24/04/2011 -

Suy tư, nghiên cứu

554

 


 


Đôi Cánh Tình Yêu


(con đường của thánh nữ catarina siena)


thân tặng các nữ tu Đa Minh Việt Nam


MARY ANN FATULA, OP.


 


Chương VII: ĐÔI CÁNH TÌNH YÊU




 


“Anh em thân mến, nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế, chúng ta cũng phải yêu thương nhau.” Chưa có ai “được chiêm ngưỡng Thiên Chúa bao giờ; nếu chúng ta yêu thương nhau, Thiên Chúa ở lại trong chúng ta, và tình yêu của Người nơi chúng ta mới nên hoàn hảo” (1 Ga 4:11.12). Cùng với tất cả những người mong muốn được gần gũi với đấng Thiên Chúa hằng sống, Catarina đã phải học biết mối tương quan bất khả phân ly giữa sự gắn bó với Thiên Chúa và gắn bó với tha nhân. Vì lòng thương xót Chúa đổ tràn trên chúng ta, nên chúng ta cũng phải đối xử đại lượng với anh chị em: “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15:12).


Khi yêu mến chân-lý-đã-hóa-thành-nhục-thể, Catarina không thể trốn tránh lời mời gọi hiệp nhất với nhục thể sống động mà Chúa đã mặc lấy. Như vậy, ơn gọi của chị nói lên câu chuyện của một người phụ nữ, nhờ cuộc sống của mình mà hiểu rằng, một tình yêu và sự thông hiệp vô vị lợi với tha nhân thay vì ngăn cản sự gắn bó với Thiên Chúa, sẽ thực sự kết hợp chúng ta với Thiên Chúa, đấng không chỉ sống giữa chúng ta, mà còn trở nên một với chúng ta (Ga 1:14).


TIẾNG GỌI TÌNH YÊU


Nhiều người đương thời coi là gương mù nặng nề khi thấy một số đông, cả nam lẫn nữ - bỏ mọi sự để thường xuyên sinh hoạt trong nhóm của Catarina. Họ là những người đã hoặc không lập gia đình; họ là tu sĩ, linh mục, ẩn sĩ; người quí phái và bình dân; người thất học và trí thức. Họ vui vẻ chấp nhận danh hiệu mà những người hoài nghi gán cho: nhóm Catarina. Thực vậy, sức thu hút của Catarina đã làm cho cả những người chỉ trích chị phải kinh ngạc. Tình cảm sâu xa của chị bộc phát tự nhiên trong sự dịu dàng đối với các cháu trai và cháu gái, mà chị đã có lần nói rằng không bao giờ chị chán âu yếm vuốt ve chúng. Nhiệt tình của chị ấp ủ tất cả những người đến với chị, và ở thành phố nào cũng có những người đón chào chị như một người bạn quí. Và bởi vì không ai trong famiglia của chị chịu đựng sự vắng mặt của chị thêm nữa, nên thường có rất đông người đi theo chị trong các chuyến du hành, và rất nhiều người khác cũng muốn như vậy.


Tuy nhiên, khả năng yêu thương khác thường của Catarina cũng phải trả giá cao. Vì trái tim chị cần rộng mở và chịu thanh luyện để dành chỗ cho tha nhân, nên chị cũng hiểu rằng để biết yêu thương, con người phải đấu tranh cam go như thế nào. Một Catarina, đã có lần gọi một người bạn là “bạn thân yêu, bạn yêu quí, người anh em yêu dấu của tôi, người tôi yêu thương hết lòng,” từ khi còn trẻ đã rất ngại ngùng khi phải tiếp xúc với dân chúng; và một Catarina, người bị tố cáo là yêu thương những người trong nhóm quá đáng, đã có lần ao ước chỉ mong được sống như một nhà ẩn sĩ.


Thế nhưng, chúng ta đã thấy những kinh nghiệm hình thành tính cách Catarina trong thời thanh xuân đã đưa chị tới mối liên hệ với tha nhân như thế nào. Vào khoảng năm 20 tuổi, được tiếng nói bên trong nhắc bảo phải rời bỏ cuộc sống cô tịch, Catarina từ bỏ một cách miễn cưỡng tột độ chỉ vì lời Chúa hứa rằng Người sẽ kết hiệp với chị mật thiết hơn qua sự thông hiệp với tha nhân. Người nói với chị rằng, như người ta không thể đi bằng một chân, hoặc con chim không thể bay với một cánh, thì chị không thể nào yêu mến được nếu chị cố gắng yêu mến Thiên Chúa là đấng vô hình mà lại không thông qua những anh chị em hữu hình của mình. Trong khoảng ba năm kế tiếp, Catarina dấn thân vào công việc bác ái ở trong và gần nhà, quan tâm đến những nhu cầu của người nghèo và người đau ốm; tuy nhiên, việc tiếp xúc với tha nhân vẫn khiến cho chị cảm thấy mất mát một cách sâu xa, nên mỗi khi có thể, chị lại quay về phòng để ở một mình với Chúa Kitô.


Tuy nhiên, những kinh nghiệm khác không chỉ thay đổi hành động, mà cả tâm hồn chị nữa. Chúng ta nhớ, tháng 7 năm 1370, năm 23 tuổi, chị đã có kinh nghiệm khi Chúa đáp lại lời chị cầu xin cho được trái tim tinh tuyền của Chúa. Với trái tim này, chị có thể cưu mang tình yêu tha nhân mà không cần được biết đến, trong khi gây gương mù cho nhiều người vì lòng can đảm trong tình yêu và nghịch lý trong đời sống. Nhưng Chúa muốn trì hoãn việc chị đến với Chúa, để nhiều người được trở lại nhờ chị. Như sau này chị nói với cha Raymond, tình yêu sâu xa của chị đối với tha nhân không làm hại ai, vì chị đã mua họ với giá cao nhất: “Vì họ, tôi đã phải xa lìa Thiên Chúa.”


Một lần nữa, chúng ta lại thấy, vào năm 1375, sau khi trải qua một trạng thái gần như chết lúc được Chúa in các dấu thánh, chị thổ lộ với cha Raymond rằng chị “không còn là con người trước kia nữa”. Dường như có một ngọn lửa bên trong thiêu đốt chị, “đổi mới và làm tươi trẻ” con người nội tâm của chị; một tình yêu tha nhân vô giới hạn đổ đầy tâm hồn cho đến nỗi, vì phần rỗi tha nhân, chị “sẵn sàng trải qua cái chết với niềm vui và tâm hồn hoan hỉ”.


“HÃY YÊU THƯƠNG NHAU” (1 Ga 4:11)


Catarina hiểu tình yêu sinh ra tình yêu như thế nào. Thấy mình được Thiên Chúa yêu thương một cách rộng lượng, chị không chỉ muốn đến lượt mình yêu mến Thiên Chúa, mà còn muốn yêu mến với sự vị tha của chính Người. Tuy nhiên, chắc hẳn là chị không thể thực hiện điều đó được, vì tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa chỉ có thể là biết ơn mà đáp trả tình yêu chúng ta đã nhận được trước. “Cha yêu con mà không cần được yêu lại và không được lợi lộc gì... Vì Cha yêu con mà không cần con yêu lại, ngay cả trước khi con hiện hữu... con không thể đáp đền Cha được.” Tuy nhiên, như Catarina đã biết, chúng ta có một cách để yêu mến Thiên Chúa với cũng một tình yêu vô điều kiện tuôn trào trên chúng ta. “Hỡi các con yêu quí, nếu Thiên Chúa đã yêu thương ta như thế, chúng ta cũng phải yêu thương nhau” (1 Ga 4:11). Sau cùng, chúng ta có thể yêu mến Thiên Chúa với một tình yêu vô vị lợi bằng cách vươn tới tha nhân, “yêu thương họ mà không cần họ yêu thương mình,” và yêu thương họ chính vì Thiên Chúa yêu thương họ.


”Nơi đâu có hai hay ba người họp lại vì danh Thầy, thì Thầy ở giữa họ” (Mt 18:20). Kinh nghiệm cho Catarina thấy rằng Thiên Chúa không “ở giữa” một vài người tách ra khỏi những người khác bằng sự cô lập ích kỷ; vì như vậy, “một mình” bị loại ra khỏi quan hệ bằng hữu của Thiên Chúa: “Những ai bị bao phủ trong tình yêu vị kỷ của chính mình là những người cô độc, họ không là gì cả, vì họ bị tách ra khỏi ân sủng của Cha và tách khỏi đức ái với tha nhân.”


Catarina dần dần hiểu rằng Thiên Chúa, đấng có thể dễ dàng tạo dựng mỗi người chúng ta riêng biệt, đã chọn cách tạo dựng chúng ta theo hình ảnh Ba Ngôi hiệp thông phong phú khôn tả. Chúng ta được tạo dựng trong tình trạng cần có người khác, và nếu không có tình yêu và sự giúp đỡ của tha nhân, nhất định chúng ta không sống được. “Cha muốn tạo dựng chúng con tùy thuộc vào nhau, để mỗi người trở thành thừa tác viên của Cha, phân phát ân sủng và tặng vật chúng con nhận được nơi Cha.”


Những cố gắng của chúng ta nhằm sống cô lập khỏi người khác sẽ kết thúc bằng cách hủy diệt căn tính của chúng ta, vì chúng ta đã được tạo dựng là để sống trong chính đức ái đã bùng cháy trong trái tim Thiên Chúa: “Sự đồng hình đồng dạng giữa người với người khăng khít đến nỗi khi người ta không yêu thương nhau, người ta làm mất bản tính của mình.” Nhưng hơn thế nữa, Thiên Chúa tự đồng hóa với chúng ta đến nỗi tình yêu của chúng ta đối với tha nhân cũng liên kết chúng ta với Người: “Cha đặt con ở giữa những người lân cận của con, để con có thể làm cho họ những gì con không thể làm cho Cha... Hãy yêu thương họ mà không quan tâm gì đến lòng biết ơn và không trông chờ lợi lộc gì cho con. Và bất cứ điều gì con làm cho họ, Cha sẽ kể là làm cho Cha.”


ĐỨC TIN VÀ TÌNH YÊU ĐẶC BIỆT


Có lẽ mối thân tình của Catarina với cha Raymond Capua đã hình thành môi trường trong đó Catarina lớn lên tột bậc trong khả năng yêu mến. Hơn Catarina 17 tuổi, là cựu tuyên úy nữ tu ở Montepulciano, và được chỉ định lãnh đạo Dòng Đa Minh sau khi Catarina qua đời, cha Raymond được bổ nhiệm làm giáo sư thần học tại Học viện Đa Minh ở Siena năm 1374. Trong ba năm tiếp theo, cha là cha giải tội và là người thân tín nhất của Catarina.


Năm 1377, cha được đặt làm tu viện trưởng Minerva ở Roma. Cuộc chia ly làm cho Catarina tan nát cõi lòng, và những lá thư của chị trong thời gian này cho thấy việc cha vắng mặt là điều thiệt thòi cho chị biết bao. Nhưng năm 1379, gần một năm trước khi chị qua đời, chị được đức Urban VI, đấng kế vị đức Gregorio, triệu vời tới Roma. Tuy vậy, niềm vui được tái ngộ với cha Raymond đã sớm trở thành nỗi buồn ly biệt. Trong cố gắng kéo liên minh Pháp ra khỏi giáo hoàng giả hiệu Clement VII, đức Urban sai cha Raymond đi sứ để gặp vua nước Pháp.


Cuộc gặp gỡ cuối cùng giữa cha Raymond và Catarina có ý nghĩa to lớn đối với cả hai. Sau khi hàn huyên với nhau lâu giờ, Catarina dịu dàng từ biệt cha, “Giờ đây cha hãy đi với Chúa, vì con cảm thấy rằng ở đời này chúng ta sẽ không bao giờ có được cuộc chuyện trò lâu dài như thế này nữa.” Sau đó, nhận thấy nỗi sầu buồn tương lai đang đến, Catarina tới nơi khởi hành để giã biệt và để tuôn ra những giọt nước mắt và lời chúc lành mà chị không thể nói lên lời. Khi con tàu nhổ neo, “chị quì gối cầu nguyện, rồi vừa làm dấu thánh giá vừa khóc.” Chỉ sau khi Catarina qua đời, cha Raymond mới hiểu được ý nghĩa thầm lặng của những giọt nước mắt này, vì như thể chị đang nói: “Cha hãy ra đi trong tin tưởng, nhưng cha nên biết rằng ở đời này chúng ta sẽ không bao giờ gặp lại nhau.” Và, cha Raymond nhớ lại, chính Catarina đã cho biết như thế: “Tôi ra đi, Catarina còn ở lại, và trước khi tôi trở về, thì chị đã về trời.”


Mặc dù trái tim Catarina tan nát khi nhìn cha Raymond ra đi, nhưng chị vẫn ấp ủ những mối hy vọng khác cho cha: cha sẽ thành công trong việc chinh phục liên minh Pháp về cho đức Urban, và nếu không, thì cha cũng sẽ được phúc tử đạo khi thi hành sứ vụ. Tuy nhiên, chính cha Raymond cách nào đó lại trốn tránh khát vọng tử đạo của Catarina, và sợ hãi trước cảnh tượng đạo binh Pháp đang chờ đợi cha, nên cha quay trở lại biên giới. Trái tim Catarina đã héo hắt vì cuộc ra đi của cha, nay lại tan nát vì sự nhát đảm của một người thân yêu. Biết rằng sự nhát đảm của mình đã khiến Catarina thất vọng sâu xa, cha viết cho chị rằng cha sợ vì thế mà chị sẽ bớt yêu mến cha.


Câu trả lời của Catarina không thể bộc lộ hết được lòng yêu mến và tin tưởng sâu xa đối với cha. Chị viết, chúng ta yêu mến tha nhân bằng một tình yêu và lòng tin “phổ quát”; nhưng đôi khi Thiên Chúa cũng ban một lòng tin và tình yêu “đặc biệt” “cho những kẻ yêu thương nhau thắm thiết: như thế, giữa chúng ta có một tình yêu gần gũi đặc biệt vượt quá tình yêu thông thường.” Thiên Chúa ban tặng tình yêu và sự tin tưởng lẫn nhau nhờ đó mỗi người bạn tìm được sự nâng đỡ trong gánh nặng phải mang vì Hội thánh. Những người bạn mà Thiên Chúa đã liên kết vào mối tương quan bằng hữu này không được nghi ngờ tình yêu của người kia, cũng như không được làm giảm nhẹ tình yêu của riêng mình vì bất cứ lý do gì, nhưng tốt hơn là phải nâng đỡ và trung thành yêu mến nhau. Và nếu sự chia ly hay những khiếm khuyết của người bạn có làm suy yếu tình yêu, thì đó là dấu hiệu cho thấy chúng ta chỉ mới yêu mến Thiên Chúa lẫn người bạn bằng một tình yêu bất toàn mà thôi.


Catarina nói tiếp rằng chị hiểu nỗi sợ hãi và sự bất lực mà cha Raymond cảm thấy khi nhận công tác. Nhưng nếu cha sợ sự yếu đuối của cha có thể làm cho chị bớt yêu mến cha, thì điều đó chứng tỏ cha nghi ngờ tình yêu của chị. Tuy nhiên, sự thực thì khi nghi ngờ chị, chính cha là người yêu mến chị ít hơn, còn tình yêu của chị lại lớn mạnh hơn. “Cha không hiểu đúng... chính cha chứng tỏ là con yêu mến cha hơn, còn cha thì yêu con ít hơn. Vì con yêu cha với tình yêu mà con yêu chính con... Tình yêu mà con bày tỏ với cha ngày càng mãnh liệt, chứ không suy giảm.” Với tất cả tâm hồn, chị mong muốn cha trung tín, và chị cầu xin để chỉ một mình chị biết sự nhát đảm của cha, nhưng chị sẽ vẫn trung thành với cha, làm việc vì lợi ích của cha và làm tất cả trong khả năng của chị để giúp cha đạt tới sự thánh thiện - và phúc tử đạo nếu có thể. Catarina kết thúc lá thư bằng lời xin cha kiên nhẫn với những khiếm khuyết của chị và bảo đảm với cha rằng tình yêu là động lực duy nhất thúc đẩy chị viết những lời này.


“Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe từ nơi Cha, thì Thầy đã cho anh em biết” (Ga 15:15). Khi biết được sự thân thiết giữa Catarina và cha Raymond, những người khác có thể nghi ngờ về những đau đớn mà cả hai phải chịu sau thất bại của cha tại Genoa được không? Thế nhưng Catarina đã tìm thấy trong Ga 14-17 một mô hình cho tình bạn Thiên Chúa ban: người bạn hy sinh mạng sống mình cho người khác, nhận người yêu vào nơi sâu thẳm của trái tim mình và nói với tất cả tâm tình: “Mọi sự của tôi là của bạn” (Ga 17:10).


“Tình bạn thân thiết là thế này. Tình cảm yêu thương của họ làm cho họ hai thân xác mà nên một tâm hồn, vì tình yêu biến đổi ta thành cái mà ta yêu. Và nếu những tâm hồn này làm thành một tâm hồn (với Cha), thì không gì có thể giấu được họ.” Với những lời này, Chúa Cha tỏ lộ cho Catarina biết mầu nhiệm tình bằng hữu của Thiên Chúa đối với chúng ta. Và khi những lời này dùng để diễn tả cách loại suy tình bằng hữu nhân loại do Thiên Chúa ban, thì cũng diễn tả sự thông hiệp tham dự vào đời sống nội tại của Thiên Chúa. Nhưng như chính Catarina hiểu, không ai đạt được ân huệ quí báu này mà không phải trả giá: “Anh em sẽ biết chân lý và chân lý sẽ làm cho anh em được tự do” (Ga 8:31). Thứ thông hiệp này không những đòi chúng ta phải lớn lên không ngừng trong căn tính của mình trước mặt Thiên Chúa, mà còn phải chấp nhận bén nhạy trong sự tin cậy và cởi mở hỗ tương, sự cởi mở rọi sáng cả những yếu đuối lẫn những nghị lực của nhau.


TÌNH YÊU VÔ VỊ LỢI


Khi cầu nguyện cho những người mà chị mang những nỗi đau khổ của họ trong tâm hồn mình, Catarina nhận thấy chúng ta, những người đã được tình yêu dựng nên, chúng ta không thể nào sống mà không yêu. Vì được dựng nên để yêu, chúng ta đói khát tình yêu một cách sâu sắc hơn đói khát của ăn; nỗi đau âm ỉ của nhân loại trào dâng nơi chúng ta không đòi hỏi gì khác hơn là tình yêu. Tuy nhiên, Catarina ý thức rằng, chỉ có “tình yêu hoàn hảo” mới làm chúng ta thỏa nguyện. Chúng ta được dựng nên cho tình yêu và cần đến một tình yêu không coi chúng ta như sự kéo dài của người khác, nhưng như chính chúng ta. Được giải thoát khỏi những nhu cầu lôi cuốn và chiếm hữu, thứ tình yêu vô vị lợi này không hút chúng ta vào trong căn tính và kế hoạch của người khác, nhưng kêu mời chúng ta lớn lên trong sự độc đáo của riêng mình.


Catarina cũng ý thức rằng toàn thể con người chúng ta không chỉ đòi hỏi được yêu mến, mà còn tích cực yêu mến theo cách ấy. “Nhưng bạn sẽ nói với tôi, “Vì tôi không có tình yêu như thế, và không có nó, tôi là người bất lực, làm sao tôi có thể có tình yêu ấy?”  Tôi sẽ nói cho bạn biết. Tình yêu chỉ có bằng cách yêu. Nếu bạn muốn yêu, bạn phải khởi đầu bằng yêu mến - nghĩa là bạn phải muốn yêu.” Vì chúng ta được dựng nên bằng tình yêu, nên thực sự, chúng ta “luôn luôn muốn yêu”. Tuy nhiên, chính chúng ta lại chỉ có khả năng mà Catarina gọi là “tình yêu bất toàn”, một tình yêu vươn tới tha nhân chỉ để thỏa mãn  những nhu cầu riêng của chúng ta hơn là để trao tặng cho tha nhân từ sự sung mãn và an toàn nội tâm của chúng ta.


Tình yêu qui ngã tự nhiên của chúng ta đối với Thiên Chúa và đối với tha nhân chỉ quan tâm đến lợi ích của mình và khựng lại khi gặp dấu hiệu khó khăn hoặc bất trắc nhỏ nhất. Thay vì hướng chúng ta tới sự thông hiệp đích thực với tha nhân, “tình yêu bất toàn” này hướng ta vào thế giới hạn hẹp của bản ngã chúng ta, vì nó chỉ vươn tới tha nhân khi nào nó phù hợp với lợi ích của chúng ta. Khi thấy sự bất trung hay lỗi lầm của tha nhân, ta viện cớ “khiêm nhường một cách kiêu hãnh” để rút lui, lấy lý do rằng, “Tôi không quan tâm đến những người này nữa, hay không phiền lụy vì họ nữa. Tôi sẽ chỉ lo cho tôi; tôi không muốn làm tổn thương đến tôi cũng như họ.”


“Nếu bạn buồn phiền vì họ không còn đi lại hay an ủi bạn, hoặc họ yêu mến ai khác hơn bạn,” thì đó là những dấu hiệu của một tình yêu qui ngã. Và vì trong thực tế hai tình yêu này là một tình yêu không thể tách rời, nên tình yêu của chúng ta đối với tha nhân cũng mang cùng một mức độ ích kỷ như tình yêu đối với Thiên Chúa: “Họ yêu người lân cận với cùng một tình yêu họ yêu Cha - nghĩa là vì lợi ích của họ.” Vì vậy, khi rút lại tình yêu tha nhân vì những lý do vị kỷ, chúng ta không tránh khỏi giảm sút lòng yêu mến đối với Thiên Chúa.


Catarina ngày càng xác tín rằng một mối quan hệ hình thành bên ngoài lòng yêu mến Thiên Chúa sẽ không đem lại sự hiệp nhất thực sự, và “sẽ không bền vững hơn niềm vui và ích lợi chúng ta rút ra từ đó.” Khi yêu mến Thiên Chúa “có hạn định” và yêu mến người khác “không hạn định”, chúng ta đã thay thế đức ái của Thiên Chúa bằng cái mà Catarina gọi là “nhục cảm vị kỉ.” Chị mô tả tình yêu qui ngã như một tên trộm thông minh lẻn vào “căn nhà” mối quan hệ của ta và dần dần đánh cắp tình yêu quảng đại đặt nền tảng nơi Thiên Chúa. Nếu không nhận thức được kiểu chơi lừa bịp ấy, một ngày kia chúng ta sẽ thấy toàn bộ ngôi nhà bị phá hủy.


Sự ích kỷ như thế làm cho đời sống chúng ta như nếm trước hỏa ngục, vì chúng ta không ngừng phải chịu đựng vừa sợ mất mát cái chúng ta có, vừa khao khát cái chúng ta muốn mà không được. Thay vì yêu mến tha nhân “trong Chúa”, với trái tim tự do và chỉ gắn bó với Chúa, tình yêu ích kỷ lại hướng về tha nhân để chiếm giữ, một cách ràng buộc. Catarina viết cho Monna Biancina Salimbeni, “Chúng ta tiếp tục tạo ra những ràng buộc. Nếu Chúa cắt đi một nhánh, chúng ta lại tạo ra nhánh khác.” Chị nhắc nhở người khác rằng khi chúng ta thay thế mối dây ràng buộc của tình yêu Thánh Linh bằng mối dây tình yêu vị kỷ, thì thay vì sự hiệp nhất, chúng ta chỉ đạt được “sự chia rẽ và phân tán không đi tới đâu hết.” Chị viết cho cháu là Eugenia, “Đừng ràng buộc tâm hồn cháu với ai ngoại trừ Chúa Giêsu, vì sẽ có lúc cháu muốn cho tâm hồn được tự do mà không thể được.”


Khi yêu bằng một tình yêu bất toàn, chúng ta không bao giờ được bình an, vì chúng ta cũng sẽ không thể chịu đựng được ngay cả người bạn mà chúng ta đã từng yêu thương. “Họ yêu và chiếm hữu các thụ tạo ở ngoài Cha, và vì thế họ sẽ bị dằn vặt suốt đời, trở thành không thể chịu đựng được ngay cả đối với chính mình.” Tuy nhiên, nếu chúng ta cởi mở với tình yêu ấy, chúng ta sẽ nhận được một quà tặng ẩn dưới nỗi đau của mối tương quan vị kỷ, vì Thiên Chúa thường cho phép chúng ta “hình thành nên một tình yêu như thế” để chúng ta nhận ra sự yếu đuối và nhu cầu cần phải lớn lên trong tình yêu mà duy một mình Thiên Chúa mới có thể ban tặng chúng ta.


PHÁT XUẤT TỪ NGUỒN MẠCH TÌNH YÊU


Chúa Giêsu truyền cho chúng ta yêu thương tha nhân như Người đã yêu thương chúng ta (Ga 13:34). Catarina biết rằng Chúa không cho phép thêm vào một hạn chế nào, “Nếu họ xúc phạm đến bạn, bạn đừng yêu thương họ.” Thiên Chúa Ba Ngôi đã dựng nên chúng ta để chúng ta yêu thương như Chúa Giêsu đã yêu thương, môt cách vô vị lợi và “không quan tâm” đến tư lợi của chúng ta, một cách mật thiết, với trái tim tự do, và vì thiện ích của tha nhân hơn là của chính mình. Thế nhưng ngay cả khi chúng ta có vẻ như yêu thương một cách vô vị lợi, chúng ta cũng thường chỉ nhắm tới những nhu cầu của mình. Ở đây, Catarina hiểu rằng chúng ta chỉ đạt được hồng ân tình yêu vô vị lợi bằng cách tạo lập ngôi nhà của chúng ta trong chốn cư ngụ bên trong của việc tự biết mình, nơi đó chúng ta hiểu biết các nhu cầu của mình và lòng thương xót của Thiên Chúa. Catarina hiểu rằng chính đó là ân huệ Thiên Chúa ban để chúng ta nhận ra những thất bại của mình trong tình yêu, vì sự thật đau đớn nhưng giải thoát (Ga 8:31) sẽ làm cho tất cả chúng ta trở nên mảnh đất mầu mỡ hầu đón nhận sức mạnh của Thiên Chúa để yêu thương.


Trong cầu nguyện, Catarina biết rằng trái tim Thiên Chúa, “giếng đức ái sâu thẳm,” đã trở nên “điên dại vì yêu” chúng ta đến nỗi dường như Người không thể sống nếu không có chúng ta. Chúa Cha ban tặng tình yêu dịu dàng vô biên trong mọi công trình của Người. Nếu chúng ta chạy trốn Người, Người chạy đến với chúng ta; chúng ta càng phạm tội, Người càng đến gần chúng ta. Chúa Con ẩn mình trong nhân tính của chúng ta và “gần chúng               ta hơn bao giờ hết.” Và mặc dù chúng ta chỉ đáng phạt vì tội lỗi, nhưng Chúa Cha đã tìm được một cách tốt hơn, một cách ngọt ngào và êm dịu nhất mà Người có thể tìm được, vì Người thấy chỉ có tình yêu mới chiến thắng được trái tim con người. Vì duy có tình yêu mới làm cho chúng ta hiện hữu, nên chúng ta chỉ bị khuất phục bởi tình yêu; như vậy là Chúa Ba Ngôi không ngừng “ném mồi tình yêu” về phía chúng ta. Và khi chúng ta ngạc nhiên tại sao Thiên Chúa yêu thương chúng ta như vậy, Chúa Cha trả lời, “Hãy nhìn vào con và con sẽ thấy Cha yêu gì.”


“Hãy xin thì sẽ được ban cho” (Lc 11:9). Caffarini, một người bạn của Catarina, viết rằng mỗi ngày trong đời sống, chị đều xin được yêu mến một cách hoàn hảo, và chính chị không ngừng nhấn mạnh rằng Thiên Chúa đổ tràn ân huệ của Người cho những kẻ khát khao. Catarina muốn đổi trái tim mình lấy trái tim Chúa, và lòng chị khao khát Máu thánh Chúa Giêsu - chiều kích linh đạo của chị có vẻ là qúa đáng đối với ngày nay - điều này nói lên một chân lý hết sức sâu sắc đễn nỗi chúng ta khó có thể diễn tả được, đó là chúng ta cần có trái tim của Thiên Chúa để yêu thương một cách vô vị lợi. Chắc chắn khi cầu nguyện, “Lạy Chúa, con dâng trái tim con cho Chúa,” thì chị cũng cầu nguyện “Lạy Chúa, xin ban cho con trái tim của Chúa.” Và không có biểu tượng nào diễn tả một cách cụ thể hoặc triệt để tình yêu vô điều kiện của trái tim Thiên Chúa cho bằng Máu thánh đổ ra từ thân thể tan nát của Chúa Giêsu.


Vì thế, Catarina mời gọi chúng ta hãy đến với thập giá, ở đó chúng ta thấy kinh nguyện như là người mẹ của một tình yêu vô vị lợi. Vì kinh nguyện hiệp nhất chúng ta với “lửa tình yêu”, và những gì chạm vào lửa đều biến thành lửa. Chị hình dung Chúa như suối nước ban sự sống (Ga 4:14) làm thỏa mãn tâm hồn con người bằng tình yêu vô giới hạn. Khi yêu thương tha nhân bằng cách rút ra từ nguồn suối này, khả năng yêu thương của chúng ta sẽ tăng trưởng thay vì tàn lụi; chỉ khi nào chúng ta lấy cái bình tâm hồn ra khỏi dòng suối, khi ấy nó mới cạn. Tuy nhiên, trong khi uống, nếu chúng ta giữ trái tim “trong dòng suối”, “nó sẽ không cạn; phải, nó luôn luôn đầy.” Và vì yêu thương không phải là dễ - bởi lẽ sự cô độc và tính chiếm hữu của chúng ta không phải một sớm một chiều mà bị tiêu diệt - nên Thiên Chúa mời chúng ta uống lấy tất cả tình yêu của tha nhân chỉ trong Người mà thôi và “không vụ lợi”.


Catarina viết cho Donna Mellina Lucca rằng, khi yêu thương tha nhân theo cách này, chúng ta yêu họ “trong Chúa”. Thánh Âu Tinh, người mà tư tưởng rất có ảnh hưởng đối với Catarina, giải thích ý nghĩa của việc yêu thương tha nhân “trong Chúa”. Suy tư từ đoạn thư thánh Phaolô gửi ông Philemon, “Ước mong tâm hồn tôi được phục hồi nhờ tình yêu của bạn, và tôi vui sướng vì bạn trong Chúa,” thánh Âu Tinh giải thích rằng nhục dục bám vào thực tại thụ tạo mà không qui hướng về Thiên Chúa. Tuy nhiên, vì chỉ có tình yêu vô biên của Thiên Chúa mới lấp đầy được nỗi đau của nhân loại, nên những cố gắng nhằm thỏa mãn trái tim chúng ta chỉ bằng thiện hảo thụ tạo mà thôi chỉ đem lại thêm cho chúng ta sự trống rỗng.


Như vậy, khi yêu tha nhân “trong Chúa,” chúng ta hưởng nếm tình yêu, không phải như một nơi nghỉ ngơi thường xuyên, nhưng như niềm an ủi và sức mạnh cho chúng ta là lữ khách trên đường về quê nhà. Cũng như sự giải khát làm cho lữ khách có thể tiếp tục cuộc hành trình, thì niềm vui trong tình yêu tha nhân sẽ hỗ trợ và nâng đỡ chúng ta hướng trái tim về Thiên Chúa. Đến lượt chúng ta, chúng ta sẽ bắt kịp những người được chúng ta yêu thương và đồng hành với họ trong cuộc hành trình, nhờ đó, họ cũng có thể yêu mến Thiên Chúa với tất cả tâm hồn. Như thánh nữ Thérèse Lisieux sau này nói, bất cứ tình yêu nào không qui hướng về Thiên Chúa theo cách này, thì rốt cuộc đều trở thành một tình yêu giả dối.


ĐỨC ÁI, SỢI DÂY RÀNG BUỘC


CỦA CHÚA THÁNH THẦN


Như những người bơi dưới nước, người yêu mến “trong Chúa” chỉ thấy mọi sự trong đại dương tình yêu Thiên Chúa. Chị Catarina thích nghĩ đến thánh nữ Maria Macđala, người mà tình yêu đã  cho thấy khuôn mặt của Chúa Giêsu ở khắp mọi nơi. Không chú ý đến những người lính canh, cũng chẳng kể gì tai tiếng, Macđala chạy đến mộ Chúa với một mục đích, đó là tìm kiếm và đi theo Chúa của chị; vì, so sánh với tình yêu của Người, những điều phù phiếm trước đây không còn hấp dẫn chị nữa. Như Macđala, khi yêu mến “trong Chúa,” chúng ta nhìn thấy mọi sự trong ánh sáng tình yêu của Người và “không còn ham muốn bất cứ điều gì ở ngoài Thiên Chúa nữa.”


Catarina khám phá ra biểu tượng của Chúa Thánh Thần, nguồn mạch mọi tình yêu, trong hình ảnh dịu dàng của bà mẹ nuôi nấng con nhỏ. Như Chúa Giêsu nuôi dưỡng chúng ta nơi ngực Người, thì Chúa Thánh Thần, bà mẹ chúng ta, nuôi dưỡng chúng ta nơi ngực Thiên Chúa, dịu dàng cho ta uống sữa là tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Catarina xác tín rằng, nếu chúng ta biết nếm tất cả những kinh nghiệm của cuộc sống trong sữa này, tất cả mọi sự chúng ta trải qua sẽ để lại hương vị ngọt ngào. Chị diễn tả đức ái như một bà mẹ nuôi dưỡng các nhân đức; vì như bà mẹ này không bao giờ nghỉ ngơi, đức ái cũng làm việc cho chúng ta cả khi chúng ta ngủ, làm cho mọi sự trở nên lợi ích cho chúng ta khi chúng ta sống trong tình yêu. “Ôi đức ái đầy hoan lạc! Ngươi là bà mẹ nuôi dưỡng các nhân đức như con thơ trong lòng mẹ. Ngươi giàu sang hơn mọi thứ giàu sang, giàu sang đến nỗi linh hồn ở trong ngươi không thể nghèo được.” Và vì đức ái hiệp nhất chúng ta với chính vẻ đẹp, nên nó chiếu giãi nơi chúng ta vẻ huy hoàng diễm lệ hơn bất cứ vẻ đẹp vật chất nào.


Trái với sự ích kỷ, đức ái ràng buộc chúng ta với người khác đến nỗi “người này yêu cái gì thì người kia cũng yêu cái đó.” Đang khi tình yêu ích kỷ tách chúng ta ra khỏi tha nhân, thì đức ái mở rộng trái tim chúng ta cho tới khi chúng ta chứa đựng cả thế giới. Như cha Raymond kể lại, Catarina hiểu được những hệ quả thực tiễn của việc mở rộng tình yêu, vì chị luôn luôn gặp gỡ Đức Kitô “nơi người nghèo”, chị khám phá ra rằng những gì chị rộng rãi làm cho người nghèo túng thực ra là làm cho chính Đức Kitô. Chị biết rằng tình yêu Thiên Chúa không cho phép chúng ta thờ ơ với người nghèo, vì, như mọi mối quan hệ dựa trên sự ích kỷ rốt cuộc sẽ tiêu tan, thì đức ái không vươn tới người nghèo cuối cùng sẽ trở thành lời nói dối.


Vì không ai trong famiglia muốn vắng Catarina, nên các cuộc hành trình của chị thường gây nên sự ghen tỵ giữa các đồ đệ. Những người may mắn được đi với chị - và ngay cả chính chị - trong trường hợp này, đôi khi trở thành mục tiêu của những câu chuyện đàm tiếu khi họ vắng mặt. Nhưng chúng ta chỉ cần đọc một số lá thư Catarina gửi cho những người còn ở lại Siena để thấy sức mạnh của chị trong sự dấn thân vì đức ái, một đức ái “kiên nhẫn và dịu dàng” (1 Cr 13:14). Thương cảm và kính trọng những người có vẻ không quan trọng, đức ái không khinh thị một ai, và chú tâm đến khiếm khuyết của riêng mình hơn là của tha nhân.


Khi chúng ta sống trong sự bao bọc của đức ái Chúa Thánh Thần, tình yêu của chúng ta đối với tha nhân sẽ trở nên sâu xa hơn ngay cả trong những thời điểm khó khăn. Kinh nghiệm riêng của Catarina cho chị thấy rằng ý thức về những yếu đuối của mình, và cảm thông với những yếu đuối của tha nhân, đó là con đường chắc chắn đưa chúng ta tới sự bình an và hiệp nhất. “Mọi sự phân rẽ đều bắt đầu từ việc chú ý đến lầm lỗi của người khác thay vì của mình.” Catarina thấy sự kiên nhẫn và tha thứ cho nhau sẽ củng cố đức ái giữa chúng ta đến mức sau cùng không gì có thể chia cách chúng ta nữa, kể cả trong những khác biệt. Như sức mạnh của tình yêu Chúa Thánh Thần đã giữ chặt Con Thiên Chúa trên thập giá, thì cũng một Chúa Thánh Thần này ràng buộc chúng ta lại với nhau bằng một tình yêu mạnh mẽ và trung thành mãi mãi. “Được mặc lấy ngọn lửa Chúa Thánh Thần,” y phục đó “mạnh mẽ và bền bỉ đến nỗi không gì có thể làm cho sợi vải giãn ra được,” chúng ta có thể tín thác vào tình yêu đối với nhau để đào sâu thay vì làm suy giảm tình yêu đó theo thời gian.


TÌNH YÊU BỀN VỮNG


Dù cái chết cũng không thể tách rời những người mà Thánh Thần đã hiệp nhất, vì sợi dây đức ái không những tiếp tục mãi mãi, mà ngay từ bây giờ còn mở ra cho chúng ta thấy chiều sâu sự hiệp thông của các thánh. Chính Catarina đã hứa rằng chị sẽ giúp ích cho các bạn hữu sau khi chết hơn khi còn sinh thời. Và, cha Raymond, mặc dù chưa nhận được lời báo về cái chết của chị, nhưng đã cảm nghiệm thấy chị đang nói với tâm hồn cha những lời này, vào một ngày ở Genoa: “Đừng sợ hãi gì. Con ở đây là vì cha. Con ở trên thiên đàng là vì cha. Con sẽ bảo vệ và bênh vực cha. Đừng lo lắng; đừng sợ hãi.” Thậm chí trước khi qua đời, Catarina cũng đã cảm nhận được sự hiệp thông gần gũi với hai người bạn mà chị chưa từng gặp mặt trên đời, đó là chị Maria Macđala và Agnes Montepulciano.


Những suy tư của Catarina vào giây phút ly trần cho thấy chị đã cảm nhận một cách sâu xa vẻ đẹp của tình yêu nhờ đó Chúa Ba Ngôi liên kết chúng ta với nhau. Cửa thiên đàng mở ra cho chúng ta nhờ máu Chúa Kitô, và giống như cô phù dâu trang điểm chuẩn bị cho lễ cưới, thì các nhân đức tháp tùng chúng ta tới cửa - nhưng rồi dừng lại ở ngưỡng cửa. Khi ấy, đức ái xuất hiện, đức ái là cô dâu; để các tì nữ ở lại lối vào, còn một mình đức ái tiến vào phòng cưới. Không có nhân đức nào khác vào thiên đàng, vì không có nhân đức nào khác cần thiết ở đây - “đức tin không, đức cậy cũng không, đức kiên nhẫn cũng không.” Như những cô phù dâu, các nhân đức khác chuẩn bị cho chúng ta vào thiên đàng, nhưng đức ái lãnh nhận phần thưởng, vì duy có tình yêu đã liên kết chúng ta với Thiên Chúa trên dương gian thì giờ đây bước vào thiên đàng và trở nên chính sự sống của nó.


Trên thiên đàng, tình yêu của chúng ta đối với tha nhân nơi dương thế có tồn tại không? Catarina viết rằng lúc này tình yêu cho chúng ta nếm thử hương vị thân thiết sẽ là của chúng ta mãi mãi. Vì trong khi đức ái hiệp nhất chúng ta với mọi người, chúng ta sẽ cảm nghiệm được sự gắn bó duy nhất với những người chúng ta yêu quí nhất trên đời: “Họ biết đến một thứ chia sẻ đặc biệt với những người họ đã yêu mến hết lòng.” Khi đã giúp nhau sống cho Thiên Chúa ở trần gian, chúng ta không mất đi lòng yêu mến nhau trên thiên đàng. “Không, họ vẫn yêu thương và chia sẻ với mọi người, thậm chí còn thân thiết và đầy đủ hơn, cộng thêm tình yêu của họ vào sự thiện hảo của tất cả mọi người.”


Niềm vui của những người gắn bó chặt chẽ với nhau trên dương thế sẽ trở thành niềm vui của tất cả mọi người trên trời, vì khi đạt tới sự sống đời đời, mọi người trên trời sẽ chia sẻ niềm vui với chúng ta, và chúng ta chia sẻ niềm vui với họ. Khi chúng ta tới thiên đàng, các thánh “cảm nghiệm hạnh phúc mới mẻ của các ngài -  sự vui tươi, hân hoan, mừng rỡ” khi đón nhận chúng ta vào trong vòng tay của các ngài. Và tất cả những gì Thiên Chúa đã làm cho mỗi người chúng ta sẽ là lý do sâu xa khiến mọi người ca tụng ngợi khen Chúa.


Cũng một tình cảm trong đó chúng ta chết đi sẽ trở thành sự thân mật trong đó chúng ta được sống mãi, và niềm vui của chúng ta mở rộng theo mức độ tình yêu. Vì đức ái nối kết chúng ta với Thiên Chúa và với người khác, nên tình yêu sẽ khiến cho niềm vui của một người trở thành niềm vui của tất cả mọi người. Chúng ta sẽ tiến vào sự vui mừng khôn tả của Thiên Chúa Ba Ngôi, và niềm vui của Thiên Chúa sẽ trở thành niềm vui của chúng ta; đổi lại, niềm vui của mỗi người sẽ thêm vào niềm vui của tất cả mọi người, “Tình yêu phong phú và đức ái chan hòa lẫn nhau đến nỗi người nhỏ nhất cũng không ghen tị với người lớn nhất... Mọi người đều hài lòng và hạnh phúc trong niềm vui đối với nhau.” Người “nhỏ” tham dự vào phần thưởng của “người lớn”, và “người lớn thấy vui nơi phần thưởng của người nho.” Như vậy, các thánh nóng lòng chờ đợi chúng ta nơi ngưỡng cửa thiên đàng, giơ đôi tay tình yêu ra hiệu vẫy gọi chúng ta vào nhà.


Catarina có lần nói, “Bản tính của tôi là lửa,” và đấng đã đòi hỏi toàn thể con người của chị chính là vực thẳm của ngọn lửa đó. Những lời cuối cùng của chị trên giường chết diễn tả lời mà trọn đời chị đã nói, “Hãy yêu thương nhau.” Từ Thiên Chúa “điên dại vì yêu” chúng ta, chị đã biết cách ôm ấp những người mà vì họ chị đã bị chia cách khỏi Thiên Chúa. Dù cả cái chết cũng không thể phá hủy sợi dây ràng buộc mà Thiên Chúa đã tạo dựng giữa chị và những kẻ Chúa đã ban cho chị. Trong một lời nguyện khoảng ba tháng trước lúc qua đời, khi mà, như chính chị đã nói, các huyết mạch trong thân thể chị “đã tan vỡ tất cả”, thì chị cầu cùng Chúa Cha, “Xin Cha hãy liên kết họ bằng sợi xích êm dịu của đức ái... xin đừng để một ai bị giựt mất khỏi tay con... Con xin dâng và trao phó các con cái của con cho Cha, những người mà con yêu thương rất nhiều, vì họ là linh hồn của con.”


Ngọn lửa và tình yêu đậm đà của Chúa Giêsu đã trở nên của Catarina. Trái tim chị, vốn dễ xúc động như trái tim trẻ thơ, có thể được an ủi nhờ những lá thư, và có thể bị xúc phạm bởi sự vô tâm; nhưng đó cũng là trái tim mà chị đã xin Chúa Giêsu ép đến cạn kiệt vì khuôn mặt thương tích và yêu thương của Hội thánh Người. Những cánh tay vốn yêu thích hái hoa, chăm sóc trẻ thơ, ôm ấp những người thân yêu, cũng là những cánh tay đã đón nhận cái đầu lì lợm của người thanh niên mà tình yêu thương của chị đã giúp anh ta quay về với Chúa.


Tình yêu của Catarina không ủy mị. Sự dịu dàng trong tình cảm của chị cũng tương đương như sự mạnh mẽ; nhiệt tình của trái tim chị cũng tương đương như sự thanh khiết và tự do. Trái tim chị chỉ thuộc về một đấng duy nhất, và, tất cả mọi mối liên hệ khác của chị nhận lấy máu từ tình yêu duy nhất này như từ mạch suối và ngọn lửa, rồi cùng với chị chảy về nguồn mạch ấy như cùng đích tối hậu. Khi Catarina hỏi làm thế nào để có được một tình yêu như thế, câu trả lời của Chúa trở thành câu trả lời mà chắc chắn chị sẽ dùng để trả lời chúng ta hôm nay, vì “ở đâu hai người bạn có cùng một tâm hồn, thì ở giữa họ không còn có gì là bí mật.” “Tình yêu được sinh ra trong tình yêu, bằng cách hướng đôi mắt tâm hồn để nhận ra được Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế nào.”

114.864864865135.135135135250