào chính trị, vào làm ăn kinh tế, hay ngay cả vào các đời sống tôn giáo, cùng là để tìm hạnh phúc. Ngay cả những kẻ lãng tử, xì ke ma tuý, đua xe, nhậu nhẹt … tất cả cũng đều muốn tìm cho đời mình một ý nghĩa, hay là đi tìm hạnh phúc. Và con người chẳng bao giờ có hạnh phúc thật sự, bao lâu nỗi ám ảnh của thần chết vẫn ở bên cạnh mình. Như vậy, niềm hy vọng hạnh phúc có thể gọi tên cụ thể hơn là niềm hy vọng con người được bất tử. Nhưng “nhân sinh tự thủy thùy vô tử” – từ xưa đến nay, nào có ai không phải chết bao giờ  ?


Nếu đem niềm hy vọng của con người ngày nay mà so sánh với niềm hy vọng của Dân Chúa xưa kia, có lẽ cũng không khác nhau là mấy. Có khác chăng, là nhờ vào ánh sáng Đức tin, con người có thể tìm thấy đáp số cho niềm hy vọng của mình.


Ngày nay, xã hội càng văn minh, càng dồi dào vật chất, càng ê hề hưởng thụ, thì dường như nhu cầu tâm linh của con người ngày càng mãnh liệt hơn. Nhiều giáo phái ra đời, nhiều con người tìm về những gì là tín ngưỡng, là tâm linh, là tôn giáo, đặc biệt người ta khát khao những giá trị như  là cầu nguyện, tĩnh lặng, thiền… Đó là những dấu chỉ khao khát hạnh phúc, khao khát sự trường tồn, bất tử.


Trong lĩnh vực khoa học, y học, người ta không khỏi ôm ấp giấc mơ tìm ra thứ thuốc “bách niên giai lão”, “cải lão hoàn đồng” hay “trường sinh bất tử”… Sự thật thì, người ta chỉ có thể làm cho con người sống lâu hơn được đôi chút, chứ chưa làm cho ai miễn phải qua cửa chết.


Và nếu giả như con người có thể làm cho mình trường sinh bất tử, thì còn đâu là niềm hy vọng  ? Điều mong ước đã đạt được rồi thì còn gì phải hy vọng nữa !


Như  vậy, ai có thể thỏa mãn niềm hy vọng cháy bỏng này của con người được đây  ? Câu trả lời của những người có niềm tin Kitô giáo, chắc chắn không thể là ai khác, mà là chính Đức Kitô, Người là Đấng muôn dân trông đợi, là Đấng Cứu Độ duy nhất, là đường, là sự thật, và là sự sống. Chính Đức Giêsu đã nói: “Thầy đến để thế gian được sống và sống dồi dào”. Chính Đức Giêsu đã cho Ladarô sống lại từ cõi chết, và Người đã khẳng định với cô Mácta: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống mà tin vào Thầy, thì sẽ không bao giờ phải chết” (Ga 11,25-26).


Như thế, con người không tự sức mình mà nên trọn vẹn được. “Không có Thầy, anh em không làm gì được” (Ga 18,5). Con người chỉ nên hoàn trọn, hay nói cách khác, thỏa mãn được niềm hy vọng hạnh phúc của mình, nhờ tin vào Đức Giêsu. Đức Giêsu chính là đích điểm niềm hy vọng, là hạnh phúc đích thực của con người. Niềm hy vọng của con người mãi mãi là trống rỗng nếu không đạt đến Đức Kitô, nếu không được Người chiếm hữu, lấp đầy.


Kết luận


Niềm hy vọng của con người hôm nay, niềm hy vọng của con người thời xưa, và niềm hy vọng của con người thời nào cũng thế, cuối cùng cũng phải quy hướng về Đức Kitô (có thể là cách minh nhiên hay chỉ là tiềm ẩn), và chỉ nơi Người, con người mới có thể “trường sinh bất tử”, mới có thể đạt được mục đích trọn vẹn. Thánh Âutinh như chắp cánh cho những khát vọng Thiên Chúa của chúng ta vươn lên mãi : “Lạy Chúa, Chúa dựng nên con, và lòng con khao khát Chúa cho đến mãi khi nào được nghỉ an trong Ngài”.

114.864864865135.135135135250