11/07/2010 -

Suy tư, nghiên cứu

935

 


 


NHỮNG CON NGƯỜI TẬN HIẾN


“Hãy đến theo Tôi”


Trong những nhóm tu sĩ mà tôi gặp gỡ, thường người ta tỏ ý lo sợ: hội dòng chúng tôi có tương lai chăng? Tự căn bản, người ta thắc mắc rằng, trong những năm tới đây, liệu có còn những con người từ bỏ cái cày để đáp lại lời mời của Đức Giêsu: “Hãy đến đây, theo tôi”. Nhưng khó để lên tiếng khi người ta thắc mắc xem sau này có còn những con người đi theo cùng một con đường như chúng ta đã đi chăng. Căn cứ vào lịch sử lâu dài của đời tu trong Giáo hội, người ta có thể nghĩ rằng, từ những bà góa cho đến các trinh nữ, đến các nữ phó tế, cho đến hôm nay, hễ lời gọi được ngỏ, thì đều có sẵn nững con người đáp lại lời mời đi theo Đức Giêsu. Phải chăng những hình thức “theo Đức Giêsu” sẽ luôn luôn y hệt nhau? Điều này thì không chắc chắn, cũng như chưa bao giờ là chắc chắn cả. Song việc theo Đức Giêsu, ý muốn làm môn đệ của Người, chắc chắn phải còn mãi.


Trong thời kỳ năm tập của tôi, bà giáo tập chúng tôi giao cho cả nhóm một công tác y hệt nhau. Tham chiếu tên gọi bình dân của hội dòng chúng tôi, các soeur y tá thừa sai, bà giáo tập đòi chúng tôi phải viết một tiểu luận về một trong ba từ trên. Nếu tôi nhớ đúng, thì những tiểu luận tốt nhất đã coi ừ “soeur” là quan trọng nhất. Tôi không nhớ mình đã viết gì, hoặc nghĩ gì lúc đó, song rõ ràng điều lôi cuốn tôi lúc đó, là những khía cạnh y tá và thừa sai. Tuy nhiên, vào thời này, đặc biệt là đối với các tập sinh, chúng tôi thiên về việc coi chiều kích tu sĩ như yếu tố chủ chốt, gạt những khía cạnh y tá và thừa sai sang hàng thứ yếu. Một số đã nói rằng mảng cắn của đời tu – lời khấn, linh đạo, cộng đoàn – là thiết yếu.


Trong tương lai, đời tu như chúng ta từng biết và cảm nghiệm, cũng như những đặc tính của các hội dòng thì có thể tồn tại hoặc không. Lại nữa, chúng ta gắn bó với yếu tính của đời tận hiến, tức là việc theo Đức Giêsu, hơn là với những yếu tố mà chúng ta liên kết với đời tu dưới nhiều hình thức qua các thế kỷ.


Phải chăng linh đạo, lời khấn, đời sống cộng đoàn và nhiều yếu tố khác lại không đáng kể? Trái lại, tất cả những điều trên đều rất quan trọng, cho dù đã có những thay đổi sâu xa trong ý nghĩa của chúng và trong cách thức sống những thực tại đó, vào những năm gần đây. Trọng tâm của việc thảo luận hớng về căn tính và tầm nhìn sáng lập bền vững đem lại sức sống và uy lực cho nhóm. Những lời khấn, ngay cả khi chúng ta xác định lại chúng, đem lại sự ổn định và sức mạnh cho việc tận hiến của ta. Và nếu không có một linh đạo ăn rễ sâu, thì không thể duy trì một sự dấn thân trong sứ vụ, song đó không phải là linh đạo đan tu, cũng không phải việc phát triển đời sống nội tâm thuần túy cho riêng mình mà thôi. Đúng ra đó là nói về một linh đạo tông đồ có mục tiêu là sứ vụ, và có nền tảng thần học là một tương quan cá nhân rất sâu đậm với Đức Giêsu, như một yếu tố chủ chốt để dấn thân trong sứ vụ của Người.


Những ai sẽ đáp lại lời mời trong tương lai, một khi vượt qua ngưỡng cửa của các hội dòng, sẽ tìm thấy một thực tại khác xa với thực tại mà các tu sĩ gặp thấy hôm nay. Và những người này có lẽ sẽ thấy xuất hiện một hình thức hoàn toàn khác lạ. Xin cho phép tôi lưu ý đến một số điểm, mà theo tôi, sẽ phải khác đi. Đời sống tận hiến trong Giáo hội, mà hiện nay chúng ta gọi là “đời tu”, có lẽ trong tương lai sẽ gọi khác đi. Nhưng điều quan trọng, đó là có một cuộc đời tận hiến để đáp lại lời gọi: “Hãy đến theo tôi.”


Một cộng đoàn dành cho sứ vụ


Điều này đưa chúng ta về với Giáo hội sơ khai, với ý tưởng nguyên thủy của cộng đoàn như một tập hợp các môn đệ của Đức Giêsu đang cùng nhau cầu nguyện, cử hành bí tích Thánh Thể, lo lắng cho nhau về tinh thần cũng như thể chất, và loan báo Tin Mừng. Một cộng đoàn nếu chỉ có mục tiêu duy nhất, hoặc ưu tiên, là dành cho các phần tử một đời sống thoải mái, thì có thể trở nên một lực cản cho việc phát triển tâm linh của họ và cũng như việc phổ biến sứ vụ cứu độ của Đức Giêsu. Một cộng đoàn dành cho sứ vụ, một cộng đoàn đang thi hành sứ vụ, sẽ đổi mới ý nghĩa Giáo hội học của quan niệm trên.


Vào thời kỳ bắt đầu canh tân hậu – công đồng, khi mà các tu sĩ nam nữ ngày càng dấn thân trong các giáo xứ, ngay bên các bạn hữu, gia đình và đồng nghiệp của mình, thì có một số phàn nàn rằng mình đang phải sống trong một “nhà trọ”. Đời sống cộng đoàn với những thực hành đạo đức và những sinh hoạt chung đã trở thành chuyện của quá khứ. Đối với một số người trong chúng ta, thì đời sống cộng đoàn được thay thế bằng “một dạng khách sạn” rất tiện nghi, ở đó người ta đáp ứng nhu cầu của chúng ta để chúng ta có thể đi làm việc ở bên ngoài. Tuy nhiên, nhận thức trên đã bị bác bỏ bởi nhiều tu sĩ vì nó đã lẫn lộn giữa sự kiện sống thành từng nhóm với một thực tại sâu sắc hơn: cộng đoàn. Khi cả hai trùng lắp với nhau, thì quả là may mắn, nhưng nếu tin rằng nhóm là cộng đoàn, thì hẳn là đã bỏ qua một thực tại rất phong phú.


Một trong những thay đổi về dạng thức ở tầm mức phổ quát đã cho thấy rõ tầm quan trọng của ý nghĩa trong cuộc sống. Càng ngày, chúng ta càng ý thức căn tính của chúng ta xét như một nhóm, như một nhân vị, như một cá nhân, ít theo mối tương quan với điều mà chúng ta làm và làm thế nào, nhưng theo mối liên hệ với ý nghĩa của đời ta: tại sao chúng ta lại làm điều chúng ta đang làm và sống như chúng ta đang sống. Những thay đổi diễn ra trong thế giới nhà nghề đã cho chúng ta những ví dụ sáng tỏ. Những con người đi vào một nghề nghiệp, vào những thương vụ hoặc vào một kỹ nghệ, thì đến một lúc nào đó, thường sẽ phải tự hỏi xem sự lựa chọn đó có còn ý nghĩa đối với họ không. Không phải là những con người muốn bỏ đi cái nghiệp cũ. Đúng hơn đó là chuyện những con người muốn có một đời sống ý nghĩa hơn, cho dù việc lựa chọn này không đem lại tiếng tăm và tiền bạc.


Vào những năm 1960, 1970, và phần nào những năm 1980, người ta đã cho rằng việc thăng tiến cá nhân, chiếm một tầm quan trọng lớn trong việc phát triển. Sự bùng nổ khó tin về những kỳ họp, những cuộc thảo luận, những chương trình giáo dục được tung ra trong những năm đó, đích thị là đỉnh điểm của tảng băng. Với thời gian, người ta ý thức rằng ngay việc tăng trưởng cá nhân cũng phải hàm chứa một ý nghĩa. Trở nên chính mình chỉ cốt để là mình, quả đã mất dần nét hấp dẫn. Và không phải là một chuyện ngẫu nhiên nếu những phong trào khác cũng đã xuất hiện vào cùng thời gian: phong trào về quyền con người và quyền thú vật, về hòa bình, sinh thái, môi trường. Những phong trào trên đã gieo mầm cho một phong trào đi tìm ý nghĩa.


Sự thay đổi này – một sự thay đổi nhấn mạnh đến ý nghĩa – có thể là điểm xuất phát cho những thay đổi nhiều ý nghĩa trong cách thức sống đời tu vào thế kỷ XXI. Đặc biệt, nó sẽ ảnh hưởng đến: lớp người sẽ dấn thân, tận hiến vì điều gì và làm thế nào để sống cuộc dấn thân đó. Ưu tư về việc giảm thiểu con số các tu sĩ và về sự già nua của họ chứng tỏ rằng người ta ít ý thức đến sự thay đổi đang diễn ra. Những phản ứng đối với ưu tư này thì nói chung chỉ cốt nghiên cứu điều mà chúng ta còn vụng về hay lý do tại sao những người trẻ ít dấn thân. Song trên thực tế, những người trẻ hôm nay không hề thiếu lòng quảng đại. Điều khác biệt đó là họ muốn dấn thân cho chuyện gì. Tôi xác tín rằng đời tu sẽ lôi cuốn những con người nam cũng như nữ, trong tương lai tùy theo việc những hội dòng khác nhau cống hiến một sự dấn thân trong một sứ vụ đầy ý nghĩa, có thể được diễn tả trong nhiều tác vụ và vô vàn những hình thức dấn thân cụ thể. Căn tính của các tu sĩ nam nữ thì nằm trong sứ vụ hơn là trong những cơ cấu của quá khứ. Tôi tin rằng sự thay đổi lớn trong thế kỷ XXI sẽ nhấn mạnh đến chuyện các tu sĩ là ai và ý nghĩa đời tu là thế nào.


Nhiều hình thức dấn thân


Theo tôi thì hiển nhiên trong tương lai, các tu sĩ sẽ gồm những phần tử thường trực vốn ít ỏi và cao tuổi hơn – hoàn toàn hiến mình cho sứ vụ và những tác vụ luân chuyển, chấp nhận một nếp sống ít tiện nghi hơn và nắm những vị trí có tính ngôn sứ nhiều hơn nữa trong xã hội và trong Giáo hội. Quả vậy, điều mà chúng ta đang hướng tới lại giống với thời khai nguyên hơn là với tình trạng hiện thời. Tuy nhiên, rất có thể là chung quanh những nhóm người nhỏ bé gồm các thành viên thường trực, thì liên kết với họ, còn có nhiều người sẽ được lôi cuốn bởi sứ vụ. Họ muốn dấn thân trong một thời gian hạn định hoặc nếu họ dấn thân cả đời cho sứ vụ, thì họ lại không nhất thiết làm điều đó theo định chế, tức là đời tu, cho dù đời tu đã được canh tân và biến đổi. Chắc chắn chúng ta sẽ nhận thấy rằng, trong tương lai, cần phải chấp nhận một sự sắp loại mới về đời thánh hiến trong Giáo hội, bao trùm một số đông các hình thức và nếp sống, song đều liên hợp thành một hoạt động thống nhất.


Người ta đã lưu ý rằng ít có người chọn lựa trở thành hội viên suốt đời trong định chế tu trì truyền thống. Song vào lúc ta nhận thấy số tu sĩ theo giáo luật bị giảm sút, thì lại có sự phát triển rất mạnh những chương trình liên kết và thiện nguyện. Những thanh niên nam nữ được lôi cuốn bởi một cộng đoàn tu sĩ, song với ước muốn thông dự vào đó theo một cách khác hẳn. Đôi khi chính những tác vụ lôi cuốn họ. Đôi khi chính linh đạo của nhóm mới lôi cuốn. Một số ngời đi tìm một cuộc dấn thân ngắn hạn hơn; song một số lại chọn những dấn thân thừa sai suốt đời, nhưng với tước hiệu là những người liên hiệp. Một phong trào giáo dân được thành lập nhiều năm, phong trào Graal, đã chấp nhận hình thức như vậy ngay từ buổi đầu. Phong trào này luôn luôn duy trì một hạt nhân gồm ít thành viên trọn đời, và sát nhập vào đó là một nhóm đông hơn nhiều, dành cho những thời kỳ lâu dài hơn kém và theo những kiểu thức khác nhau.


Về thay đổi cần thực hiện, các tu sĩ phải ý thức đến chuyện họ nhấn mạnh vào thời hạn và hình thức như nền tảng của dấn thân tu trì. Phong trào Graal đã chứng tỏ rằng có thể tự tổ chức với những dấn thân dài hạn và ngắn hạn. Những phong trào thừa sai giáo dân đã chứng tỏ rằng người giáo dân có thể dấn thân trong vài năm, cống hiến một cách quan trọng cho hạt nhân thường trực và cho sứ vụ, rồi tiếp đó lại trở về với cuộc sống bình thường của mình. Hiển nhiên, khi họ trở về với nếp sống bình thờng, thì họ sẽ không còn là những con người như trước nữa. Những kết quả dài hạn của kinh nghiệm thừa sai này thì dễ nhận ra và người ta không thể phủ nhận giá trị của nó trong Giáo hội nói chung. Đời sống đan tu chắc chắn có thể du nhập những dấn thân ngắn hạn, song khó khăn hơn. Tuy nhiên, đời tu tông đồ thì không gặp những khó khăn như vậy.


Thật là bổ ích khi ta nghiên cứu những hình thức sống khác biệt nhau mà có thể cùng tồn tại như đời sống thánh hiến được thống nhất trong Giáo hội. Hình thức duy nhất sống thánh hiến hiện nay được thừa nhận, là hình thức theo giáo luật được xây trên nền tảng kép ba gồm một cuộc dấn thân vĩnh viễn, những lời khuyên Phúc Âm và một hình thức quản trị cho phép mọi phần tử tham dự vào. Những hình thức sống thánh hiến khác có thể nắm lấy khía cạnh này hay khía cạnh khác, nhưng không phải mọi khía cạnh trên. Trong quá khứ, những Hội dòng Bà (Huynh Đoàn) tạo nên một hình thức sống thánh hiến gắn bó với những nhóm tu sĩ theo giáo luật. Vào thời đại chúng ta, cũng có thể khám phá ra những lối tiếp cận mới mẻ và sáng tạo để đáp ứng cho lời kêu gọi bằng nhiều cách. Để đi vào một giai đoạn mới, cần phải mở rộng ra nhiều cách sống đời tận hiến.


Trong những thế kỷ đầu của Giáo hội, trước khi xuất hiện đời sống đan tu, người ta từng biết đến nhiều hình thức thánh hiến: hình thức thánh hiến của những bà góa và những trinh nữ sống tại gia, đã phục vụ không công cho cộng đoàn Kitô hữu và dấn thân trong việc cầu nguyện cộng đồng; lối sống tận hiến của các phó tế và các nữ phó tế bảo đảm một việc phục vụ đầy đủ hơn trong Giáo hội địa phương; lối sống thánh hiến của các ẩn sĩ thuộc hai giới nêu lên tấm gương dấn thân trọn vẹn trong việc chiêm ngưỡng Thiên Chúa; lối sống của những cộng đoàn các đan sĩ sống tập thể phối hợp việc chiêm ngưỡng của vị ẩn sĩ với đời sống cộng đoàn. Có lẽ trong tương lai, những lối sống nguyên sơ đó không thể tái hiện được nữa, song cần phải duy trì tinh thần cởi mở trước tiềm năng bao gồm những hình thức thánh hiến mới mẻ để sống cộng đoàn, và chấp nhận rằng tương lai của đời sống tu trì có thể là nằm ở đó. Thực ra, có nhiều tu sĩ nam nữ sống những kinh nghiệm với những con người hoặc những nhóm rất khác biệt mà theo cách thức của họ đã phục vụ cho sứ vụ của Đức Giêsu, song không gắn vào đó một cái nhãn riêng biệt nào. Tôi thành thật tin tưởng rằng hiện đã có một số hình thức sống đời thánh hiến mới mẻ chung quanh chúng ta, song ta chỉ xét đến một số hình thức gán cho cái tên là “đời sống tu trì”.


Chúng ta cần phải ý thức hơn nữa về con số lớn lao những con người được mời gọi đến sứ vụ của Đức Giêsu, song không phải là vào một cuộc dấn thân vĩnh viễn trong đời độc thân tu sĩ như ta đã biết. Các tu sĩ, nam cũng như nữ, không phải là những con người duy nhất, cũng không phải là những người đông đảo nhất đáp trả lời mời của Đức Giêsu để phục vụ người nghèo, bệnh nhân, những người bị áp bức, các tù nhân. Thường thì có những con người riêng biệt trước hết muốn sống mối tương quan với những người khác. Thêm vào chương trình tạm thời theo ý hướng của những người thiện nguyện, các hội dòng có thể đề ra những mối liên hệ và hỗ trợ như thế. Những phong trào hội viên liên hiệp chắc chắn tạo nên bước đi đầu tiên, song trong tương lai người ta có thể điều nghiên một giai đoạn triệt để hơn, ví dụ thừa nhận nhiều loại thành viên bao gồm hạt nhân là những thành viên thường trực và những thành viên khác dấn thân theo những định kỳ, những con người độc thân cũng như những người có gia đình, đàn ông cũng như đàn bà, tất cả đều cùng thuộc ột hội dòng. Đối với những thành viên khác biệt đó, cần phải có những chính sách rõ ràng tương ứng, liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của họ, song nhất định phải thừa nhận sự bình đẳng trong dấn thân tông đồ. Bởi vì cho dù những quyền lợi và nghĩa vụ của những thành viên này có khác biệt nhau, thì thực tại đời sống dấn thân lại không khác đi chút nào.


Khó khăn xuất hiện khi chúng ta dừng lại ở những chi tiết của đời tu kiểu như chúng ta hiện nay đang biết và đang sống, với những ngân sách, nhà trọ, vai trò của những người hữu trách, quyền đầu phiếu và những điểm khác tương tụ. Cần lưu ý rằng không một điểm nào nêu trên là chính yếu cho đời sống tu trì. Đơn giản chúng chỉ là những yếu tố của cơ cấu mà chúng ta đề ra qua năm tháng để bảo đảm việc vận hành được hài hòa hơn. Nhiều chương trình của những hội viên liên hiệp mà hiện nay đang hoạt động, đã điều chỉnh những điểm khác biệt trên rất thành công. Những chương trình đầu tiên, khởi đầu trong những năm 1970, trước hết đã lôi kéo những chị “cựu” nữ tu muốn duy trì mối liên hệ với hội dòng của mình hoặc muốn cộng tác cách nào đó vào sứ vụ của dòng. Một khi những kinh nghiệm trên được khai triển và những thành viên đầu tiên đó đã đi qua, thì những vấn đề tiền bạc, quyền đầu phiếu và quản trị đã mất đi những nét lôi cuốn. Những ưu tư chủ chốt, thường là những vấn đề chiến lược, sẽ cho phép nhiều người giáo dân cùng tham dự vào sứ vụ của Giáo hội, vào sứ vụ của Đức Giêsu. Các hội dòng có thể mở ra những con đường quan trọng cho phép người giáo dân dấn thân sâu sắc vào sứ vụ này.


Nếu đời tu còn tồn tại trong thế kỷ XXI, những thành viên thường trực của hạt nhân trung tâm, cho dù là ít người hơn, đều có thể làm tiến triển sứ vụ nhờ vào sự cộng tác liên tục của một số người luôn luôn đông hơn, những người này sẽ dấn thân trong nhiều thời kỳ và dưới những hình thức khác biệt nhau. Trong dòng lịch sử, các tu sĩ nam nữ đã được những giáo dân hỗ trợ trong những tác vụ của mình. Xu thế này cần được nhấn mạnh, song với điều kiện là phải chấp nhận những hình thức định chế khác xa với những gì mà chúng ta biết hiện nay. Những con người này sẽ rất nhiệt tình với sứ vụ và những tác vụ, song lại rất ít lưu tâm đến những chuyện nội bộ của hội dòng, trừ ra những gì liên quan đến sứ vụ.


Hạt nhân những thành viên trưởng thành hơn


Hiện nay, một dấn thân vĩnh viễn trong đời tu thì được quyết định vào một lứa tuổi chín muồi hơn. Một số tôn giáo đông phương quan niệm rằng sự dấn thân vào một nếp sống tâm linh hơn, thì phù hợp nhất cho người nào đã gầy dựng gia đình của mình và hành nghề xong. Những con người đi vào đời tu hôm nay thì trưởng thành hơn, đã học hành xong và có khi đã từng làm việc một thời gian trong lãnh vực mà họ chọn lựa. Ở đây có một mối tương quan với khía cạnh khác của việc thay đổi dạng thức khiến cho nhiều người dấn thân vào những công việc hoặc nghề nghiệp, có khuynh hướng thực hiện nhiều thay đổi quan trọng về nghề nghiệp của mình. Dự án đi vào một lãnh vực hoạt động và ở lại đó cho tới khi về hưu, nay được thay thế bởi viễn tượng gồm nhiều đổi thay trải qua cuộc đời của mình. Từ nhiều năm nay, những tư vấn hiến nghiệp đã ý thức rằng việc có nhiều thay đổi trong nghề nghiệp là một chuẩn mực hơn là ngoại lệ. Có hoàn cảnh này một phần là do những thay đổi kỹ thuật, song cũng còn nhờ bởi làn sóng thông tin mở ra cho con người nhiều chọn lựa và nhiều khả năng.


Có những khía cạnh tích cực và những khía cạnh tiêu cực khi các ứng sinh tập tu đã trưởng thành hơn. Người ta nhận thấy rằng họ thường được giáo dục tốt hơn, kinh nghiệm hơn và nghiêm túc hơn. Người ta đánh giá rằng họ chôn chân nhiều hơn trong cách thức làm việc, và ít khả năng thích nghi. Có một số anh chị em nghĩ đến đời tu khi họ đã là những người góa vợ, góa chồng hoặc đã li dị, những người này du nhập một thực tại hoàn toàn khác biệt vào trong cộng đoàn những người độc thân mà họ gia nhập. Điều này có thể là một sự phong phú, song cũng có thể là nguồn cội cho những khó khăn.


Các tu sĩ nam nữ có thể đặt ưu tiên cho sự an toàn của một thực tại vốn quen thuộc với mình và không nắm bắt được tiềm năng của những ứng sinh nam cũng như nữ rất khác biệt đó, cũng không nắm bắt được cách thức khai thác những kinh nghiệm trường đời của những con người trong tác vụ. Những cộng đoàn từng chấp nhận những thành viên này có thể đưa ra chứng từ về những khó khăn, song cũng có chứng từ về những giá trị, về sự phong phú của những kinh nghiệm hết sức đa dạng, không chỉ là những kinh nghiệm làm việc, song còn về hôn nhân và đời sống gia đình. Những tu sĩ truyền thống hơn chắc chắn phải cố gắng để mường tượng ra sự phong phú này.


Một hạt nhân đa văn hóa


Một thay đổi nền tảng khác mà thế giới chúng ta đang sống, góp phần vào việc xóa bỏ những ngăn cách và tranh chấp: vì dụ, bức tường Bá Linh sụp đổ, đế quốc cộng sản đã tiêu tan… Trong một tầm mức khiêm tốn hơn, song vẫn có thực, những con người di dân sang những xứ sở khác không chấp nhận tâm thức của một melting pot, nhưng trái lại vẫn giữ nguyên căn tính văn hóa của họ và phần nào đó nối kết văn hóa của mình với văn hóa chung quanh để làm nảy sinh một điều gì mới. Vào thế kỷ XIX, những người di dân muốn trở thành những người Hoa Kỳ. Ngày nay, ở Hoa Kỳ chẳng hạn, người ta thấy sự chỗi dậy của những người Mỹ gốc Á châu. Và điều này không thuần túy là ý nghĩa học (sémantique). Có một hình thức đa văn hóa nhất định, một khuynh hướng ngày càng lớn mạnh mơ tưởng đến một thế giới thống nhất, vốn là việc biểu lộ những thay đổi sâu sắc trên ảnh hưởng đến mọi khía cạnh của đời sống chúng ta. Nhưng đồng thời, lại có những phong trào khác chống đối lại sự thay đổi này. Vì vậy, có những xung đột sắc tộc trầm trọng nổ ra trong một số miền mà ở đó người ta còn luyến tiếc một nét sắc tộc tinh ròng, và cũng ở đó người ta không ngừng nhắc nhớ lại những bất công đã qua. Như vậy, mỗi một phong trào tiến bộ đều kèm theo một phong trào thoái lui.


Nhiều hội dòng tại Bắc Mỹ lúc đầu đã tuyển sinh những nhóm sắc tộc hùng mạnh: Ba Lan, Ý, Đức, Ái Nhĩ Lan v.v. Trong nhiều địa phận, người ta thấy có những giáo xứ quốc gia và trong nhiều thành phố lớn, người ta tấy có những khu phố sắc tộc. Những cộng đoàn hoạt động tận tình bên một số nhóm sắc tộc, nên không lạ gì những cộng đoàn đó lấy phần đông những ứng sinh từ các nhóm này. Chúng ta ghi nhận sớm hơn những thay đổi quan trọng khi đi vào ý nghĩa của một tình trạng đa văn hóa lấn dần. Thế giới đang phát triển hiện nay là một thế giới đa văn hóa. Không xét đến những cảm thức của con người, và bất chấp tình trạng phân biệt chủng tộc và những ý thức hệ tương tự trong xã hội chúng ta, nhất định thế giới sẽ sống theo một hình thức hội nhập hoặc tiếp cận văn hóa. Sự bùng nổ thông tin, cũng cuộc di dân quan trọng hơn, cũng như những chọn lựa có ý thức ủng hộ tính cách đa dạng, ảnh hưởng đến xã hội nói chung và những hội dòng nói riêng.


Hiện nay, những nhóm mục vụ ơn gọi tự hỏi làm thế nào để tăng con số ơn gọi trong một số nhóm sắc tộc, chẳng hạn những người Mỹ Latinh hoặc những người Da Đen. Tôi thì muốn tin rằng điều thu hút những ơn gọi trong quá khứ thì cũng hiệu quả như vậy trong tương lai. Những con người gia nhập một hội dòng, với tư cách là những thành viên vĩnh viễn hay những hội viên liên hiệp, là những người mà các tu sĩ nam nữ từng làm việc với, hoặc cùng sống với, trong một khu phố, hoặc là có những liên hệ nghề nghiệp với họ. Phương tiện để thử nghiệm vẫn là cách thức mà chúng ta cùng làm việc hay cùng sống với những nhóm sắc tộc này. Ngày xưa, những sinh viên của một trường học đều biết được một hội dòng có cởi mờ với nhiều sắc ộc khác nhau hay không. Họ biết đều đó sau khi có được những mối tương quan tại nhà trường. Ngày nay cũng vậy thôi. Nếu chúng ta làm việc với những người Da Đen, những người nói tiếng Tây Ban Nha hoặc những người Á Châu theo các thức kỳ thị sắc tộc hay khoan nhượng hơn kém, thì sứ điệp rất là rõ ràng, không mập mờ được.


Như vậy, chỉ mới sống và làm việc trong một môi trường đa văn hóa thì chưa đủ. Sống và làm việc thế nào, đó mới là điều quan trọng. Một vài năm qua người ta được cấp giấy thông hành quốc tế. Những giấy thông hành này không hẳn đưa họ vượt qua biên giới, song chúng cho thấy một tâm thức vượt ra ngoài những nhóm sắc tộc và các Nhà nước dân tộc. Điều quan trọng nhất trong thế giới đa văn hóa mà chúng ta đang nhập cuộc, dù muốn dù không, đó chính là thái độ đa văn hóa. Đây là một điểm có thể phân biệt những hội dòng thích nghi dễ dàng trong một thế giới mới đang thành hình, so với những hội dòng không được như vậy. Thái độ đa văn hóa đặt nền tảng trên niềm xác tín rằng gia đình nhân loại là một, vượt lên trên những dị biệt hữu hình. Bởi vì những khác biệt về ngôn ngữ, văn hóa, sắc tộc, phong tục là một nguồn phong phú, chứ không phải là những rào cản không thể vượt qua. Tự nền tảng, ở mức độ sâu xa nhất, chúng ta hoàn toàn như nhau. Chúng ta đến từ cùng một việc tạo dựng, và chúng ta là những thành viên của thế giới toàn cầu này vốn là một, bất chấp những chiến tranh, thù địch hay kỳ thị sắc tộc.


Di sản Kitô giáo của chúng ta, sứ điệp của Đức Giêsu, chủ yếu cũng bao gồm như vậy. Một khi nguồn gốc sắc tộc của chúng ta, hoàn cảnh kinh tế xã hội của chúng ta, và cả di sản tôn giáo của chúng ta đã trở nên những nguồn cội chia rẽ, thì chúng ta đã phạm tội chống lại chính chúng ta và chống lại Thiên Chúa. Ngày nay, chúng ta ngụp lặn trong một thế giới mà ở đó nhiều người coi sự dị biệt như một vấn đề chứ không phải một tiềm năng. Chẳng hạn ở thị trường thực phẩm, thật khó hiểu được ý nghĩa của những chú thích dễ gây mất lòng và “chúng nó” và “chúng ta”. Những ghi chú này được khơi lên bởi sự sợ hãi, một sợ hãi làm nảy sinh sự khinh bỉ và ngay cả thù hận. Chúng nảy sinh từ dạng thức cổ xưa mà nay đang chết dần. Dạng thức này còn tồn tại bao lâu, người ta không thể nói được, song hiển nhiên là nó đang giãy chết va đang trên đà được thay thế bởi một dạng thức toàn cầu. Các tu sĩ nam nữ phải thấu hiểu và đón nhận lấy dạng thức mới mẻ này bao quát hơn và xúc tích hơn. Bởi vì bảo thủ lấy dạng thức xưa, đó là chọn lựa cái chết hơn là sự sống. Khi chấp nhận tâm thức mới, người ta buộc phải dùng sự tử tế, óc sáng tạo và nỗ lực để đối kháng với những thành kiến tế vi nhất của ta, cho dù bản chất hay hình thức diễn tả chúng có thế nào.


Một khuyếch trương thực sự


Ở trên tôi đã đoán chừng rằng hoàn cảnh thực tế của chúng ta trong tương lai được kiến tạo từ một hạt nhân nhỏ bé hơn gồm những thành phần vĩnh viễn, cùng đồng hành với một số đông những con người dấn thân theo nhiều kiểu thức khác biệt. Nếu đó đúng là hoàn cảnh thực sự của chúng ta, thì hẳn là chúng ta phải chấp nhận một cách ý thức những lối mới khai mở chúng ta hầu thực hiện sứ vụ của chúng ta và theo đuổi những tác vụ quan trọng. Trong các Giáo hội Kitô giáo, cũng như trong nhiều tôn giáo khác, người ta nhận thấy một sự đổi thay có ý nghĩa, đó là càng ngày người ta càng chú ý đến những vấn đề tôn giáo, song lại bỏ qua việc thực hành tôn giáo theo định chế.  Nhiều thách đố xâm lấn từ các tu sĩ đến những người giáo dân dấn thân. Đôi khi những người giáo dân vượt lên trước các tu sĩ nam nữ, đôi khi các tu sĩ lại mở đường.


Việc nhân rộng những nhóm thiện nguyện gắn liền với những hội dòng, cho thấy rõ ràng đang xảy ra một điều gì đó quan trọng. Những con người này, có khi vừa mới tốt nghiệp phổ thông hay đại học, có khi đã qua nửa đời và có thể rút lui khỏi những hoạt động bình thường của họ trong một thời gian, quyết định tận hiến một số năm cuộc đời họ cho điều gì đó hoàn toàn khác biệt. Điều này cũng xảy ra bên ngoài bối cảnh tôn giáo. Peace Corps, SUCO, và những chương trình khác tương tự, vẫn tiếp tục lôi cuốn nhiều con người muốn tận hiến cho một dự án giúp được những người khác và đem lại cho đời họ nhiều ý nghĩa hơn. Thông thường, những con ngời tham dự vào các phong trào đó đều đã biến đổi, đời sống thường nhật và viễn tượng của họ đã thay đổi tận căn.


Nhiều người thiện nguyện liên hiệp với những hội dòng đã hướng cuộc đời mình hoàn toàn khác đi, khi mà họ đã hoàn tất việc phục vụ. Sau khi tham dự vào chương trình được đề xuất trong hội dòng của tôi (Samaritan Lay Missioner Program), một số người đã xin nhập cộng đoàn – cộng đoàn của chúng tôi hay một cộng đoàn khác; một số quí ông cũng trở thành những “hội viên liên hiệp”; những người khác chọn lựa tận hiến đời mình cho một nghề phục vụ. Quả vậy, chương trình này đã đặt những người thiện nguyện vào mối liên lạc với những nhóm người khốn khổ nhất của xã hội chúng ta: những người vô gia cư, những người mắc bệnh AIDS, những phụ nữ và trẻ em nạn nhân của của bạo lực, những người nghèo khổ. Các người thiện nguyện đó đã gắn bó với chương trình là vì sứ vụ và để phục vụ, và cuộc đời của họ không còn như xưa nữa. Trong khi gắn bó với một chương trình, nếu một vài người có ý hướng dành một năm để giúp đỡ người khác, thì sau khi rời bỏ chương trình, nhiều người lại còn tận hiến cả đời mình để phục vụ, qua nhiều phương tiện.


Hơn nữa, nhiều nhóm người làm việc với và cho những người khốn cùng. Dạng thức mới đang nảy sinh, thì chắc chắn là một dạng thức hợp tác hơn là thù nghịch: đó là con đường của tương lai. Những năng lực của chúng ta và những tài nguyên kinh tế và chính trị dĩ nhiên là có hạn, chứng thực rằng chúng ta không thể nào tự tiện nắm hai chức nghiệp, hoặc cạnh tranh. Là những tu sĩ, chúng ta phải xóa bỏ tình trạng chúng ta muốn làm lấy tất cả, hoặc hơn nữa “cho phép” những người khác giúp đỡ chúng ta, và trái lại, ta phải chấp nhận một thái độ này là tất cả những ai muốn thay đổi xã hội đều có thể làm việc chung với nhau theo nhiều cách.


Khi chúng ta coi con số là quan trọng, thì phần đông thời gian chúng ta gắn bó vào một kiểu mẫu được qui chiếu theo con số những tu sĩ chính thức. Và những con số này đang giảm dần. Nhưng nếu chúng ta lưu ý hơn tới con số những người đang dấn thân và lưu tâm đến các vấn đề, thì con số này lại đang tăng lên. Khi chúng ta quan tâm tới những hình thức làm việc có bè có bạn, thì sự chú ý của chúng ta phải hướng về sứ vụ mà lúc đó đã trở thành nhân tố trung tâm quan trọng nhất. Không quan trọng mấy việc tìm hiểu xem ai đang giữ trọng trách, ai là chủ công trình, ai là người chỉ huy. Trong tương lai, hẳn nhiên các tu sĩ nam nữ sẽ đảm nhận, khi thì một vai trò điều khiển trong một số dự án, khi thì một vai trò phụ thuộc trong những dự án khác. Sứ vụ có tiến triển hay không, đó mới là điều duy nhất đáng kể. Điều đó đòi hỏi một số tu sĩ phải thay đổi sâu xa về não trạng. Nhờ sự thay đổi này, họ có thể nhận ra những tài năng của người khác, khả năng chỉ huy và năng lực của người giáo dân và thấy cần thiết chấp nhận thường là những vai trò thứ yếu, đang khi vào thời xưa họ phải là những người khai sáng.


Khái niệm “mạng lưới” đã trở nên rất quan trọng trong những năm qua. Mượn ở kho ngữ vựng tin học, hạn từ này dần dần đi vào ngôn ngữ đến độ người ta ý thức được rằng không nhất thiết mọi người phải tham dự vào mọi trình độ hoặc làm trọn mọi chức năng. Rất nhiều nhóm hoặc tổ chức không coi mình như những tu sĩ, lại dấn thân y như những tu sĩ, phục vụ những con người, đáp ứng cũng những nhu cầu như vậy. Và rồi, mối ưu tư của họ do đó cũng là một, về sứ vụ cũng như phục vụ, cho dù họ không dùng đến những từ ngữ đó. Các tu sĩ nam nữ học biết cách đi vào “mạng lưới” với những người khác, bất chấp những khác biệt lớn lao trong tư tưởng triết học hoặc đạo đức học cơ bản của họ. Bởi vì chúng ta đang tiến đến một thời kỳ thừa nhận những khác biệt, song lại xây dựng cũng những yếu tố được chia sẻ. Khi đó chúng ta bỏ qua một số ý tưởng quá cứng ngắc, và chấp nhận việc người khác không hiểu chúng ta trên một số điểm, với điều kiện là cùng thỏa thuận trên những nguyên tắc tạo nên hợp tác của chúng ta.


Như vậy, đời tu ở thế kỷ XXI được trình bày như một hạt giống gồm những thành phần thường trực ở giữa một nhóm người đông hơn đang dấn thân. Đó sẽ là một thực tại mềm dẻo hơn, biến ảo hơn là thực tại mà chúng ta biết khi mới bước vào đời tu. Thời gian và bản chất của những dấn thân tông đồ, những vai trò khác biệt, những quyền lợi và nghĩa vụ, tất cả những điều đó đòi hỏi chúng ta phải ở lòng trì mình ra. Chúng ta sẽ không tìm thấy sự an toàn của những lối sốngvà làm việc quen thuộc, đó là những hạng mục được nắm bắt nhanh nhất. Song đó sẽ là một tương lai đầy sức sống và thách đố, đem lại một làn gió mới cho đời thánh hiến và cho cả Giáo hội. Qua các thế kỷ, đời tu đã từng biết đến những hình thức mới mẻ, mà thường phải trả giá bằng những khổ công, song lại thu gặt những phúc lộc lớn lao. Một lần nữa, tôi tin rằng, chúng ta đang đi vào một sự đổi thay cũng quan trọng như vậy. Điều mà chúng ta từng sống có thể còn tồn tại một ít thời gian trong tương lai, song khả năng thực sự của một đời sống mới đã bắt đầu ngay từ bây giờ.


 


 


.

114.864864865135.135135135250