16/11/2010 -

Suy tư, nghiên cứu

2494


NHÌN LẠI ĐỜI MÌNH:

tuổi đời - tuổi tu, ơn gọi và sứ vụ

 


 


Nt. Têrêsa Phạm Thị Oanh, OP.


 


Dẫn Nhập


Sau khi đã thánh hiến trọn đời, người tu sĩ được Hội Dòng và Giáo Hội luôn tôn trọng và tín nhiệm như những người đã trưởng thành về nhân bản cũng như nhân cách đời tu, về đời sống tâm linh cũng như đời sống sứ vụ tông đồ. Vì trong suốt quá trình tu luyện từ ngày đầu tiên ứng sinh bước vào Thỉnh viện đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa cho tới ngày vĩnh khấn, đã được huấn luyện trưởng thành tương xứng về nhân bản, nhân cách Kitô giáo, đời sống tâm linh và khả năng thi hành sứ vụ. Chúng ta đã từng bước cam kết theo sát Chúa Kitô, được Người biến đổi trở nên đồng hình đồng dạng với Người, và để Người sai đi loan báo Tin Mừng Nước Trời.


Một cách cụ thể, chúng ta không thể chọn một ứng sinh còn thiếu nhân bản vào Tiền Tập, còn thiếu nhân cách đời tu vào Tập viện; hay cho tiên khấn một huấn sinh chưa trưởng thành về  đời sống tâm linh, cũng như cho khấn trọn đời người chưa trưởng thành về cả 4 phương diện: nhân bản, nhân cách đời tu, đời sống tâm linh và khả năng thi hành sứ vụ.


Nhưng trong cuộc sống hằng ngày, những tu sĩ đã khấn trọn của chúng ta vẫn còn có những người chưa thực sự trưởng thành trong giao tiếp, ứng xử; phản ứng như người không có đức tin, thiếu đời sống nội tâm, chiêm niệm và chia sẻ cho tha nhân những gì mình đã chiêm niệm. Vì thế, sứ vụ của Hội dòng chưa thực sự hiệu quả như Chúa và Giáo Hội mong muốn. Điều này cho thấy rằng: sự trưởng thành đời tu không tuỳ thuộc vào thời gian sống trong nhà Chúa nhưng vào mối tương quan của người tu sĩ với Thiên Chúa và tha nhân.


Vậy, để có câu trả lời trung thực và chính xác, chúng ta có thể tự hỏi mình hay đặt câu hỏi với huấn sinh như sau:




  • Đời tu của tôi hiện nay có được bình an và hạnh phúc không?



  • Qua những thăng trầm của đời sống, tôi nhận thấy mối tương quan của mình với Chúa Giêsu như thế nào, có sống động và thân tình hơn theo thời gian không?



  • Tôi có cảm nghiệm được sự hiện diện yêu thương của Chúa Giêsu trong từng phút giây đời sống của mình không?



  • Và tình yêu của Chúa Giêsu đã tác động đến ơn gọi và sứ vụ của tôi như thế nào?



Hy vọng những câu hỏi gợi ý trên sẽ là một lời mời gọi thức tỉnh chúng ta tự huấn luyện mình sống trong sự thật. Sự thật mà chúng ta đã được thánh hiến khi lãnh Bí tích Rửa tội và trong Lời khấn Dòng. Sự thật mà Chúa Giêsu luôn cầu nguyện xin Cha thánh hiến chúng ta, để chúng ta luôn xác tín mình là con Thiên Chúa và là môn đệ của Người. Sự thật đã giải thoát chúng ta khỏi mọi sợ hãi, khỏi mọi hình thức nô lệ cho những giá trị trần thế để được tự do thuộc trọn về Thiên Chúa, được hưởng niềm vui và sự bình an của Nước Trời ngay ở đời này.


Đồng thời những câu hỏi trên cũng giúp chúng ta nhìn lại đời mình: tuổi đời và tuổi tu, ơn gọi và sứ vụ; một cuộc đời đan xen giữa ánh sáng và bóng tối, sức mạnh của ơn Chúa với những yếu đuối của bản thân, thiện chí cố gắng với vấp ngã nản lòng, thành công và thất bại, hạnh phúc và đau khổ,.... Nhưng tất cả đã dệt nên một thiên tình sử tuyệt vời giữa một thụ tạo bé nhỏ thất trung với một Thiên Chúa toàn năng luôn trung tín. 


Vâng, đời tu mỗi người là một thiên tình sử. Chúng ta cùng nhìn lại cuốn phim đời mình để khám phá ra hành động của Thiên Chúa đã và đang đồng hành với từng biến cố trong cuộc sống của chúng ta như thế nào?


  1. NHÌN LẠI TUỔI ĐỜI


Người tu sĩ sau khi đã khấn trọn, thường ở trong độ tuổi trưởng thành hay tuổi trung niên rồi. Các nhà tâm lý, giáo dục cũng như tu đức học đã nói gì về tuổi này? Người tu sĩ ở độ tuổi này có còn bị khủng hoảng nữa không?


(Khủng hoảng không chỉ có nghĩa là tâm trạng mất quân bình, mất định hướng hoặc có nhiều mâu thuẫn nội tâm, nhưng còn là một thách thức trở nên chính mình, một đòi hỏi quyết liệt cần phải có một thái độ mới trước những thay đổi trong cuộc sống)


Theo Cha Thân Văn Tường “cuộc đời mỗi người có 4 tiếng khóc chính:




  • Tiếng khóc đầu tiên lúc lọt lòng mẹ.



  • Tiếng khóc thứ hai khi rời mái ấm gia đình.



  • Tiếng khóc thứ ba lúc rời bỏ tuổi thanh xuân đầy nhựa sống để bước sang tuổi trung niên.



  • Tiếng khóc cuối cùng là tiếng khóc của mùa thu lá bay, khi chúng ta sắp rời cuống nhau cuộc đời này mà sinh vào một thế giới đang tới.



Nhận xét trên cho thấy tâm trạng của con người xem ra rất đau đớn khi phải đối diện với những thay đổi (tuổi tác và môi trường). Nhưng khởi đi từ những tiếng khóc ấy, cuộc đời con người được phát triển, đổi mới và ý nghĩa hơn.


Theo Cha Charles Serrao, OCD: “Cuộc khủng hoảng của tuổi trung niên kéo dài từ 30 – 65 tuổi; tuỳ thuộc vào văn hoá, xã hội, công việc và trách nhiệm người ta đảm nhận.” [1]. Đặc biệt trong độ tuổi từ 35-40 đối với nữ giới và từ 40-45 đối với nam giới, đỉnh cao của tuổi trưởng thành và đang chuyển tiếp sang tuổi xế trưa, tuổi hồi xuân, thì khủng hoảng cần phải có như một thách thức về căn tính. Khủng hoảng giữa cái “CÓ” và cái “LÀ”. Ở tuổi này, có thể chúng ta có rất nhiều: kiến thức, học vị, địa vị, vật chất, công nghiệp, kinh nghiệm và những mối tương quan…., nhưng chúng ta đang LÀ gì? Những cái CÓ đó có làm nên giá trị đích thực của chúng ta là Kitô hữu hay là một tu sĩ đích thực không?


Trong hành trình cuộc sống, Chúa Thánh Thần có thể cho chúng ta trải qua một kinh nghiệm khủng hoảng khi thấy mình trống rỗng, vong thân, tha hoá, vì đánh mất căn tính của mình. Tâm trạng này có thể gọi là sự khủng hoảng về điểm tựa. Thay vì chọn Chúa Giêsu là điểm tựa duy nhất, chúng ta đã tựa vào những tạo vật ảo ảnh phù hoa và những giá trị trần thế sẽ qua đi như gió thổi mây bay. Với ý nghĩa trên xin trình bày về sự khủng hoảng tuổi trung niên như một thách thức; thách thức trở nên chính mình theo dự phóng của Thiên Chúa.


a. Khủng hoảng tuổi trung niên: một thách thức


Theo chị Thecla Trần Thị Giồng, tuổi từ 35-45 được xem như giai đoạn chuyển tiếp, và đây là giai đoạn chuyển tiếp quan trọng nhất trong đời, mỗi người trở nên diễn viên của đời mình. Người ta quay về với thực tại nội tâm chứ không tìm ở bên ngoài như trước. “Những gì tuổi trẻ phải tìm và đã tìm bên ngoài, con người ở tuổi xế trưa phải tìm ở chính mình”. Vì thế, đối với rất nhiều người, thường xảy ra những thay đổi đáng kể ở tuổi trung niên; thế giới của họ bất thần đảo lộn và lối sống hoàn toàn thay đổi. Điều này được coi như một tiến trình trong cuộc đời. Nhiều cuộc đời trong tuổi này đã có những thay đổi một cách đáng ngạc nhiên, họ có thể trở nên con người bản lãnh, tự tin hơn, ý thức trách nhiệm, và thành đạt hơn; hay họ cũng có thể trở nên bạc nhược, yếu đuối, thất bại, bị hư hại, có khi đem đến sự tiếc nuối cho cả quãng đời còn lại. Các nhà tâm lý giáo dục và tu đức cho rằng: đời mỗi người được hay mất tuỳ thuộc vào giai đoạn này. Chính vào tuổi này mà nhiều gia đình được củng cố ổn định hơn và cũng trong thời điểm này hầu hết các vụ ly hôn xảy ra; còn với tu sĩ, linh mục đây cũng là lúc cần đặt lại vấn đề, trở về sống đúng với căn tính ơn gọi, xuất phát lại từ Đức Kitô hay lại muốn thay đổi ơn gọi, thậm chí có thể hồi tục nữa. [2]


Về phương diện tâm lý, “Tuổi trung niên là giai đoạn của những mâu thuẫn nội tại trong chính bản thân [3]




  • Mâu thuẫn giữa thái độ thể hiện trẻ và già: một mặt cảm thấy mình là người trưởng thành, già giặn; mặt khác vẫn cố duy trì sự trẻ trung, muốn mình vẫn còn thuộc về giới trẻ.



  • Mâu thuẫn về ý muốn: vừa muốn vươn lên, vừa thấy bị giằng co, nặng nề, vì các xung năng bùng lên mạnh mẽ. Mâu thuẫn giữa cái tôi muốn và cái tôi làm…



  • Mâu thuẫn giữa những lực đối kháng bên trong: nơi người nữ, nữ tính nhẹ đi và nam tính bắt đầu mạnh lên. Nữ giới trở thành con người cứng cỏi dựa trên lý trí, có khuynh hướng độc lập, lãnh đạo. Diễn tiến này ngược lại nơi người nam; họ trở nên mềm hơn. Trong đời sống tu trì người tu sĩ bắt đầu suy nghĩ độc lập hơn.



Trong thực tế, một số người trải qua tuổi trung niên cách bình thản trong khi nhiều người khác lại có kinh nghiệm như cuộc khủng hoảng. Tuy nhiên, khủng hoảng ở đây không có nghĩa là một sự suy thoái, sụp đổ nhưng là những thay đổi phải có để bước sang một giai đoạn mới với những thách thức mới mà tuỳ theo sự chọn lựa thái độ sống thích hợp, chúng ta có thể ngày một hoàn tất tiến trình thành nhân của mình hơn.


b. Thách thức trở nên chính mình theo dự phóng của Thiên Chúa 


Theo Cha Charles Serrao OCD, bước vào tuổi trung niên người ta phải có những quyết định quan trọng định hình cho cuộc đời còn lại của mình, một giai đoạn có hàng loạt những biến cố lớn trong bất cứ hình thức thay đổi nào về các phương diện: sự nghiệp, đời sống tình cảm hay đời sống đức tin và ơn gọi.[4]


Giai đoạn này cho thấy rằng không có Thiên Chúa, con người không thể hạnh phúc. Không gì thuần tuý nhân loại thoả mãn được những khát vọng của con người. Con người cần thăng hoa và mở lòng ra cho Thiên Chúa. Đó là sự từ bỏ mình; càng từ bỏ mình cho Thiên Chúa, càng được giải thoát. Khi ấy những kinh nghiệm xem ra tiêu cực sẽ thành tích cực.


Trong giai đoạn này, người ta thường tìm kiếm những giải pháp nhờ những thay đổi bên ngoài nhưng giải pháp duy nhất lại nằm ở bên trong, chứ không ở bên ngoài. Vì thế, chúng ta phải hoàn toàn tín thác vào Thiên Chúa như một trẻ thơ (Mt 18,3). Đây là điều dẫn tới một cuộc sống mới, là một tiến trình cá thể hoá, tự nhận biết, nội tâm hoá, làm cho mình thành siêu việt, một sự thống nhất đời sống. Lúc này, chúng ta được mời gọi để phát triển cá nhân tính của mình theo dự phóng của Thiên Chúa để quyền năng và tình yêu Thiên Chúa được tôn vinh nơi sự yếu đuối của chúng ta: “Khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh”


Tới đây, chúng ta có thể nhận thấy rằng: khủng hoảng tuổi trung niên là một điều cần thiết trong tiến trình thành nhân và thành con Thiên Chúa. Đó là:




  • Một giai đoạn phát triển.



  • Một giai đoạn để hoàn tất cuộc sống và thiết lập mục đích cho cuộc sống.



  • Thời gian phát huy triết lý sống cho đời mình.



  • Thời gian không còn làm vui lòng kẻ khác nữa mà bắt đầu củng cố bản vị mình theo ý Chúa.



  • Thời gian có những quyết định quan trọng.



  • Lúc bắt đầu một cuộc sống mới.



  • Lúc đánh giá hiện tại và định hướng cho tương lai.



  • Nấc thang để như Maslow gọi “tự hoàn tất chính mình” hay như  Jung để “cá thể hoá” chính mình.



Như vậy, tuổi trung niên là thời gian rất quan trọng và cũng rất tuyệt vời vì ngay chính những khủng hoảng của nó lại khai sinh ra một nhân cách trưởng thành.[5]


2. NHÌN LẠI TUỔI TU


Nhìn lại tuổi tu là nhìn lại mối tương quan của mình với Chúa Giêsu trong suốt hành trình bước theo Người. Chúng ta có thể  tự hỏi mình:


Đối với tôi, Chúa Giêsu là ai và Người đã tham dự vào đời sống của tôi như thế nào?


Tôi có cảm nhận được Chúa Giêsu luôn đồng hành bên tôi trong mọi phút giây, ngay giữa những công việc thường ngày hay từng biến cố trong cuộc đời của tôi  không?


Thực ra, mối tương quan cá nhân của mỗi người với Chúa Giêsu chính là một ân huệ như Chúa Giêsu đã nói với chị phụ nữ Sa-ma-ri ở bờ giếng Gia-Cóp: “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban và ai là người nói với chị “cho tôi chút nước uống”, thì  hẳn chị đã xin và người ấy ban cho chị nước hằng sống.”(Ga 4, 10). Mối tương quan này sẽ sống động và thân tình hơn tuỳ thuộc vào sự liên lạc hằng ngày của chúng ta với Chúa; vì Chúa đã đi bước trước mời gọi chúng ta lập giao ước tình yêu với Người. Thực tế, trong mỗi giây phút hiện tại, khi mỗi người đang lo toan cho cuộc sống của mình, Chúa Giêsu luôn ngồi đó, bên bờ giếng ngỏ lời: “Chị cho tôi xin chút nước uống”. Nhưng chúng ta đã nhận ra Chúa Giêsu và để Người tác động đến đời sống cá nhân của mình từng ngày như thế nào? Chúng ta đã hưởng ứng hay cản trở tác động của Chúa?


Để có thể trả lời trung thực hơn về mối tương quan của mình với Chúa Giêsu trong hành trình đời tu, mỗi người sống lại tình yêu thủa ban đầu của mình qua từng bước quyết định tiến lên trong các giai đoạn đào tạo sơ khởi. 


a. Sống lại tình yêu thuở ban đầu


Nhớ lại bước quyết định đầu tiên của mình, khi từ bỏ gia đình, ba mẹ, anh chị em, bạn bè,…để đi tu, vào nhà Chúa, sống dưới mái nhà Thỉnh viện, hoàn toàn khác lạ với căn nhà của mình, chúng ta thấy: em bé 10 – 11 (18) tuổi ngày xưa ấy đã mang tâm  trạng thế nào? Rồi cuộc sống mới này bên những bạn khác dưới sự hướng dẫn của quí vị đặc trách và quí Bề trên theo một chương trình huấn luyện rất nghiêm túc, nhưng tại sao em bé ngây thơ ấy vẫn bình an ở lại với Chúa, rồi can đảm  tiến lên Tiền Tập, Tập viện, và Tiên Khấn trung thành với ơn gọi theo sát Chúa Kitô khiết tịnh, khó nghèo và vâng phục trong niềm vui được đổi mới từng ngày? Nhìn lại bước đầu đời tu, chắc chắn chúng ta phải chân nhận rằng: “Chính Thiên Chúa đã chọn gọi và chinh phục tôi, và tôi đã bị tình yêu Người thu hút như ngôn sứ Giê-rê-mi-a hay như bốn môn đệ đầu tiên đã bỏ mọi sự mà theo Chúa Giêsu.” (Mc 1, 16-20).


Rồi những bước quyết định kế tiếp mỗi ngày một quan trọng hơn, đòi hỏi nhiều can đảm và hy sinh hơn khi chúng ta chuẩn bị cho hiến tế trọn đời sau thời gian thực tập sứ vụ của Hội Dòng. Lúc này chúng ta đã trưởng thành hơn, tham gia vào những sinh hoạt của Hội Dòng nhiều hơn, được học hỏi hiểu biết hơn về Thiên Chúa qua những môn học về Thánh kinh, thần học, huấn giáo và tu đức; đồng thời chúng ta cũng hoà nhập hơn với truyền thống Hội Dòng; cũng như có thêm những mối tương quan rộng hơn trong môi trường sứ vụ. Đặc biệt hơn nữa, mỗi ngày chúng ta có thêm kinh nghiệm về tình yêu Chúa, được Chúa huấn luyện trong mầu nhiệm thập giá của đời sống huynh đệ cộng đoàn với những giới hạn của bản thân, của Bề trên, cũng như những thách đố đa dạng của nền văn minh hiện đại. Nhưng sức mạnh của ơn Chúa đã thúc đẩy chúng ta sẵn sàng vét rỗng bản thân, từ bỏ tất cả để tuyên khấn trọn đời trong tay Bề trên của mình trước sự chứng giám của Đức Giám Mục đại diện Giáo Hội và cộng đoàn dân Chúa.


Quả thật, nhìn lại đời tu, chúng ta cảm thấy rõ hơn hoạt động của Thiên Chúa thật mãnh liệt và sống động trong cuộc đời của mình. “Không phải các con đã chọn Thầy nhưng chính Thầy đã chọn các con và sai các con đi…”(Ga 15).


b. Nhìn lại giao ước tình yêu đã tuyên khấn


Cho đến hôm nay, sau khi đã khấn trọn đời từ 10 - 30 năm, chúng ta đã đảm nhiệm những công tác khác nhau để phục vụ cộng doàn cũng như  phục vụ Tin Mừng giữa lòng xã hội. Vào thời điểm này, khi tuổi đời và nhân cách trưởng thành hơn, chúng ta tự cảm thấy đời thánh hiến sẽ mất ý nghĩa và trống rỗng biết bao nếu như chúng ta không thực sự gặp gỡ được Chúa Giêsu trong tương quan cá vị?  Đây là thời điểm, Chúa Thánh Thần không ngừng khơi dậy trong nội tâm chúng ta khát vọng được uống mạch nước hằng sống mà Chúa Giêsu đã hứa ban cho những ai tin vào Người (Ga 7,37-38). Và chính khát vọng tâm linh này sẽ thúc đẩy chúng ta nhìn lại giao ước tình yêu của mình với Chúa Giêsu, để có những bước đổi đời: theo sát Chúa Giêsu hơn, trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu hơn và có thể làm chứng nhân cho Chúa Giêsu hiệu quả hơn.


Quả thực, nếu như chúng ta luôn mở rộng cõi lòng đón nhận sự hiện diện yêu thương của Chúa Giêsu, trung tín với giao ước tình yêu và được thánh hiến trong sự thật dưới ánh sáng Lời Chúa, thì chính sự thật sẽ giải phóng chúng ta khỏi những mặc cảm, yếu đuối bản thân và những vinh quang, ảo ảnh trần thế; chúng ta sẽ cảm thấy rằng: “Lời khấn khiết tịnh mở rộng con tim chúng ta cho đến chiều kích của con tim Đức Kitô và làm cho nó có thể yêu mến như Người đã yêu. Lời khấn khó nghèo giải thoát chúng ta khỏi nô lệ các sự vật và các nhu cầu giả tạo đang lôi cuốn xã hội tiêu dùng và dẫn chúng ta đến việc tái khám phá Đức Kitô kho tàng duy nhất đáng để chúng ta tìm kiếm. Lời khấn vâng phục đặt cuộc sống hoàn toàn trong bàn tay Đức Kitô ngõ hầu Người có thể sử dụng theo kế hoạch của Thiên Chúa và biến nó trở nên một tuyệt tác.”(XPĐK 22)


Trái lại, nếu như chúng ta thất trung với Chúa, không đặt niềm tin nơi Lời Chúa, xa quên Thiên Chúa, loay hoay toan tính, tự lo cho bản thân mình, tuyệt đối hoá chính mình, tự đặt mình là thần tượng, chúng ta sẽ sống tách rời cộng đoàn, bị vong thân, tha hoá, đánh mất mình, dẫn đến buồn nản và tuyệt vọng. Trong tâm trạng trống rỗng, bất an, mất ý nghĩa sống này, chúng ta sẽ mất định hướng, trở thành chuyên viên gây rối cho chính mình và bất cứ nơi nào mình hiện diện. Giữa cộng đoàn, chúng ta như  những bông hoa “dị thường” Bề trên không biết đặt ở đâu cho thích hợp.


Đó là những bước thăng trầm đã và đang diễn ra trong hành trình theo Chúa của mỗi người chúng ta; những lúc nhịp bước bên Chúa và những khi chẳng thấy Chúa đâu. Cũng như các tông đồ, đặc biệt như Phêrô, chúng ta thực sự đã nhiệt tình theo Chúa một cách triệt để, nhưng cũng có lúc chúng ta đã nản lòng, sợ hãi, chối Chúa khi phải đối diện với mầu nhiệm thập giá. Nhưng rồi chúng ta lại bắt gặp được ánh mắt nhắc nhở, cảm thông tha thứ của Chúa Giêsu, và được Chúa tín nhiệm sai đi với quyền năng Thánh Thần. Đó chính là những kinh nghiệm gặp gỡ Chúa Giêsu rất riêng trong những sự kiện và biến cố cụ thể của mỗi người khi nhìn lại hành trình đời tu của mình.


3. NHÌN LẠI ƠN GỌI VÀ SỨ VỤ    


 “Các con phải nên thánh và phải nên những nhà truyền giáo”. Đó là lời nhắn nhủ của Đức Thánh Cha Bênêdictô XVI được ghi ngay hàng đầu tiên trong Sứ Điệp “Ngày Giới Trẻ Thế Giới lần thứ 23, năm 2008 tại Sydney”. Tôi rất cảm kích và được đánh động sâu sắc khi tiếp nhận sứ điệp này vì  đây chính là bản chất của người Kitô hữu. Sứ điệp như một lệnh truyền của Đấng đại diện Đức Kitô muốn thức tỉnh những người tin vào Đức Kitô phải ý thức sống triệt để hơn ơn gọi nên thánh và sứ vụ truyền giáo của mình. Đó chính là ơn gọi “thánh hiến để được sai đi” của người tu sĩ mà chúng ta cần phải nhìn lại mỗi ngày để tự huấn luyện mình sống lời cam kết triệt để theo sát Đức Kitô, và để quyền năng Người hoạt động nơi chúng ta trên mọi nẻo đường sứ vụ.


a. Ơn gọi nên thánh


Khi được thánh hiến trong Bí tích Rửa tội, chúng ta đã trở nên thánh vì được xức dầu Thánh Thần, được thanh tẩy khỏi tội tổ tông và phục hồi phẩm giá là con Thiên Chúa. Chúng ta được ở trong tình yêu của Chúa Cha, Đấng đã yêu chúng ta đến nỗi ban Con Một của Người là Đức Giêsu. Chúng ta được nên một trong tình yêu và quyền năng của Đức Giêsu, Đấng đã yêu chúng ta cho đến chết khổ nhục trên thập giá. Đồng thời, Chúa Thánh Thần, Đấng là tình yêu giữa Chúa Cha và Chúa Con, Đấng là sự sống, sức mạnh, niềm vui và sự bình an luôn ở cùng chúng ta. 


Như vậy, nên thánh là hồng ân đã được ban tặng cho những người tin, chúng ta chỉ cần mở lòng ra để đón nhận sự thật là chính tình yêu và quyền năng vô biên của Thiên Chúa đang hoạt động trong chúng ta. Vâng, Ngôi Lời luôn ở cùng chúng ta. Trong đức tin chúng ta luôn có Thiên Chúa Ba Ngôi ngự trong tâm hồn và Nước Trời luôn bao phủ chúng ta. Nói cách khác, nhờ tin vào Đức Giêsu và sống yêu thương như Đức Giêsu, chúng ta đã là những công dân của Nước Thiên Chúa, là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa giữa loài người.


Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong sứ điệp Ngày Thế Giới Ơn Gọi 2002 đã viết:


Sự thánh thiện! Đó là ân sủng và mục tiêu mà mọi tín hữu nhằm tới như sách Lêvi nhắc nhở: “Hãy nên thánh, vì Ta, Đức Chúa, Chúa của ngươi, là Đấng Thánh” (19,2). Trong tông thư Ngàn năm thứ ba đang tới, tôi đã mời gọi tất cả mọi người “đặt chương trình mục vụ dưới tiêu đề sự thánh thiện” để diễn tả “niềm xác tín rằng, vì phép rửa tội đưa chúng ta vào trong sự thánh thiện của Thiên Chúa nhờ được tháp nhập vào Chúa Kitô và được Chúa Thánh Thần cư ngụ, thì sẽ là điều mâu thuẫn khi bằng lòng với một lối sống đạo đức tầm thường và hời hợt. Đã đến lúc phải nghiêm túc tái đề nghị cho mọi người tiêu chuẩn cao cả này của đời sống Kitô hữu bình thường: toàn bộ đời sống cộng đồng và của các gia đình Kitô phải theo hướng đi này (số 1).


Do đó, các tu sĩ càng phải nỗ lực hơn vì đời sống thánh hiến biểu lộ bản chất ơn gọi nên thánh của các Kitô hữu và là hướng đi của toàn thể Giáo hội: “tân nương” hướng về Đức Kitô là “Tân Lang” duy nhất của mình”(Số 2). Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng: do nguồn gốc đời tu trì phát xuất từ chính Đấng là sự thánh thiện nên các tu sĩ phải được coi là những chuyên viên của sự thánh thiện. Chúng ta có thể thua kém người đời về nhiều mặt nhưng không được phép thua kém họ về sự thánh thiện.


Nói cách khác, đời sống người môn đệ của Chúa chính là ánh sáng phát xuất từ ánh sáng (Ga 12,36; Mt 5,12). Khi chúng ta để một vật kim loại, hay tấm gương dưới ánh sáng mặt trời ban trưa, nó sẽ chói sáng. Từ hình ảnh minh hoạ đó, chúng ta có thể xác tín rằng: nếu như mình sống đúng căn tính của mình là Kitô hữu, mở lòng ra để đón nhận Đức Kitô, tin vào Người, ở trong mối tương quan sống động và thân tình với Người thì ánh sáng của Người cũng biến mình thành ánh sáng như vậy; nghĩa là mình cũng được trở nên thánh thiện như Người.


Trong tháng 11, khi chiêm ngắm đời sống Đức Mẹ, các thánh tông đồ và các thánh trong vinh quang Nước Trời; ngoài việc noi gương nhân đức của các ngài,  chúng ta cần suy niệm về  tình yêu và quyền năng của Thiên Chúa đã hành động trong cuộc đời của mỗi vị thánh. Chính thực tại đời sống thăng trầm của các thánh khi các ngài bước theo Đức Kitô trên mọi nẻo đường đã cho chúng ta niềm hy vọng: dù trong hoàn cảnh nào, tình yêu cứu độ của Thiên Chúa cũng có thể thánh hoá những ai tin vào Người; chỉ cần người đó biết mở lòng ra để đón nhận ơn cứu độ nhưng không của Thiên Chúa (như câu chuyện anh thánh trộm lành).


Khi nhìn lại ơn gọi nên thánh, chúng ta có thể học từ Chúa Giêsu thái độ “tôn trọng con người vô điều kiện”, ngay cả các tội nhân vì mọi người đều được Chúa Giêsu tìm kiếm và cứu vớt. Từ đó chúng ta có thể xác nhận rằng: chính ơn gọi nên thánh là phẩm giá của mỗi người nên mọi người đều có nhu cầu được tôn trọng. Nói cách khác, chúng ta chỉ có thể chinh phục nhân tâm khi phẩm giá của họ được phục hồi bằng sự tôn trọng. Trong tâm lý trị liệu chiều sâu, Carl Roger đã chọn phương pháp: “Tôn trọng thân chủ vô điều kiện” và trong “hệ thống trị liệu” các nhà tâm lý cũng áp dụng giải pháp: “đạo đức trị liệu” khi họ lắng nghe người thân và tìm được một điều tốt đó nào của thân chủ; dù ở trong quá khứ,  họ sẽ bám vào đó như một hòn than trong đống tro tàn, để khởi dậy lòng tự trọng của thân chủ và giúp thổi bùng lên  phẩm giá thật của họ (là con Thiên Chúa). 


b. Ơn gọi truyền giáo


Truyền giáo là bản chất của Giáo Hội, và sứ mạng của mọi Kitô hữu; đặc biệt với người tu sĩ đã cam kết bước theo sứ mạng của Đức Kitô một cách triệt để; chúng ta sẽ phản lại chính mình nếu như  chúng ta không sống ơn gọi truyền giáo. Do đó mỗi người cần phải nhìn lại bản chất truyền giáo của mình để tự huấn luyện mình trở nên người môn đệ đích thực của Đức Kitô.


Là tu sĩ Đa Minh, mỗi khi tham dự ngày Truyền Thống Gia Đình Đa Minh Việt Nam hay tuần thường huấn của Liên Hiệp Nữ Đa Minh Việt Nam, tôi thực sự cảm kích về sức sống mãnh liệt của Thánh Đa Minh đã và đang trào tràn chảy vào tâm huyết các con cái của Cha hơn 800 năm qua trên toàn thế giới. Tôi tự đặt vấn đề:




  • Bởi đâu Thánh Đa Minh có được nguồn sinh lực phong phú như vậy?



  • Nhờ nguồn mạch nào mà sức sống Gia đình Đa Minh như một rừng cây xanh bát ngát tiếp sức cho nhau đem lại sinh khí cho con người thời đại như thế?



Khi đọc Hiến pháp của Dòng tôi đã tìm được câu trả lời chính xác nhất đó là lòng khao khát ơn cứu độ của Thánh Đa Minh (HP 70) truyền lại cho con cái; cụ thể là trong số 117 vị thánh tử đạo VN, đã có 38 vị là tu sĩ Đa Minh.


Vâng, chính lòng khao khát cho mọi người nhận biết Đức Kitô mà các anh chị em Đa Minh đã dâng hiến cuộc đời cho sứ vụ cứu độ, luôn vui tươi vượt qua mọi thách đố, khó khăn; ngay cả phải chết vì đạo để thông truyền Tin Mừng tình thương của Chúa bằng chứng tá đời sống và lời giảng.


Từ đó tôi mới hiểu được lý do tại sao Mẹ Maria lại có thể chứng kiến Con chịu kết án bất công, bị đánh đòn, và theo Con trên đường lên núi Sọ; tại sao Mẹ lại có thể đứng dưới chân thập giá mà không chết. Vâng, tất cả là vì Mẹ đã hiệp thông nên một với hiến tế cứu độ của Chúa Giêsu để toàn thể nhân loại được ơn tha tội,  trở nên con Thiên Chúa và được sống hạnh phúc muôn đời..


 Chiêm ngắm gương mẫu của Mẹ Maria, Thánh Tổ Phụ Dòng và các thánh, rồi nhìn lại đời mình, tôi cảm thấy định hướng sứ vụ truyền giáo của mình, Hội Dòng mình cũng như Giáo Hội Việt Nam hiện nay thực sự chưa triệt để và đủ mạnh để có thể sống như Chúa Giêsu đã sống và yêu như Chúa Giêsu đã yêu nên hiệu quả truyền giáo còn rất thấp.


Sống ơn gọi Truyền giáo là loan báo Tin Mừng Đức Giêsu, qua việc làm chứng về hạnh phúc, tình yêu và tự do đích thực của con cái Thiên Chúa hằng sống và chân thật. Trong đời thánh hiến, chúng ta loan báo về hạnh phúc đích thực cho những người chung quanh, khi chúng ta can đảm sống “tám mối phúc thật” giữa lòng xã hội hôm nay. Chúng ta loan báo về tình yêu vô biên của Đức Kitô, khi chúng ta sẵn sàng hiến mạng để yêu thương phục vụ những người nghèo khổ, đặc biệt khi chúng ta quảng đại cảm thông tha thứ cho những người xúc phạm đến chúng ta; những người nuôi lòng hận thù với chúng ta, những người chiếm đất của chúng ta. Đồng thời chúng ta thể hiện sự tự do, thanh thản, bình an của con cái Thiên Chúa khi chúng ta tuyên khấn sống khiết tịnh, khó nghèo và vâng phục giữa nền văn minh vật chất, hưởng thụ và tôn thờ quyền lực như hiện nay. Nhưng trong thực tế, đời sống chứng nhân của chúng ta chưa đủ sức thuyết phục anh em lương dân sống chung quanh chúng ta.


Như vậy, sứ điệp của Đức Thánh Cha Gioan Phaolo II gửi các bạn trẻ: chúng con phải nên thánh và phải nên những nhà truyền giáo, đối với chúng ta vẫn còn là lý tưởng. Vì hiện nay, Giáo hội Công giáo Việt Nam có 175 cộng đoàn dòng tu, 13.382 nữ tu, 1.481 nam tu sĩ, 607 linh mục dòng [6], nhưng trong một năm Giáo hội Công Giáo Việt Nam và mỗi Hội dòng chúng ta đã giúp  cho được bao nhiêu người tin vào Đức Giêsu; ngoài con số những anh chị em học đạo để lập gia đình?


Đức Cha Micae Hoàng Đức Oanh Chủ tịch UBLBTM/ HĐGMVN đã nói: việc loan báo Tin Mừng hiện nay thật cấp bách. Cấp bách vì lúa chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt; lệnh truyền của Thiên Chúa chưa được các tín hữu, tu sĩ và linh mục tích cực hưởng ứng. Trong quê hương Việt Nam, chỉ có 7% tín hữu Công Giáo, nhưng trong số đó, được bao nhiêu người thực sự sống đức tin và ý thức loan báo Tin Mừng bằng con đường nhập thể và cứu độ của Chúa Giêsu, con đường Belem và Núi sọ?


Do đó, ngoài việc định hướng ưu tiên cho sứ vụ truyền giáo, tôi thiết nghĩ Giáo Hội Việt Nam nói chung và mỗi Hội Dòng cũng như mỗi tu sĩ cần giúp nhau thức tỉnh để làm chứng cho sự hiện diện của Chúa Giêsu trong mọi phút giây của đời sống mình. Vì chúng ta không thể giới thiệu về Chúa Giêsu cho đúng khi chúng ta không sống tương quan mật thiết và sống động với Chúa. Trong thực tế, có nhiều tổ chức của Giáo Hội, Giáo xứ và Hội Dòng chúng ta rất hoành tráng và ấn tượng, nhưng đó mới chỉ là hiện tượng của niềm tin còn bản chất của niềm tin là mối tương quan với Chúa Giêsu của từng người tham dự như thế nào? Đó chính là lý do Đức Tổng Giám mục Harry Flynn, trong Tổng Giáo phận Saint Paul và Mineapolis đã đưa ra sáng kiến Loan báo Tin Mừng là “Làm cho Đức Giêsu được biết và được yêu qua việc chọn sống Tin Mừng triệt để trong mỗi phút giây.”


Khiêm tốn kiểm thảo mình trước nhan Chúa, mỗi người phải tự thú nhận rằng mình: chưa thực sự sống yêu thương quên mình, dấn thân hy sinh phục vụ như Đức Giêsu nên mình chưa thể nên thánh và chưa thể loan báo Tin Mừng hiệu quả. Nói cách khác, sống như một chứng nhân về cái chết và sự sống lại của Đức Kitô, điều này thực sự quá khó đối với khả năng của con người, nhưng trong lịch sử Giáo hội, Thánh Thần đã hiện thực hoá nơi những người tin.


c. Ơn huệ Thánh Thần


Dưới ánh sáng Lời Chúa, chúng ta đã biết Giáo Hội được hình thành dưới chân thập giá Đức Kitô, khi các môn đệ, người thì phản bội, trao nộp Thầy; người thì chối bỏ, chạy trốn, chỉ còn thánh Gioan bên cạnh Mẹ Maria. Nhưng với ơn huệ của Chúa Thánh Thần, ơn huệ đã biến đổi Mẹ Maria, từ một thiếu nữ đơn sơ, nghèo hèn trở thành Mẹ Đấng Cứu Độ, cũng đã biến đổi các thánh tông đồ từ tâm trạng nhát đảm, sợ chết trở nên những chứng nhân bất khuất đầy sức thuyết phục về cuộc tử nạn và phục sinh của Đức Kitô giữa lòng trần thế.


Quả thật như lời hứa của Đức Giêsu: “Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em; và anh em sẽ là chứng nhân của Thầy”(Cv 1,8). Toàn bộ sách Công vụ Tông đồ đã cho thấy, tất cả sứ vụ truyền giáo của các tông đồ và các tín hữu thời Giáo hội sơ khai đều là công trình của Chúa Thánh Thần. Chính Chúa Thánh Thần điều khiển mọi hoạt động của từng vị tông đồ trong hành trình truyền giáo. Thậm chí, ngay trong những cuộc bách hại, cấm cách, khiến các tông đồ và các tín hữu phải chạy sang các thành lân cận, thì đó lại là đường lối của Chúa Thánh Thần muốn Tin Mừng được vang xa hơn, Danh của Đức Giêsu Kitô được nhiều người nhận biết tin theo hơn; và Giáo hội được lan rộng hơn.  


Vì thế, chúng ta cần xác tín rằng: Chúa Thánh Thần là Tác Nhân chính của lịch sử cứu rỗi, Ngài hiện diện liên tục, tích cực trong sự sống của Giáo hội và nơi tâm hồn chúng ta. Là Kitô hữu, chúng ta cần tái khám phá ra những ân huệ cao cả của Cha là Thần Khí Chúa Kitô mà chúng ta đã lãnh nhận trong các bí tích khai tâm: Rửa tội, Thêm sức và Thánh Thể, để tin thật rằng: Chúa Thánh Thần là ‘linh hồn’, là hơi thở sống của chính sự sống chúng ta (x. ĐGH Bênêđictô, ngày GTTG 23, 2008, Sydney). Đồng thời, chúng ta cần nhận biết rằng cùng một ngọn lửa Thánh Thần đã xuống trên Mẹ Maria, các thánh tông đồ, và toàn thể các thánh cũng như các bậc Tiền Bối trong Hội dòng chúng ta, giờ đây Ngài cũng đang cư ngụ nơi tâm hồn chúng ta, đốt lòng chúng ta yêu mến Chúa, tin cậy Chúa và can đảm hiến tế mình hằng ngày để loan báo tình yêu cứu độ của Thiên Chúa.


Vì thế, dù chúng ta có nhiều yếu đuối, lỗi lầm, hèn kém, nhát sợ, chúng ta hãy can đảm chấp nhận con người thật của mình, mở lòng ra đón nhận ơn huệ Cha ban là Chúa Thánh Thần để Ngài biến chúng ta thành khí cụ tình yêu của Ngài. 


Tóm lại, nên thánh và nên những nhà truyền giáo là lời của Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI, Bề trên tối cao của chúng ta, nhắc nhớ chúng ta sống đúng bản chất ơn gọi của mình. Mặc dầu tự bản thân, ai trong chúng ta cũng cảm thấy mình bất lực, đặc biệt khi yếu đau bệnh tật và tuổi đời đã xế trưa hay xế chiều. Nhưng trong ân huệ Thánh Thần, Đấng đã biến đổi biết bao cái “không thể” thành “có thể”, chúng ta hãy khiêm tốn phó thác để ý Chúa nên trọn trong chúng ta. Xin Người thánh hiến chúng ta trong sự thật qua đời sống cầu nguyện dưới ánh sáng Lời Chúa, tham dự phụng vụ, thánh lễ, dự tiệc Thánh Thể và ý thức sống hiến tế Thánh Thể trong đời sống cộng đoàn cũng như trong sứ vụ đến với tha nhân.


Để Kết


Nhìn lại đời mình, tuổi đời, tuổi tu, ơn gọi và sứ vụ để tạ ơn Thiên Chúa qua hồng ân được thánh hiến trong sự thật và để canh tân niềm tin, sám hối tin vào Tin Mừng. Đó là một trong những phương thế để tự huấn luyện mình trở nên người môn đệ đích thực của Chúa Giêsu - ơn gọi thuộc trọn về Thiên Chúa, không còn thuộc về thế gian nữa; ơn gọi được nên một với Đức Kitô sống yêu thương: khiết tịnh, nghèo khó và vâng phục.  Đây là một ân huệ mà Chúa Cha đã ban cho chúng ta qua Chúa Giêsu; và Chúa Giêsu cũng luôn cầu nguyện xin Chúa Cha thánh hiến chúng ta trong sự thật cao quí này.


Vì thế, nếu chúng ta cảm thấy muốn thay đổi đời sống khởi đi từ khát vọng nội tâm của mình, thì đó chính là những tác động của Chúa Thánh Thần đang khơi dậy, thúc đẩy chúng ta mở lòng ra đón nhận sự hiện diện yêu thương của Chúa Giêsu trong từng phút giây của đời sống chúng ta, và trung tín với giao ước tình yêu Thiên Chúa đã ban tặng và chúng ta đã ký kết với Người.


Như vậy, khi bước vào tuổi trung niên, chúng ta luôn được mời gọi từ bỏ nếp sống tu tầm thường, hời hợt, ngại khó, dễ dãi, chỉ bám vào những giá trị trần thế và tìm vinh dự cho bản thân của mình để biết định hướng lại, triệt để theo Đức Kitô và sứ mạng cứu độ của Người hơn.


Đó là một trong những hiệu quả rất tốt đẹp mà tuổi trung niên có thể đạt được vì ngay chính những dấu hiệu xem ra khủng hoảng của nó lại khai sinh ra một nhân cách đời tu thật trưởng thành.


Vì thế, chúng ta hãy cũng nhau dâng lời cảm tạ Thiên Chúa, Đấng đã dựng nên vũ trụ và con người cách kỳ diệu theo thượng trí khôn ngoan vô biên của Người, chính Người quan phòng đặt định một qui luật phát triển nơi bản thân mỗi người luôn khát vọng hướng về Người như thánh Augustino đã kinh nghiệm: “Lạy Chúa, Chúa dựng nên con cho Chúa, nên lòng con còn thao thức mãi cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa.”







[1] x.Charles Serrao OCD, Biện Phân Ơn Gọi Tu Trì, tr 206




[2] X. Chuẩn bị và sống tuổi trung niên, dưới góc cạnh tâm lý, tr.5-7




[3] X. Ibid., tr.9




[4] X. Charles Serrao OCD, Biện Phân Ơn Gọi Tu Trì, tr 205




[5] X.Charles Serrao OCD, Biện Phân Ơn Gọi Tu Trì, tr 209-211)




[6] Nhật ký Ad Limina HĐGMVN – ĐSTH (6), 2009



114.864864865135.135135135250