KHỔ CHẾ TRÍ TUỆ TÀ ĐỜI SỐNG TÂM LINH
Tu sĩ Jean-Pierre Torrell, O.P.
(Trích từ La Vie Spirituelle, số 731, tháng 9/1999)
Khổ chế không thuộc vào số những từ thông dụng nhất trong từ vựng của Ki-tô giáo hiện đại. Thậm chí nay còn là từ ít được dùng hoặc không còn được dùng đến nữa. Có khi nó còn làm cho người ta cười khi đọc thấy trong một số tài liệu của các thế kỷ đã qua, hoặc có khi nội dung của nó xem ra không còn thích hợp để cung cấp cho ta một linh đạo của niềm vui, là linh đạo mà đối với chúng ta thì dường như phù hợp hơn với điều Thiên Chúa muốn cho con người. Hoặc có khi nữa, nó làm cho chúng ta lo lo sợ sợ. Nếu thật như thế, thì kiểu lo sợ này hoàn toàn có nền tảng. Khổ chế vẫn có một cái gì làm cho người ta sợ, cũng hệt như Thánh giá cứ làm cho người ta sợ vậy. Ta không hề cảm thấy có chút gì lôi cuốn, có chút gì thú vị, không hề cảm thấy có chút hướng chiều tự nhiên nào về chuyện khổ chế cả. Thế nhưng, chính nhờ khổ chế mà ta đạt tới phục sinh. Người môn đệ không lớn hơn Thầy !
Hướng nhìn chiêm niệm của nhà thần học
Trước khi đi vào trọng tâm của vấn đề, xin cho tôi xác định hai điểm này trước đã. Thứ nhất, đây là một tâm sự có tính cách cá nhân nhiều hơn, vì đây là một chủ đề mà tôi đã cưu mang từ lâu lắm rồi. Tôi đã có dịp kiểm chứng nó thật tường tận khi viết cuốn thánh Tôma Aquinô, vị thầy về đường thiêng liêng (Saint Thomas d’Aquin, maître spirituel). Sau khi đọc cuốn sách này, nhiều người bảo tôi là họ cảm thấy chính bản thân họ được lôi cuốn đọc cuốn Initiation à Saint Thomas d’Aquin. Điều này, tôi chỉ biết ghi nhận mà thôi. Thực ra, cuốn sách ấy là một tập khảo luận nhằm trả lời vấn đề đã được đặt ra cho tôi ngay trước khi tôi vào năm tập : việc thao luyện trí tuệ có ích lợi gì cho đời sống Ki-tô hữu không ? Vấn đề này về sau vừa được khai triển thêm vừa được xác định khi tôi tìm cách trả lời cho câu hỏi : học và nghiên cứu thần học có giúp ích cho sự thánh thiện của nhà thần học không ? Theo khả năng cho phép, tôi đi tìm - nhưng mãi sau này tôi mới khám phá ra điều đó - lời giải đáp của thánh Tôma trong phần người bênh vực các dòng tu trước các Thầy triều hồi thế kỷ XIII. Nói theo Guillaume de Tocco, trong tự thuật của ông, vấn đề là nhằm chứng minh rằng người ta có thể tìm được ơn cứu độ trong một Dòng hoàn toàn dấn thân cho việc học hỏi bằng chiêm niệm, studium contemplationis, cho bổn phận của một cuộc đời chiêm niệm hay không.
Như vậy, kinh nghiệm tôi chia sẻ ở đây là kinh nghiệm của một nhà thần học, và những dòng này mang chiều kích đó nhiều hơn : trước hết, xin được gửi đến những người đang chia sẻ kinh nghiệm này, cho dù là ở những cấp độ khác nhau, mới bắt đầu học thần học hay đã thâm niên nghiên cứu hoặc giảng dạy. Nhưng tôi cũng có lý để tin rằng kinh nghiệm này không hề giới hạn cho người chuyên môn hay cho người đã sống kinh nghiệm này, vì nó động chạm đến một vấn đề luôn luôn có tính cách thời sự trong Ki-tô giáo, nơi mà việc đào luyện trí tuệ thường bị xem là khả nghi. “Giữa Athènes và Giêrusalem có điểm nào chung nhau ?” Chỉ cần nhớ lại lời than thở của Tertullien ấy khắc biết. Vậy, có cần phải chối từ trí tuệ để sống đức tin không ? Khi phong thánh cho Tôn Sư Tôma - và một số người trí thức khác - Hội Thánh cho thấy là không nhất thiết phải chọn một trong hai như thế.
Xác định thứ hai nhằm cho thấy rõ hơn nguồn mạch tôi muốn nói là gì. Khung cảnh tổng quát của bài này là khung cảnh thần học của thánh Tôma, và muốn nói lên niềm xác tín rằng linh đạo không phải là một cái gì thêm vào thần học - như các hệ luận đạo đức của các thủ bản tu đức thường cho thấy - nhưng đó đúng là một chiều kích nội tại trong chính việc học tập, nghiên cứu và giảng dạy thần học. Nói thế có nghĩa là nghiên cứu thần học theo tinh thần của vị Thầy Aquinô giúp cho có được một số lập trường triết học và thần học nền tảng nào đó, rồi khởi đi từ đó, ta thủ đắc được một cách thức nào đó để nhận thức Thiên Chúa và thế giới, rồi dần dần khai triển thành một thái độ của tinh thần. Đó là một thái độ mà sử gia hiện đại có thể gọi là nếp suy nghĩ, là “tâm thức”. Nhưng tôi nghĩ rằng nếu có gọi đó là một “linh đạo”, thì vẫn thích hợp. Quan niệm như thế về thần học rất khác với khởi hứng của thánh Augustinô : “Tôi muốn nhìn thấy bằng trí tuệ điều mà tôi hiểu nhờ đức tin” (De Trinitate, XV 28, 51), và với thánh Anselmô : “Tôi muốn hiểu ít là một chút chân lý của Ngài, chân lý của Ngài mà lòng tôi tin và lòng tôi yêu mến.” (Proslogion 1). Theo ngôn ngữ chuyên môn hơn, thánh Tôma nói về sự hoán chuyển (subalternation) trong nghiên cứu thần học từ đức tin đến hiểu biết về Thiên Chúa và về các phúc nhân; nhưng suy ra, nơi thánh Tôma cũng như nơi những bậc tiền bối, nỗ lực của nhà thần học hoàn toàn được đặt trong ánh sáng này và sự hiểu biết của nhà thần học có một chỗ đứng trên lộ trình đi từ đêm tối của đức tin đến chỗ sáng tỏ của phúc kiến. Ở đây, thánh Tôma nói rõ : “Mục đích tối hậu của giáo thuyết này chính là sự chiêm niệm chân lý đệ nhất trong Nước Trời.” (I Sent., Prol., a. sol. 1 ; xc. ad 1).
Cái nhìn chiêm niệm này - ta đừng bao giờ quên mất bối cảnh chung này, ngay cả trong những khía cạnh chuyên môn nhất của việc tìm kiếm nhằm chứng minh - là cái nhìn duy nhất có thể giải thích rằng nhà thần học càng tiếp cận được trọng tâm của vấn đề, và khi tiến trình này được thực hiện với tính đòi hỏi cao, thì chính cái tính tôn giáo của những nỗ lực mà ông thực hiện càng gia tăng. Nếu như thánh Tôma không bao giờ cho thấy là cần phải khai triển một nền thần học tâm linh bên cạnh nghiên cứu thần học của mình, thì đơn giản là vì chính thần học đã là một khoa học “thuộc về đạo đức”, như cha Chenu vẫn thích nói như thế. Vấn đề là người muốn học và nghiên cứu thần học theo tinh thần ấy không bao giờ được quên cái trực giác nguyên khởi này, và mỗi ngày phải mỗi tiến sâu trong đó hơn. Nếu trực giác ấy tiếp nối trong “thực hành” - và chính khi đó nó trở thành “thần học tâm linh” - thì chính nó vừa là chuyên biệt lại vừa là thực tiễn. Trước tiên nó mang tính chuyên biệt, tức là chiêm niệm, bởi vì chỉ có một mình Thiên Chúa là đối tượng, theo nghĩa chặt; nhưng nó cũng mang tính thực tiễn theo nghĩa loại suy, bởi vì nhà thần học có trách nhiệm xem xét và hướng hoạt động của con người theo cách thức để hướng nó trở lại với Thiên Chúa.
Khổ chế của công việc trí tuệ
Khi tôi nói đến khổ chế của công việc trí thức, thì chúng ta cũng hiểu đó không phải là vấn đề xem khổ chế của đời sống học hành nghiên cứu ngang bằng với thánh giá. Đối với những người ước ao thực hiện việc khổ chế này, hoặc sống đời sống học hành nghiên cứu do nghề nghiệp, thì đó là một trong những yếu tố vốn thuộc về những điều phải từ bỏ mà bất cứ ai muốn theo Chúa Kitô đều phải chấp nhận. Nhưng cũng đừng bi kịch hoá. Trái lại, cần nói thêm là sự khổ chế đó có kèm theo một niềm vui đích thực. Đó không phải là niềm vui ngang trái, đầy kiêu căng, vốn xuất phát từ thái độ tự mãn của người biết có thể đạt cho đến cùng tất cả những khó khăn trong việc học hành nghiên cứu. Càng không phải là niềm vui xuất phát từ niềm thoả mãn hợp lý khi người ta đã hoàn thành việc bổn phận. Chẳng cần phải dấn thân học tập cũng có thể có những niềm vui như thế. Nhưng đây chính là niềm vui của nhân đức vốn đạt được từ chuyện là công việc của chúng ta đã được hoàn tất vừa thể hiện sự thuần thục mang tính kỹ thuật, lại vừa thể hiện tình yêu của đức bác ái, để chúng ta tìm thấy trong đó một niềm vui vốn thuộc về nhân đức.
Nhưng đừng lẫn lộn việc học với đức ái. Các nhân thủ đắc được từ việc nghiên cứu và những nhân đức luân lý hoặc đối thần không giống như nhau. Nhưng vì tất cả hình thành nên một sự thống nhất nơi chủ thể hành động, nên những ai nhờ khổ chế của công việc trí tuệ mà đạt tới chỗ làm chủ (ít là tương đối) những công cụ của mình và làm chủ lãnh vực làm việc của mình, đồng thời không quên vun trồng các nhân đức của Tin Mừng, thì người ấy bình thường sẽ thấy niềm vui khi học hành. Chính thánh Tôma nói : “Bảo rằng các hành vi được hoàn thành một cách nhân đức tự nhiên là đáng vui thì không đủ. Cần phải thêm là sự vui thích mà người ta có khi đó nhất định thuộc về nhân đức. Người ta sẽ chẳng được xem là tốt lành, cũng như chẳng nhân đức, nếu như người ta không tìm thấy niềm vui của mình khi hành động tốt.” (về Éthique à Nicomaque 1, 13). Dĩ nhiên điều đó cũng áp dụng cho đời sống trí tuệ, và thánh Tôma đã hiểu rất rõ điều đó đến nỗi không những người đã đặt một nhân đức để chủ trì việc thao luyện đời sống trí tuệ : đức hiếu học (studiositas : xc. Summa Theologiae, IIa-IIae, q. 166 ; nết xấu đối nghịch là : tính tò mò (curiositas, q. 167), nhưng người còn nhiệt tình bênh vực sự hiện hữu của một Dòng tu dấn thân cho việc học hành nghiên cứu, tức là Dòng Anh Em Thuyết Giáo, Dòng của người (Summa Theologiae, IIa-IIae, q. 188, a. 5). Người cho sự hiện hữu đó là thích hợp. Như vậy, qua việc khổ chế ta đang nói đây, ta có được niềm vui thuộc riêng về đức hiếu học.
Việc khổ chế trí tuệ có ở nhiều cấp độ khác nhau, và cấp độ trước tiên, mà ai cũng thấy được ngay, đó là cấp độ của nỗ lực, của việc áp dụng cần thiết để đạt được kết quả. Thánh Tôma, khi nghĩ rằng việc học hành nghiên cứu cũng giống như ước muốn tự nhiên của chúng ta muốn hiểu biết, đã cho rằng cần phải điều chỉnh ước muốn này hơn là kích thích nó, và phần vất vả trong công việc nặng nhọc của việc nghiên cứ chỉ có tính cách phụ. Khi đó là chính thánh nhân nói, chúng ta dễ dàng hiểu điều đó; còn về phần chúng ta, chúng ta thường có kinh nghiệm trái ngược. Công việc trí tuệ - là công việc, là lao động thật sự chứ không phải chỉ là việc đọc sách, không hơn không kém, lôi cuốn hoặc làm chúng ta thích thú - quả thực là một cái gì đó đòi hỏi vất vả. Khi ta thủ đắc các qui tắc và phải học tất cả, bắt đầu từ các ngôn ngữ, cổ ngữ hay sinh ngữ, và tiếp theo là một phương pháp tối thiểu phải có, khi ta học hỏi nghiên cứu một đề tài khó chưa biết, hay khi vì bổn phận ta phải học hỏi nhiều cái cùng một lúc, và soạn một loạt các bài thi cử, giáo trình, tiểu luận… bấy giờ ta sẽ biết thế nào là sự đòi hỏi, là sự vất vả của việc lao động trí tuệ. Nhưng - ta cũng thấy ngay - vì hoạt động cách tự nhiên và dễ dàng là hoa quả của một cuộc chinh phục lâu dài, công việc vất vả này là nguồn, ở tận nguồn mạch của một sự thoải mái có kèm theo niềm vui của tinh thần và có thêm cả sự tự do thênh thang bát ngát nữa. Quả là thích hợp khi nhắc lại ở đây từ ngữ của Maurice Béjart giải thích rằng sự tự do trong nghệ thuật “ở bên kia kỷ luật chứ không phải ở bên này”, nhờ đó, ông tiếp : “[nghệ thuật nhảy muá] chính là đứng và làm gì cũng được, nhưng phải trải qua hai mươi năm khổ luyện đã.”
Thời gian đầu, ngoài lao công vất vả, việc khổ chế còn hệ tại ở chỗ mình không có đủ thời gian để đào sâu như mình muốn về nhiều vấn đề mình vẫn còn biết sơ sài. Có nhiều trường hợp như thế và tất cả những ai thực hành một nghề nào đó trong lãnh vực trí tuệ đều đã trải qua kinh nghiệm này. Tôi tưởng có thể nói rằng trong thời đầu phải lưu ý để đừng hy sinh cái gì và, như thánh Têrêsa thành Lisieux, chọn “tất cả”. Vì nếu người ta không học một số điều trong những năm học nghề, thì người ta sẽ chẳng bao giờ học được cả. Khi cái chuyên môn tăng lên, sẽ có nhiều chất liệu biến mất khỏi phạm vi của chúng ta. Nếu đó lại là phạm vi tôn giáo và nếu ta nghĩ đến sự thống nhất giữa đức tin với thần học, thì điều đó thật là đáng tiếc. Đó là không kể đến chuyện là những nhu cầu mục vụ thường buộc phải nói về một số đề tài vượt quá khả năng chuyên môn đúng nghĩa của ta, và vì thế mà phải biết ít là một vài khái niệm nào về những đề tài ấy. Không muốn đề cao một thứ khả năng giả tạo vốn có nguy cơ là che giấu một khả năng thực sự là kém cỏi, tôi xin nói là trong một thời khắc nào đó của đời sống trí tuệ, cần phải có một gian đoạn mà trong đó người ta có thể thủ đắc một sự hiểu biết tổng quát. Chuyên môn sẽ tới sau. Ngoài sự miệt mài làm việc, sự khổ chế ở đây sẽ mang khuôn mặt của một thái độ biết làm việc kiên bền.
Thời gian rèn luyện sự kiên trì lâu dài không dừng lại ngay cả khi người ta đã có nhiều tiến bộ. Anh có thể trở thành một người làm việc theo thói quen. Nhưng không nên chỉ trích thói quen. Có nhiều điều người ta làm theo thói quen, và thậm chí có nhiều điều chỉ có thể làm được nhờ có thói quen - hoặc đúng hơn là nhờ có “habitus” ! (người ta nhận ra rằng thánh Tôma dùng từ này để chỉ khả năng siêu vượt xuất phát từ việc thực hành cao độ một khoa học hoặc một nghệ thuật nào đó, khiến cho người sở đắc cái “habitus” đó để thực hiện được nhiều điều một cách dễ dàng mà những người khác không thực hiện được). Như thế, khổ chế bình thường hiểu là chu toàn một bổn phận thuộc về bậc sống của mình : khai phá những lãnh vực mới, nhưng cũng còn là soạn bài giảng dạy, hướng dẫn các công việc, đọc sách… Nhưng như thế có gì là chuyên biệt, là dành riêng cho nhà thần học ! Tất cả mọi giảng viên và nhà nghiên cứu trong mọi lãnh vực đều có những kinh nghiệm như thế và tất cả mọi ngành nghề đều biết đến những gò bó của chuyên ngành. Ta sẽ không nói được về khổ chế theo tinh thần Kitô giáo bao lâu công việc chỉ được quan niệm như là một bổn phận bó buộc, không làm không được, đau khổ mà làm, hoặc động lực thúc đẩy làm là vì háo danh, vì muốn tạo sự nghiệp… Dĩ nhiên, những điều ấy không có gì là xấu, chỉ có điều là không đi vào hướng đi của một đời sống trí tuệ do ơn gọi tu trì thúc đẩy, ơn gọi Đa-minh chẳng hạn. Đúng hơn, trong trường hợp này, nguy cơ sẽ là coi mọi chuyện một cách chẳng ăn nhập gì với đời sống của mình, và sống một cuộc đời trí thức kiểu tay chơi, tài tử. Hẳn nhiên thời gian được ban cho chúng ta để đến lượt chúng ta lại cho đi. Và trái với tiền bạc, để cho đi mà không đếm được, không tính được số lượng. Nhưng bổn phận sử dụng thời giờ của chúng ta để thực hiện các trách nhiệm của chúng ta cho tốt hơn không vì thế mà ngừng lại. Thánh nữ Têrêsa Avila nói với con cái của bà rằng : “Không được ăn bánh của người nghèo mà không kiếm lại bánh.” Con cái của bà đã kiếm lại bánh bằng việc cầu nguyện của họ. Chúng ta có thể kiếm lại bánh bằng việc chăm chỉ học hành chiêm niệm (studium contemplationis), nỗ lực vươn tới sự chiêm niệm là cùng đích mọi hiểu biết của chúng ta. Việc khổ chế trong lao động của chúng ta không được trở thành một thứ thần bí lao động, nhưng phần tốt nhất không phải lúc nào cũng là phần dễ nhất.
Chúng ta giả định là người ta đã đạt được tính sự chăm chỉ trong công việc rồi, bấy giờ sự khổ chế đúng nghĩa của việc nghiên cứu, viết lách, khám phá ra những điều mới và xuất bản các tài liệu sẽ tới. Nếu như việc trở nên một người, một viên giám học lương thiện hay làm một người phổ biến khoa học tài ba, là điều tương đối dễ, thì việc rời bỏ những lãnh vực đã chiếm lĩnh được, việc vượt qua những sự hiểu biết đã có cho tới lúc này, việc gia tăng phạm vi những dữ kiện có sẵn trong chuyên môn của chúng ta, hoặc thậm chí không muốn đi xa hơn để phản ứng đối lại với điều chung chung đã được chấp nhận hoặc đối lại kiểu hoà hợp dễ dãi, là điều khó hơn nhiều. Việc nghiên cứu của cá nhân muốn tiến xa không chỉ đòi phải thủ đắc một khả năng chuyên môn đến nơi đến chốn, mà còn phải có một sự đầu tư đáng kể năng lực và thời giờ. Nó đòi phải có những hy sinh lớn, và đôi khi có thể nói là phải có những cắt xén nữa, đó là khi nói về những sự giải trí, những tương quan với những người khác, và nhiều chuyện khác nữa - dĩ nhiên là những sự giải trí hay tương quan kia không những không có gì là xấu mà lại còn làm cho cuộc đời thêm tươi nữa - nhưng vẫn cứ phải biết từ chối “vì lòng yêu mến Chúa Giêsu và Tin Mừng.”
Đúng, “vì lòng yêu mến Chúa Giêsu và Tin Mừng”, tôi không sợ phải nói như thế, vì theo điều chúng ta vừa nêu trên, không phải tôi tìm kiếm điều tuyệt vời này cho tôi. Nếu như tôi có tìm được trong đó một vài phù phiếm mau qua, thì điều tôi mong muốn trước tiên vẫn là phục vụ Chân Lý. Những đòi hỏi này sẽ không hệt như nhau cho mọi người và cho mỗi người, nhưng chắc chắn là mỗi người đều gặp phải những đòi hỏi này theo cấp độ của riêng mình. Nếu “tình cờ”, tôi muốn nói là nếu “chẳng may”, chúng ta đã đạt tới cái tuổi được xem là trưởng thành rồi mà chúng ta vẫn chưa nhận thức được những đòi hỏi này, thì thời gian cần để mở mắt mở tai có lẽ sẽ là lớn lắm đấy ....
Điều không làm nên hạnh phúc
Cho tới đây, chúng ta chỉ mới khơi lên những qui luật tổng quát của đời sống trí tuệ và những từ bỏ do đời sống đó đòi hỏi. Với những thích nghi cần thiết, những qui luật tổng quát đó có thể áp dụng vào nhiều lãnh vực khác hơn là chỉ vào thần học. Nếu muốn nói một cách chuyên biệt hơn, phải thử nói đến điều mà việc áp dụng nỗ lực này mang lại cho đời sống tâm linh với một chủ đề rõ ràng. Điều này chỉ có thể là rất ngắn gọn và mang tính gợi ý, nhưng nơi thánh Tôma, có hai lãnh vực đặc biệt vốn có thể minh chứng cho điểm này : sự hiểu biết Thiên Chúa bằng phương pháp phủ định sẽ có thể đưa chúng ta đi quá xa, nên không thể khai triển ở đây được; Nhưng có thể lấy việc đi tìm định nghĩa cho hạnh phúc làm ví dụ. Nhưng trong cả hai trường hợp, sự giống nhau về cấu trúc cũng đáng lưu ý - Tiến trình diễn tiến dần dần từ phủ định này sang phủ định khác, và như thế là chính khi khi loại bỏ dần được những gì không phải là thực tại mà ta đang tìm kiếm, thì việc khổ chế trí tuệ trở thành lộ trình tâm linh.
Rõ ràng thánh Tôma coi hạnh phúc của con người hệ tại việc hưởng kiến Thiên Chúa. Không phải thánh Tôma là người nghĩ ra điểm độc đáo này vì người khai triển ý tưởng đó từ niềm tin của mình, và nhất là căn cứ vào lời thánh sử Gioan nhắc đi nhắc lại : “Sự sống đời đời là họ nhận biết Cha” (Ga 17,3), hoặc chỗ khác : “Chúng ta sẽ giống như Người, vì chúng ta sẽ thấy Người như Người là” (1 Ga 3,2). Như vậy, nhà thần học không cần phải chứng minh điều đó, nhưng cần phải xác định một cách thần học, nghĩa là chứng minh làm thế nào người ta có thể dùng lý luận mà đạt tới kết luận này.
Ở hậu cảnh, ta gặp thấy hoàn cảnh lịch sử của hữu thể con người. Thánh Tôma đã nhắc nhở rằng khác với các thiên thần, những vị được Thiên Chúa ban cho đạt tới tình trạng hoàn hảo ngay tức khắc, con người phải trải qua con đường dài hơn để đến hưởng hạnh phúc. Đó là một trong những điều hiển minh chi phối Phần thứ hai của Bộ Tổng Luận Thần Học : con người có cả một lộ trình tâm linh phải trải qua để đạt đến Thiên Chúa, và vì con người không thể lên đường nếu không biết mình phải bước đi hướng về mục đích nào, cho nên phải bắt đầu bằng việc tìm xem mục đích tối hậu là cái gì. Như vậy, hạnh phúc được nói đến đây là vô cùng lớn lao so với cái hạnh phúc ít nhiều bàng bạc hoặc mãnh liệt mà ai cũng mơ ước. Hữu thể con người bị thúc đẩy và lôi cuốn bởi hạnh phúc ấy đến độ ước muốn mà con người có - ước muốn của bản tính muốn được nhìn thấy Thiên Chúa, để được gọi tên của người - được đồng hoá với tính quy hướng đích thực, như tính quy hướng của cây cỏ hướng về nơi có ánh sáng. Như thế, đó không phải là một công trình trong số nhiều công trình, nhưng đúng là công việc duy nhất rốt cuộc là đáng kể và tuyệt đối quan trọng đến độ không thể bỏ qua.
Do đó, đối với nhà thần học đang cố gắng để ý tới điều đó, thì yêu cầu thiết yếu là phải phân biệt điều thiện hảo này một cách chính xác nhất. Theo phương pháp rất quen thuộc của mình, thánh Tôma tiến hành theo phương pháp phủ định tiệm tiến : để biết hạnh phúc thật này hệ tại điều gì, cần phải biết nó không hệ tại điều gì. Cũng như khi thánh nhân bàn về Thiên Chúa, không phải là không biết gì về Thiên Chúa cho bằng biết cái không phải là Người. Ít ra phải tránh đồng hoá Người với cái không phải là Người. Vì thế, cần phải lần lượt bỏ đi những gì «không phải là hạnh phúc». Sau những cố gắng đầu tiên trong Bộ Khảo Luận Sententiae, khi mà người còn bị ràng buộc bởi những luật lệ chú giải, thánh Tôma đã viết ra hai bản văn nói về cách thức lập luận của ngài : một bản trong Summa contra gentiles có tính giải thích rõ hơn (IIIa, 27-36), và một bản khác trong Summa Theologiae có tính cô đọng hơn (Ia-IIae, q. 2, aa. 1-7). Thứ tự của bản văn thứ hai xem ra chặt chẽ hơn, nhưng cách thức khai triển và ý nghĩa chỉ là một.
Trước tiên, không phải những thiện hảo ngoại tại làm nên hạnh phúc. Đó không phải là của cải tự nhiên hay do con người làm ra. Của cải nhằm phục vụ con người chứ không phải ngược lại. Cho nên của cải không phải là cùng đích của con người. Làm tôi của cải, đó chính là đảo lộn trật tự tự nhiên của sự vật, là vong thân. Hạnh phúc càng không phải là danh dự : danh dự quả là dấu hiệu và là bằng chứng của một sự tuyệt vời vốn đã ở trong con người đáng được kính trọng. Danh dự không tạo nên con người ấy, nhưng tất yếu là nó phải đi với con người ấy. Theo đó, hạnh phúc là sự tuyệt vời tối hậu, nhưng không phải danh dự là cái làm nên hạnh phúc. Vinh quang hay danh thơm tiếng tốt cũng chẳng phải là cái làm nên hạnh phúc tối hậu. Việc người khác nhận biết các công trạng của ta không thêm gì cho giá trị của ta. Nhưng việc nhận biết Thiên Chúa thì lại khác, bởi vì đó là căn nguyên của hạnh phúc thật của ta. Rồi xét cho cùng, vinh quang nhận được từ con người thường dễ làm cho người ta lầm lẫn … Sau hết, hạnh phúc không thể là quyền lực : quyền lực không phải là một mục đích, mà đúng ra là một nguyên lý hành động, một phương tiện và tệ hơn nữa, thường người ta hay sử dụng quyền lực theo hướng xấu. Khi đó, quyền lực là tai hoạ thay vì là hạnh phúc.
Như thế, không phải của cải, chẳng phải danh dự, không phải vinh quang, cũng chẳng phải quyền lực, chẳng có sự thiện ngoại tại nào là hạnh phúc tối hậu cả. Vậy phải chăng hạnh phúc ở trong những thiện hảo nội tại ? Thánh Tôma lại theo một kiểu biện chứng như trên để loại đi không thương tiếc tất cả những cái thoạt nghĩ thì là hạnh phúc nhưng thực ra thì không phải. Đó không phải là những thiện hảo của thân thể, vì những thiện hảo đó giúp duy trì sự sống, sức khỏe, nhưng không phải là thiện hảo tự thân. Ngay sự sống không được làm nên để giữ lấy, được duy trì nguyên trạng (dầu đây cũng là một thiện hảo, nhưng thuộc loại thường), nhưng để sử dụng nhằm đạt tới mục đích thật mà ta đang tìm kiếm. Hạnh phúc thật càng không phải là những khoái cảm của thể xác, như người ta thường nói đó là những thú vui : trước hết, vì nó gắn liền với nhận thức khả giác và khởi xuất từ những thiện hảo thấp kém hơn nó, thứ đến là vì thú vui là cái có sau khi người ta đã chiếm hữu được điều thiện hảo mà người ta thích thú, và vì thế mà nó không làm nên thiện hảo này được.
Sau khi đã loại bỏ loạt thiện hảo đầu tiên, tức là những thiện hảo của thân xác, còn cần phải nêu ra những thiện hảo của linh hồn. “Thiện hảo” đúng nghĩa được hiểu là chính thực tại mà ta coi là mục đích tối hậu. Câu trả lời của thánh Toma cũng lại theo hướng đi loại bỏ dần dần : “Chính linh hồn hoặc một cái gì đó của linh hồn cũng không thể là mục đích tối hậu được”. Dễ hiểu thôi : linh hồn là một thực tại trong tiềm thể, vì trong tiềm thể về hiểu biết hay về nhân đức, cho nên linh hồn đòi phải tiến sang hiện thể để đạt tới mức thành toàn. Vậy mà điều gì còn trong tiềm thể thì không thể nào có tính cách của mục đích tối hậu được. Nếu đã không phải là linh hồn, thì lại càng không thể nào là một thiện hảo nào khác của linh hồn được, bởi vì hạnh phúc phải có tính cách tuyệt đối hoàn hảo và đầy đủ để có thể thoả mãn được ước muốn tự nhiên đối diện với nó. Trong trường hợp này, không thiện hảo thông dự nào có dính dáng với bản tính của linh hồn lại có thể là hạnh phúc tối hậu được.
Tuy nhiên, từ “cứu cánh” lại hàm một nghĩa khác : thay vì diễn tả sự thiện được người ta theo đuổi, nó có thể diễn tả sự chiếm hữu được sự thiện này, tính sở hữu của nó hoặc cách thức mà linh hồn sử hữu nó, và, theo nghĩa này, hạnh phúc là một thiện hảo của linh hồn. Thánh Tôma tóm tắt : Hạnh phúc hệ tại chính thực tại được ước muốn như là cùng đích. Chính thực tại đó làm cho hạnh phúc. Sở hữu thực tại này chính là hạnh phúc. Vậy ta có thể kết luận : hạnh phúc là một cái gì đó của linh hồn, nhưng điều mà nơi đó hàm chứa hạnh phúc lại là một cái gì đó ở ngoài linh hồn (Ia-IIae, q. 2, a.7, cùng kết luận này được nhắc lại ở ad 3 : “Chính hạnh phúc, vì là sự hoàn hảo của linh hồn, là một sự thiện gắn liền với linh hồn. Nhưng điều mà nơi đó hàm chứa hạnh phúc chính là điều làm cho người ta thành phúc nhân, cái đó ở ngoài linh hồn”).
Theo tiến trình này, chúng ta còn một việc cuối cùng phải làm, đó là cần rút ra một kết luận:
Hạnh phúc phải là một sự thiện toàn hảo, có khả năng làm cho thôi không còn ước muốn nữa, vì nếu vẫn còn cái gì đó để ước muốn, thì hạnh phúc đó chưa phải là cùng đích tối hậu. Vậy, đối tượng của ý chí, khả năng ước muốn của con người, là sự thiện phổ quát, cũng như đối tượng của trí năng là sự thật phổ quát. Do đó, không gì có thể làm nguôi ý chí của con người ngoài sự thiện phổ quát, sự thiện mà không thấy thể hiện ở nơi một thụ tạo nào, nhưng chỉ nơi Thiên Chúa mà thôi, vì mọi thụ tạo chỉ có sự thiện thông dự. Như vậy, chỉ có Thiên Chúa mới có thể thoả mãn ý chí của con người, như lời Thánh vịnh (102, 5) : “Chính Người [Thiên Chúa] sẽ cho bạn được phỉ chí toại lòng.” Cho nên chỉ ở nơi Thiên Chúa mới có hạnh phúc của con người mà thôi (Ia-IIae, q. 2, a. 8).
Yêu cầu của trí tuệ và tầm quan trọng thiêng liêng
Khỏi cần phải dài dòng thêm : ta đã đi từ các sự thiện ngoại tại của con người đến các sự thiện thể lý, từ các sự thiện thể lý đến các sự thiện thâm nội, từ các sự thiện thâm nội đến chính Thiên Chúa. Phương pháp phủ định tiệm tiến này làm ta liên tưởng, hơn một lần, tới thánh Gioan Thánh Giá hoặc các Lão phụ sa mạc. Đó chính là luật từ bỏ toàn diện nhất nhằm đạt tới sự thiện độc nhất. Ở đây ta nhận thấy giá trị tâm linh của đòi hỏi trí tuệ. Khi xác định đối tượng tìm kiếm để tránh mọi hàm hồ, đồng thời ta lại khám phá thấy những lựa chọn dần dần chỉ cho người đang đi tìm Thiên Chúa nhận ra con đường dẫn đưa tới Người. Cũng cần phải nhắc đến ước muốn, nhưng lần này thì ước muốn được thoả mãn. Ước muốn tự nhiên hẳn là một cái đà bí mật nâng đỡ tất cả hành trình đi tìm hạnh phúc của con người. Cho dù vẻ bề ngoài của tất cả những gì nó xa lánh mang tính tiêu cực, nhưng chính nó lại khiến cho thánh Tôma đưa ra đưa ra ở đây một lộ trình có tích cực có định hướng. Một lộ trình không trái ngược với bản tính, nhưng trái lại đi tìm sự thiện duy nhất của nó, sự triển nở trọn vẹn của nó. Chính khổ chế triển nở trong niềm vui và tự do.
Nếu chúng ta có thể lấy suy nghĩ về sự nhận biết của con người về Thiên Chúa làm thí dụ thứ hai, thì sự việc sẽ sáng tỏ về khía cạnh thiêng liêng. Chính sự nghiêm ngặt của phép biện chứng phủ định tiệm tiến như trên đã là một thứ khổ chế riêng. Nhà thần học được mời gọi không chỉ vượt qua trong trong nỗ lực của trí tuệ, nhưng còn phải biết khước từ những gì người ấy nghĩ là mình biết. Các giai đoạn trong tiến trình này gồm nhiều cấp độ đi lên trong con đường dẫn tới Thiên Chúa. Như bất kỳ người tín hữu nào, nhà thần học phải từ bỏ các ngẫu tượng để quay về với Thiên Chúa hằng sống (xc. Cv 14, 14), nhưng nhà thần học còn phải khước từ những công trình do tâm trí mình nghĩ ra, tức là các ngẫu tượng của riêng mình.
Chính từ hoạt động này mà thánh Tôma kêu gọi khi thánh nhân phân biệt việc chiêm niệm của các triết gia với việc chiêm niệm của Kitô giáo. Việc cầu nguyện luôn luôn gặp cám dỗ ngừng lại ở niềm vui của một sự nhận biết đơn thuần (khi đó việc cầu nguyện được thúc đẩy do lòng vị kỷ). Thứ nữa, việc chiêm niệm của các thánh, hoàn toàn được thúc đẩy bởi tình yêu của đức bác ái đối với Chân Lý về Thiên Chúa, được kết thúc ở chính đối tượng. Một cách hoàn toàn khách quan, theo nghĩa là chính đối tượng chi phối diễn tiến, việc đi lên bằng cách loại bỏ dần dần này đòi hỏi chủ thể đang tìm kiếm phải từ bỏ tùy theo mức độ của sự sung mãn sẽ làm cho người ấy được thoả mãn. Như vậy, việc thực hành thần học được coi như là một trường dạy đời sống thiêng liêng và khổ chế đi kèm theo, cuối cùng, đưa tới sự “tự do của vinh quang của các con cái Thiên Chúa.”