Đức Khó Nghèo Vì Nước Trời
Phần V: Nghèo Khó Tông Đồ Trong Cộng Đoàn Tu Trì
Đối với chúng ta, những nam nữ tu sĩ, sống đời khó nghèo Phúc âm nhất thiết gắn liền với những nhu cầu cấp thiết của sứ vụ truyền giáo. Khi loan báo Vương Quốc mà ta không thực hành những giá trị về tình huynh đệ, về tình liên đới với người nghèo thì chẳng ai tin chúng ta. Sự chọn lựa vì Tin mừng của chúng ta xuất phát từ quan điểm của những người nghèo và túng thiếu không thể trở thành hiện thực nếu chọn lựa ấy được thực hiện trong bối cảnh của những tình trạng và những cấu trúc kinh tế vốn không dễ hiểu hoặc có thể làm thiệt hại cho phương thức phê bình Tin mừng, vì chúng không chỉ tác động đến cộng đoàn, mà còn đến mỗi thành viên của cộng đoàn nữa.
1. “Sự khó nghèo của chúng ta là khó nghèo mang tính tông đồ”
Đức khó nghèo Phúc âm mang nhiều chiều khích khác nhau: chiều kích huyền nhiệm, qua đó Thiên Chúa được nhìn nhận như sự thiện duy nhất của chúng ta, còn tất cả những của cải khác là tương đối (nghèo khó là tinh thần tin cậy nơi Thiên Chúa). Chiều kích cộng đoàn, qua đó chúng ta nhắm đến việc xây dựng cộng đoàn, mọi sự là của chung. Chiều kích sinh thái, qua đó mối liên hệ đích thực giữa sự thán phục và thiên nhiên được hình thành và củng cố. Và chiều kích tông đồ vốn đâm rễ trong việc xác tín rằng sự khó nghèo phù hợp với lối sống của Đức Giêsu và các tông đồ là thái độ thích hợp nhất để loan báo Nước Thiên Chúa đến. Trong tất cả các chiều kích trên, chúng ta đặc biệt nhấn mạnh đến chiều kích sau cùng. Đức Giêsu đã nói với các tông đồ:
“Dọc đường hãy rao giảng rằng: Nước Trời đã đến gần. Anh em hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho người phong hủi được sạch bệnh, và khử trừ ma quỷ. Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy. Đừng sắm vàng bạc, hay tiền đồng để giắt lưng. Đi đường, đừng mang bao bị, đừng mặc hai áo, đừng đi giày hay cầm gậy. Vì thợ thì đáng được nuôi ăn” (Mt 10,7-10).
“Đức Giêsu gọi nhóm Mười Hai lại và bắt đầu sai đi từng hai người một. Người ban cho các ông quyền trừ quỷ. Người chỉ thị cho các ông không được mang gì đi đường, chỉ trừ cây gậy; không được mang lương thực, bao bị, tiền giắt lưng; được đi dép, nhưng không được mặc hai áo” (Mc 6,7-9).
Theo nguyên tắc truyền giáo Đức Giêsu đã đặt ra cho những kẻ theo Ngài, Ngài không cho phép họ mang theo hành lý tối thiểu, nhờ thế dù là những người sống ở vùng nông thôn nghèo nhất cũng sẽ tin lời họ. Đức Giêsu đã yêu cầu người loan tin phải đặc biệt làm chứng cho Tin mừng họ rao giảng: “Ngay cả vẻ bề ngoài của người loan tin cũng phải đồng nhất hoá với Tin mừng của “ân sủng” và “bình an” mà họ loan báo và công bố. Đồng thời người loan tin phải hoàn toàn từ bỏ chính mình để phó thác cho sự quan phòng của Chúa Cha, Đấng chăm sóc và bảo vệ những ai chỉ tìm kiếm Vương Quốc và sự công chính của Ngài mà thôi”.[1] Thánh Anthony Mary Claret đã chú giải câu “đừng sắm vàng bạc hay tiền đồng để giắt lưng” trong Mt 10,9 như sau:
Đấng Cứu thế của chúng ta muốn và đòi hỏi như vậy để các tông đồ, thoát khỏi mọi mối bận tâm và trông cậy vào sự quan phòng của Thiên Chúa, dấn thân trọn vẹn cho tác vụ Tin mừng, làm cho lời rao giảng của họ tăng thêm sức thuyết phục do việc không dính bén đến của cải trần gian, ngõ hầu thu hút và lôi kéo người ta đến với Đức Giêsu Kitô. Quả thực, không có gì thuyết phục người khác chấp nhận và làm theo giáo huấn Tin mừng hơn là nhìn thấy gương của các thừa tác viên, những người tìm kiếm tâm hồn những người nghe họ chứ không mưu cầu của cải và lợi ích cho họ.[2]
2. Đời sống và công việc được hình thành do tinh thần nghèo khó
Tinh thần nghèo khó, như chúng ta vừa suy ngẫm, cần thấm nhuần toàn bộ đời sống và hoạt động của mỗi người và mỗi cộng đoàn của chúng ta. Tinh thần ấy một mình ta không thể đạt được. Để có được tinh thần nghèo khó, điều cần thiết là Thiên Chúa ban cho chúng ta tâm hồn nghèo khó. Đức khó nghèo Phúc âm là một đoàn sủng vốn hình thành và làm cho đức khó nghèo Phúc âm nên phong phú theo một chiều kích đặc biệt. Đó là ân sủng thiết yếu nhất mà chúng ta phải không ngừng cầu xin Thiên Chúa. Tinh thần nghèo khó đưa chúng ta đến việc đồng hoá chính mình với sự tự hủy của Đức Giêsu, đến việc thông dự vào sự khiêm hạ và lòng tin tưởng phó thác của Đức Maria, và để cảm được một tình yêu huynh đệ đặc biệt và ưu tiên dành cho những người anh em vốn bị phân biệt đối sử và bị đàn áp nhất. Đó là tình yêu của Thiên Chúa, Thần Khí của Thiên Chúa được đổ tràn vào lòng chúng ta, mà làm cho chúng ta nghèo trong Thần Khí.
Một khi đã lãnh nhận ân sủng, chúng ta phải cộng tác với ân sủng ấy. Chúng ta phải cố gắng nhận ra điều này, rằng cuộc sống và hoạt động của chúng ta được thấm nhiễm đoàn sủng khó nghèo. Đoàn sủng ấy biến đổi chúng ta, làm cho Tin mừng trở thành hiển hiện nơi bản thân chúng ta, nơi những hoạt động của chúng ta cũng như nơi cộng đoàn chúng ta, biến đổi cộng đoàn thành dấu chỉ của Tin mừng.
3. Sự khó nghèo như sự tiêu biểu
Chúng ta phải, cả với tính cách cá nhân cũng như cộng đoàn, thực hiện một vai trò biểu tượng hay chức năng biểu tượng giữa lòng Giáo hội: biểu thị lối sống của Đức Giêsu, vị Sứ giả loan Tin mừng củaVương Quốc (Mebasser); đó là, cách này hay cách khác, ơn gọi của chúng ta là một ơn gọi “khác thường” có tính ngôn sứ, đồng thời tô điểm cho ơn gọi mang tính biểu tượng của Giáo hội và nhân loại; đó là, đời sống tu trì của chúng ta phải tìm lại sự thôi thúc đặc biệt và hầu như gợi lên một ý nghĩa lạ thường nơi những người khác.
Vì thật ra nét đặc trưng nhất của ơn gọi của chúng ta không là hiệu quả, nhưng đúng hơn làbiểu tượng. Trong trường hợp đó, dù là cá nhân, dòng tu hay tu hội đều không có căn tính đời tu nếu không thực hành chức năng tiêu biểu hay biểu tượng này, không đưa chúng ta quay về với hoặc không gia tăng sự khó nghèo mang tính truyền giáo của Đức Giêsu Kitô. Kẻ thù lớn nhất của sự khó nghèo tông đồ của chúng ta là, vì yêu bản thân chúng ta bắt đầu, bằng nhiều cách, sống an ổn quá mức mà khước từ sự lưu động mang tính đoàn sủng của chúng ta. Sống ổn định quá mức khiến chúng ta bận tâm về nơi ăn chốn ở hơn là sứ vụ truyền giáo, bận tâm tổ chức hơn là việc phục vụ mà lẽ ra chúng ta phải đáp ứng. Những thực tại trên, cho dù có thể là nghèo thực sự, nếu không ghi đậm nét lưu động truyền giáo, thì chúng không biện minh được cho lối sống khó nghèo của chúng ta. Chính vì lý do đó, sự khó nghèo của chúng ta không am hợp chút nào (tout court) với “cuộc sống len lỏi giữa những người nghèo”, nhưng ở một mức độ nào đó chúng ta cần có tính sẵn sàng và lưu động để thích ứng với bất cứ nơi nào, điều gì và lúc nào, miễn sao sứ vụ truyền giáo của chúng ta phụ thuộc vào điều đó.
Một khi sự nghèo khó không được kết nối với dự án tông đồ và truyền giáo, nó mất đi lý do hiện hữu mang tính đoàn sủng nơi hội dòng chúng ta. Chúng ta biết rằng, người làm chứng cho Tin mừng đem lại hiệu quả cao nhất khi được hỗ trợ bởi tính khả tín của người làm chứng. Các tu hội, các cộng đoàn, các sáng kiến và ngay cả tu phục của chúng ta phải được biến đổi thành dấu chỉ của Vương Quốc, thành một dụ ngôn Nước Trời. Nước Trời ấy, như chúng ta cũng biết, không chỉ có sự nghèo khó, mà còn có tình yêu cao cả vốn đặt chúng ta vào tình liên đới với người nghèo và giúp chúng ta cộng tác với họ trong việc giải phóng họ.
Việc làm chứng về sự nghèo khó mang tính cách tập thể không chỉ bao hàm“chính cái không có”, nhưng hơn thế, bao hàm việc biến đổi mọi thứ chúng ta có thành trung gian yêu thương vì lợi ích của người nghèo. Trong trường hợp đó, “cái không có” của chúng ta, hoặc cái có ngày càng ít đi của chúng ta, là một hệ quả của tình yêu. Có một loại bệnh “không có” vốn là một dấu chứng cho thấy thiếu tình yêu thương: ấy là “cái không có” của những kẻ vốn không thích có bất cứ thứ gì mà họ phải cho đi. Có một “cái không có” là dấu chỉ nói lên việc hiến mình: ấy là những người cho đi mọi thứ và từ bỏ đến độ chẳng còn gì. Biểu tượng lớn nhất của việc hoàn toàn trao ban chính mình là Bí tích Thánh Thể: bánh được trao tay và máu được đổ ra. Biểu tượng lớn nhất về Vương Quốc là việc chúng ta cho đi mọi sự: trao chính chúng ta cho người khác với tất cả những gì chúng ta có; biến của cải chúng ta có và chính bản thân chúng ta thành trung gian yêu thương; chúng ta phục vụ không phải vì quan tâm đến bất cứ sự đền ơn nào; chúng ta làm việc không nhằm mục đích tăng thêm lợi lộc, nhưng nhắm đến việc dấn thân và phục vụ anh em đồng loại.[3] Đó là quan điểm làm cho việc loan báo Vương Quốc thực sự khả tín.
Phần VI: Nghèo Khó Như Một Hành Trình Thiêng Liêng
Những chiều kích khổ chế
1. Ước muốn và sự khó nghèo trong ước muốn
Đó là đặc điểm cho thấy một tu sĩ trở nên “nghèo thực sự cả trong thực tế lẫn trong tinh thần”. Chúng ta có thể diễn tả sự ước muốn và nghèo khó trong ước muốn của đời tu bằng cách dùng bốn thành ngữ mang tính tiêu cực: người nghèo khó thực sự là người: 1. Không giữ của cải, 2. Không thủ đắc bất cứ cái gì cho riêng mình mà lỗi với lời khấn khó nghèo, 3. Không có ý hướng về quyền sở hữu, 4. Không làm công tác truyền giáo với ý định được đền đáp; và bằng cách dùng ba thành ngữ mang tính tích cực: (1.) người tu sĩ là người nghèo nếu anh ta hoặc chị ta cảm thấy ràng buộc bởi luật chung của công việc, (2.) chia sẻ cho nhiều người nghèo, (3.) vui mừng khi cảm được một vài tác dụng của sự khó nghèo.
Ước muốn và sự khó nghèo trong ước muốn được biểu lộ qua việc hoàn toàn thanh thoát về của cải. Nhà truyền giáo nghèo là người chẳng có gì trong quyền sở hữu cá nhân, chẳng có gì như của riêng. Sự thanh thoát này không phải là lý do thù địch với của cải như một vài lập trường triết học hay thần học hiểu. Lý do của sự hoàn toàn thanh thoát này là tình yêu: yêu anh em mình với tất cả mọi thứ người ta có, nhằm xây dựng một cộng đồng biết chia sẻ cho nhau mọi thứ. Sự thanh thoát ở đây bao hàm mục đích yêu thương. Các nam nữ tu sĩ là những người yêu thương anh chị em mình với tất cả những gì họ có; vì thế, họ không giữ riêng, không thủ đắc, không sử dụng của cải như thể của cải thuộc quyền sở hữu của riêng họ. Người tu sĩ hành động không vì ước mong được lợi lộc về kinh tế.
Sống hoàn toàn thanh thoát với của cải không phải là điều dễ đâu. Lúc mới đi tu, chúng ta có khuynh hướng thực hiện những hành động từ bỏ cao cả. Nhưng dần dà chúng ta bắt đầu cảm thấy cần có những phương tiện riêng để làm việc, hoặc bắt đầu được biếu xén quà cáp, ước muốn và sự khó nghèo trong ước muốn của chúng ta bắt đầu mất đi sức mạnh và đặc tính triệt để. Chúng ta có khuynh hướng lệ thuộc vào của cải là những tặng phẩm mà người ta biếu xén cho chúng ta, hoặc phương tiện chúng ta dùng, hay những thứ làm cho cuộc sống chúng ta nên tiện nghi hơn. Quả thực chúng ta khó lòng giữ được đức khó nghèo. Có một khoa sư phạm về sự khước từ định kỳ, sẽ cho phép chúng ta được tự do khỏi mọi thứ ràng buộc.
Chúng ta hãy gợi lại một quan điểm mới về sự nghèo khó: hoàn toàn tuân thủ luật chung của công việc, khiến chúng ta chia sẻ cho nhiều người nghèo. Người tu sĩ không nên chối bỏ thân phận của mình như một người lao động, như chính thánh Phaolô đã không bỏ công việc chân tay của Ngài. Thánh phaolô đã yêu cầu các tín hữu Thessalonica noi gương Ngài trong khía cạnh này:
“Chính anh em thừa biết là anh em phải bắt chước chúng tôi thế nào. Khi ở giữa anh em… chúng tôi đã chẳng ăn bám ai; trái lại đêm ngày đã làm lụng khó nhọc vất vả để khỏi nên gánh nặng cho người nào trong anh em. Không phải là vì chúng tôi không có quyền hưởng sự giúp đỡ, nhưng là để nêu gương cho anh em bắt chước. Thật vậy,… chúng tôi đã chỉ thị cho anh em: ai không chịu làm thì cũng đừng ăn.” (2Tx 3,7-10).
Chỉ ai là người nghèo thực sự mới không thể cho phép mình sống xa hoa mà không làm việc, phí phạm thời giờ bằng sự biếng nhác hoặc né tránh những việc dấn thân đủ loại lẽ ra phải làm. Tuy nhiên, người tu sĩ khác với một người lao động bình thường ở chỗ người tu sĩ làm việc không phải chỉ với hy vọng được trả công. Tu sĩ phải làm việc bởi vì anh ta biết rằng mình là người nghèo và mình liên đới với người nghèo.
Sự nhận thức về cái nghèo đích thật và tự nguyện phải được biểu lộ qua niềm vui của người tu sĩ, đặc biệt là những khi anh ta hoặc chị ta kinh nghiệm được hiệu quả của sự khó nghèo.Trong tình cảnh như thế, bình thường người ta sẽ kêu ca, chỉ trích và mất can đảm. Để có thể an vui trong tình cảnh này là một ơn huệ của Thần Khí vốn ban cho những ai, trên hết, tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài và những ai hoàn toàn tin tưởng vào sự quan phòng của Chúa Cha.
Luật Giáo hội cho phép tu sĩ biểu lộ tính triệt để về đức khó nghèo Phúc âm của họ qua việc tự nguyện từ bỏ của cải gia sản của họ, là những thứ họ vẫn hoàn toàn có quyền sở hữu, kể từ lúc họ tuyên khấn vĩnh viễn. Theo logic tinh thần của chương này, để sống triệt để đức khó nghèo Phúc âm và truyền giáo, nhà truyền giáo cần đảm nhận sự từ bỏ này như một điều hiển nhiên của tiến trình.
2. Các chiều kích pháp lý
Trong các hội dòng, việc biểu lộ đức khó nghèo có tính pháp lý của các thành viên không có cùng cách thức triệt để như nhau. Kinh nghiệm khôn ngoan, được biểu thị qua luật Giáo hội, cho rằng đòi buộc các nam nữ tu sĩ khấn đơn thuộc các hội dòng từ bỏ hoàn toàn quyền sở hữu gia sản của họ là không thích hợp. Họ có thể làm như thế nếu họ muốn, khi tuyên khấn trọn đời, như chúng ta đã bàn trong số trước; nhưng đó không phải là điều kiện không có không được (conditio sine qua non) đối với việc sống đức khó nghèo Phúc âm.
Trong mọi trường hợp, kể cả khi vẫn giữ quyền hoàn toàn sở hữu gia sản, đa số các tu sĩ từ bỏ quyền định đoạt về và sử dụng của cải. Người tu sĩ phải trao quyền quản lý, sử dụng của cải và hoa lợi cho người khác trước khi tuyên khấn lần đầu.
Hoàng Thụy, OP.
(TSTH số 33)
Chuyển dịch từ POVERTY FOR THE KINGDOM
của José Cristo Rey García Paredes. cmf
[2] El Santo Evangelio de Nuestro Seđor Jesucristo según san Mateo, anodado por el Excmo, ellmo. Sr. D. Antonio María Claret, Arzobispo de Cuba, Librería Religiosa, Barcelona 1859, p. 66, n.2. Cited in M. Orge, art. cit.
[3] “Một chiều kích cốt yếu của sự khó nghèo của bạn sẽ là chiều kích của việc làm chứng cho nhân loại về ý nghĩa của sự làm việc được thực hiện trong tinh thần tự do và được khôi phục bản chất của sự làm việc như một cách thức của sự trợ giúp và sự phục vụ”