11/11/2010 -

Suy tư, nghiên cứu

477


 Dấu chỉ thời đại [1] (3/3)


 


Giuse Nguyễn Trọng Viễn OP.


 


1. Lịch sử


2. Ý niệm Dấu chỉ trong văn mạch Vatican II


3. Sống đức Tin trong dòng lịch sử hôm nay


Việc xuất hiện từ ngữ “dấu chỉ thời đại” trong các bản văn Công đồng cũng như trong thần học hiện đại tạo nên một ảnh hưởng rộng rãi về điều người ta gọi là ý thức về lịch sử tính. Chiều kích lịch sử trở nên một phạm trù nền tảng và phổ biến, hiện diện trong mọi quan niệm về mạc khải, về niềm tin, về Giáo Hội, về ơn cứu độ và về thần học. Chúng ta ghi nhận một vài nét biến chuyển.


3.1 Truyền thống Do thái - Kitô giáo và việc đọc dấu chỉ

Niềm Tin Do Thái Kitô giáo luôn luôn xác tín về tác động của Thiên Chúa trong dòng lịch sử, đó là một Thiên Chúa của lịch sử cứu độ. Thiên Chúa đã dính dáng vào lịch sử của một Dân để qua đó, đi vào lịch sử của cả nhân loại. Thiên Chúa đã can thiệp vào diễn tiến lịch sử của Dân Chúa và lịch sử nhân loại bằng quyền năng và tình yêu lớn lao của Ngài, được soi dẫn bằng những “dấu chỉ” trong dòng lịch sử ấy. Nẻo đường chân chính đưa con người tiếp xúc với Thiên Chúa không phải là xuất thần, nhưng là một sự trung tín từng ngày với những dấu chỉ của Thiên Chúa được biểu lộ trong dòng cuộc sống. Đời sống đức Tin như thế trở nên một lịch sử nghĩa tình và có khả năng dẫn dắt người tín hữu đi vào nhiệm cục cứu độ của Thiên Chúa.


Tuy nhiên, sự can thiệp và dẫn dắt của Thiên Chúa không phải là một sự cưỡng chế mà bằng một “lời mời gọi” Ngài không luôn bẻ quặt chiều hướng lịch sử nhưng muốn được nhìn nhận và được đón nhận một cách tự do trong lòng tin. Chính vì thế, Ngài ban những dấu chỉ và chính bản thân Ngài trở thành “Dấu chỉ” mời gọi lời đáp trả của nhân loại.


Do đó, vận mạng của con người không phải được đúc khuôn từ trong ý định của Thiên Chúa, nhưng chính là hành trình đáp lại một ơn ban, là thể hiện mình như được Thiên Chúa mời gọi để tiến vào sự hiệp nhất trong tình yêu với chính Ngài. Hồng ân tuyệt diệu của Thiên Chúa sẽ trở thành “vô nghĩa” đối với con người, nếu con người từ chối chính ý nghĩa của niềm Tin.


Như thế, cùng với Thiên Chúa, con người cũng được coi như kẻ tác tạo nên lịch sử đích thực, chứ không phải chỉ là một dụng cụ thuần túy trong tay một số phận vô ngã từ trên cao, cũng không phải là một trò chơi may rủi như một sự “tổng hoà của những mối quan hệ” cũẫ hội loài người..


Dưới ánh sáng mạc khải, định mệnh duy nhất của con người nằm trong một tiếng gọi phổ quát của ơn cứu độ, thể hiện một sự tôn trọng sâu xa đối với sự độc lập tự do của con người trong lịch sử của mình. Con người xây dựng nên lịch sử của mình trong một sự tự lập thực sự và hữu hiệu, ngay cả khi lịch sử ấy gắn liền với hoạt động quan phòng của Thiên Chúa. Điều đó cũng có nghĩa là ý nghĩa của lịch sử được tác tạo nên từ những ai làm ra chúng, đó là con người và Thiên Chúa[1]. Hơn nữa, lịch sử đó không phải là một vòng tròn khép kín gồm các biến cố lập đi lập lại trong một chu kỳ qui hồi, trong một qui luật cố định. Lịch sử là một nẻo đường mở đối với lựa chọn của con người, lựa chọn ý nghĩa hoặc không ý nghĩa, trong một chuỗi các biến cố; những biến cố này là hoa trái của sự quan phòng nhiệm mầu tối cao và đáng kính trọng.


Khởi từ Vatican II, có một nỗ lực triển khai trong chiều hướng thần học lịch sử và cụ thể để đưa Giáo Hội thoát khỏi một lối nhìn siêu lịch sử và suy diễn mọi sự từ một nguyên lý trừu tượng; để mở ra cho Giáo Hội sự hiểu biết đa dạng, xuyên qua không gian và thời gian, qua những nền văn hoá và văn minh. Cuộc gặp gỡ lịch sử giữa con người và Thiên Chúa, dưới ánh sáng đức Tin, là ý nghĩa đích thực của tất cả lịch sử và do đó, trở nên “lịch sử cứu độ” hay “nhiệm cục cứu độ”. Chân lý cứu độ không còn là một hệ thống các ý tưởng soi sáng chúng ta từ trên cao, nhưng là một lịch sử hướng tới tương lai đầy tràn ý nghĩa mà con người không ngừng khám phá, xây dựng, thông hiểu và tác tạo nên.


3.2 Thái độ trân trọng thực tại trần gian

Để đọc được những dấu chỉ thời đại, trước tiên phải hoà mình vào những diễn tiến lịch sử, nhận ra những trào lưu lớn xuyên suốt lịch sử, cũng như những nỗ lực cụ thể mong muốn biến đổi dòng lịch sử ấy. Nẻo đường ấy giả thiết thái độ trân trọng thực tại như nó là, thực tại trong những gốc rễ trần thế của chúng; với những nguyên nhân thực và những chiều kích mà chúng bao hàm.


Cách thức đọc dấu chỉ của người Kitô hữu về lịch sử là thái độ muốn khám phá sự phát triển nội tại của cuộc sống con người và hoàn thành nó như một lời đáp đối với thực tại của hồng ân Thiên Chúa. Thực tại trần thế không phải là chuyện phù phiếm, không phải là chuyện bên lề, không phải là duyên cớ làm xa rời Thiên Chúa. Ngược lại, cần trân trọng “thực tại tính” để có thể đọc và giải thích chúng trong ánh sáng cứu độ. Người tín hữu cần phải sống trọn hành trình cuộc đời mình, phải sử dụng hết những dụng cụ có thể của con người để đọc dấu chỉ, phải cẩn thận nhìn nhận các thực tại hiển nhiên của lịch sử, phải nghiên cứu với tất cả phương tiện của các khoa học nhân văn. Nói cách khác, việc đọc của người Kitô hữu không thể chối từ, hoặc đi ngược lại những dữ kiện thực tế. Do đó, người ta khám phá tầm quan trọng của những khoa học nhân văn và những hiểu biết về văn hoá trong suy tư thần học cũng như trong đời sống đức Tin.


Khi đặt mình trong một thái độ lắng nghe, thái độ đồng hành, thái độ có thiện cảm với nhân loại, người ta  mới có khả năng biện phận ý nghĩa đích thực của các dấu chỉ. Điều đó không có nghĩa là nói vâng với mọi chuyện, hoặc coi như mọi chuyện không có gì quan trọng, không có gì nguy hiểm. Một mối thiện cảm đích thực cũng bao hàm thái độ dám thể hiện vai trò ngôn sứ để tố cáo những sai lạc và dám đi ngược lại những gì mà đám đông quần chúng đang theo đuổi.


3.3 Thái độ khiêm tốn và đối thoại

Từ Công đồng, người ta thấy triển khai một thái độ nhạy cảm lớn đối với tầm quan trọng của việc lắng nghe, đón nhận và liên đới với những người người bên cạnh chúng ta, trong đời sống, trong hành động, cũng như trong ý muốn kiên định nhằm tìm kiếm nẻo đường thăng tiến đích thực cho lịch sử nhân loại.


Giáo Hội không muốn đặt mình ở vị trí là “thầy” thiên hạ; nhưng còn muốn lắng nghe, muốn thâu nhận những giá trị đích thực của các nền văn hoá cũng như các trào lưu nhân bản. Với một thái độ khiêm tốn hơn, Giáo hội muốn mở rộng lòng kính trọng tất cả những gì khác biệt với mình, muốn chia sẻ ưu tư với con người, với các dân tộc, các chủng tộc, các nền văn hoá, các nền văn minh, các tầng lớp xã hội, các nhóm người khác nhau.


Như thế, nẻo đường phát triển của Nước Trời không còn là con đường độc đạo, con đường một chiều, nhưng mở rộng đối với những gì khác biệt. Dĩ nhiên, thái độ ấy luôn đặt nền trên niềm tin tưởng vào đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ duy nhất của nhân loại và toàn thể lịch sử vụ trụ; nẻo đường ấy không thể hướng tới một chân trời nào khác hơn là sự thành toàn của Nước Trời.


3.4  Sống với Chúa trong một cuộc phiêu lưu

 Thiên Chúa sáng tạo con người như một thụ tạo có “cứu cánh” nơi chính mình chứ không phải là một phương tiện hay một dụng cụ :


“Con người, tạo vật duy nhất ở trần gian được Thiên Chúa dựng nên vì chính họ, chỉ có thể gặp lại chính bản thân mình nhờ thành thực hiến dâng” (MV 24)


Do đó, con người được mời gọi chứ không bị “sỏ mũi”, con người cần sáng suốt để lắng nghe chứ không bị “bịt mắt”, con người được tự do thực hiện vận mạng của mình chứ không phải là rập khuôn theo một công thức.


Với nhãn quan lịch sử, đời sống Kitô hữu trở thành một hành trình cùng với Chúa, hành trình trong sự dẫn dắt của Thần Khí Chúa để cùng khám phá và sáng tạo, cùng quyết định và nhập cuộc trong dòng lịch sử. Đó đích thực là một cuộc “phiêu lưu” với Chúa chứ không phải là một bài tập để tìm một đáp số có sẵn, không phải là một thử thách vô nghĩa chỉ nhằm tới một phần thưởng hoàn toàn xa lạ với cuộc sống hiện tại.


Trong cuộc phiêu lưu này, con người thể hiện được một sự công chính mới, bằng thái độ lắng nghe và suy niệm  như đức Maria, để tự nguyện đáp lại một cách sáng tạo lời mời gọi yêu thương của Thiên Chúa trong đức Giêsu Kitô. Đó là một cuộc phiêu lưu luôn rộng mở với những diễn tiến trong dòng lịch sử chứ không phải đóng khung trong một qui luật tất định tiền chế.


3.5 Vài dấu chỉ thời đại tiêu biểu của thời đại

Công đồng cho chúng ta một vài dấu chỉ tiêu biểu của thời đại như : khát vọng hiệp nhất (X. HN 4); vai trò của người giáo dân (X. LM 9); tình liên đới giữa các dân tộc (X. TĐ 14); quyền tự do tôn giáo (X. TD 15); lòng nhiệt thành với phụng vụ (X. PV 43); . . .


Cùng với những nỗ lực của Công đồng, người ta còn có thể kể ra một số hiện tượng tiêu biểu có thể được coi như những dấu chỉ thời đại như :


- Trào lưu xã hội hoá; trào lưu trần tục hoá; những tính chất văn hoá mới trong một xã hội công nghiệp mới


- Cổ võ phẩm giá phụ nữ; giải phóng những nhóm thiểu số; ủng hộ tầng lớp thợ thuyền; đấu tranh cho một sự công bằng trong mức độ toàn cầu . . .


- Khủng hoảng quyền bính; phê bình chủ trương “tập trung”, trong lãnh vực thế tục cũng như lãnh vực tôn giáo


- Đòi hỏi lời nói phải đi đôi với hành động; nhu cầu của đích thực tính và thái độ thành thật trong mọi lãnh vực; đòi hỏi một sự trong sáng Tin Mừng trong tất cả những gì mang danh Kitô; từ chối một thứ tôn giáo tách biệt với anh em . . .


- Xuất hiện những yếu tố quan trọng của khoa phân tâm; tầm quan trọng của những phân tích xã hội Mác xít; nhu cầu đối thoại giữa Kitô giáo và Mác . . .


- Nguy cơ ô nhiễm môi trường; thái độ tôn trọng lợi ích chung của toàn nhân loại. . .


- Khát vọng hoà bình; nhu cầu đối thoại; trào lưu đại kết; quan niệm bạo lực như một sự dữ tự thân…


- Sự trở lại của nhu cầu chiêm niệm và những lợi ích của đời sống thần bí, theo nghĩa của những truyền thống tâm linh lớn của Đông và Tây phương.


Kết luận


Với Công đồng Vatican II nói chung và trong văn mạch của ý niệm “dấu chỉ thời đại”, chúng ta có thể thấy một giá trị mới xuất hiện trong tâm thức của Giáo Hội : giá trị trần thế. Cuộc sống trần thế, cuộc sống thật của con người, không còn là một điều gì đi song song và bên ngoài vận hành của niềm Tin. Chính thái độ trân trọng cuộc sống trần thế đưa người Kitô hữu trở lại một cuộc sống “hiện sinh” đầy tràn ý nghĩa, đặt người người Kitô hữu vào hành trình tìm kiếm Nước Trời thông qua cuộc sống và bao hàm những thái độ “có ý nghĩa” đối với dòng lịch sử trần thế.


Đức Giêsu đã hoàn thành sứ vụ trần thế của Ngài không phải chỉ như một “kho ân phúc” để hoá giải tội lỗi trên bình diện pháp lý, nhưng Ngài đã gieo Ánh sáng Tin Mừng vào trần gian, Ngài trung tín thể hiện trọn vẹn những giá trị Tin Mừng ấy cho đến cùng, và Ngài Phục Sinh để cùng các môn đệ tiếp tục loan báo Tin Mừng ấy cho toàn thể nhân loại :


“Đức Giêsu đến gần nói với các ông : ‘Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,18-20)


Như nắm men phải được vùi vào đấu bột (X. Lc 13, 20-21), người Kitô hữu cũng dấn thân vào trần gian với men Tin Mừng, với sứ vụ đem những giá trị Tin Mừng của Bài Giảng Trên Núi, những giá trị Tin Mừng đầy tính chất cứu độ đối với lịch sử nhân loại, vào lịch sử trần gian để hướng lịch sử ấy đi đến điểm hoàn tất trong ngày Quang Lâm.







[1] Xc. G. Gennari, Signes des Temps, trong Dictionaire de la Vie Spirituelle, Sđd, trang 1032-1033.



114.864864865135.135135135250