Dấu chỉ thời đại [1] (1/3)
Nguyễn Trọng Viễn, op.
Theo cha Chenu, ý niệm “dấu chỉ thời đại” là một trong ba hoặc bốn từ ngữ quan trọng nhất của Công đồng Vatican II[2]. Việc tìm hiểu ý nghĩa của từ ngữ này chẳng những có thể giúp chúng ta hiểu rõ hơn về Công đồng Vatican II, nhưng còn là giúp chúng ta sống đức Tin một cách trưởng thành và có trách nhiệm giữa cuộc đời; nghĩa là dám đồng hành với bước đi của lịch sử nhân loại, trong ánh sáng của Tin Mừng và với sức mạnh của Thần Khí. Đó cũng là cách thức sống đức Tin phù hợp với tâm thức của Giáo Hội, phù hợp với sự dẫn dắt của Chúa Thánh Thần trong thời đại hôm nay.
1. Lịch sử
Từ ngữ “dấu chỉ thời đại” là một từ ngữ khá mới trong lịch sử Giáo Hội. Người ta thấy, vào thế kỷ XVII, Melchior Cano nói về lịch sử như một “nơi chốn thần học”. Trong thời đại chúng ta, đức Hồng y Faulhaber đã từng dùng kiểu nói “Tiếng của thời đại, tiếng của Chúa”[3]. Về phần giáo quyền, đức Pio XII đã đề cập đến đề tài này nhiều lần, đặc biệt trong diễn văn trước hồng y đoàn ngày 20-2-1946. Tuy nhiên, chỉ với Công đồng Vatican II, từ ngữ này mới trở thành một điểm then chốt của thần học, là chiều hướng chính trong hoạt động của Giáo Hội và là một nét căn bản trong đời sống đức tin Kitô giáo.
1.1 Thời gian chuẩn bị Công đồng Vatican II
Ngày 25-12-1961, trong tài liệu chính thức triệu tập Công đồng Vatican II, đức thánh cha Gioan XXIII đã sử dụng từ ngữ “Dấu chỉ thời đại” và qui chiếu vào đoạn Tin Mừng Mt 16,3 :
“Bấy giờ, có những người thuộc phái Pha-ri-sêu và phái Xa-đốc lại gần Đức Giêsu, và để thử Người, thì xin Người cho thấy một dấu lạ từ trời. Người đáp : ‘Chiều đến, các ông nói : Ráng vàng thì nắng’, rồi sớm mai, các ông nói : ‘Ráng trắng thì mưa’. Cảnh sắc bầu trời thì các các ông biết cắt nghĩa, còn thời điềm thì các ông lại không cắt nghĩa nổi” (Mt 16, 1-3)
Ban đầu chẳng mấy ai chú ý đến cách dùng từ ngữ ấy cũng như nội dung cụ thể của nó. Tuy nhiên, trong thông điệp Hoà Bình Trên Trái Đất (11-4-1963), đức thánh cha Gioan XXIII nhắc lại ý tưởng đó và sử dụng nó như một khái niệm then chốt hướng dẫn tất cả những triển khai của thông điệp. Mỗi phần trong ba phần của thông điệp được kết thúc bằng một phân tích những nét tiêu biểu của thời đại, nhằm cố gắng triển khai “những viên đá chờ đợi”[4], để tỏ bày sự hiện hiện và hoạt động của Thiên Chúa trong thế giới.
Tiếp theo đó, Đức Phaolô VI, trong thông điệp đầu tiên của mình, Ecclesiam suam (công bố ngày 6-8-1964), rõ ràng đã triển khai đường hướng của vấn đề trên. Ngài nói : “phải kích thích trong Giáo hội sự chờ đợi trong sự tỉnh thức kiên trì đối với những dấu chỉ thời đại . . . xác nhận tất cả những sự vật và gìn giữ điều gì là tốt trong mọi thời cũng như trong mọi hoàn cảnh”. . .
Cuối cùng, chính hiến chế Mục vụ Vui mừng và Hy vọng mới diễn tả ý nghĩa phong phú của từ ngữ dấu chỉ thời đại. Thay vì tách biệt và xa lạ với thế giới, Giáo Hội đặt mình trong trong dòng lịch sử trần thế, Giáo Hội đồng hành với con người; Giáo hội chăm chú tìm kiếm, lắng nghe, khám phá tiếng nói cũng như hoạt động của Thiên Chúa trong dòng lịch sử trần thế qua những “dấu chỉ thời đại”.
Tuy nhiên, vì một số chuyên viên Kinh Thánh dè dặt với cách hiểu từ ngữ này, nên các nghị phụ công đồng đã không dùng từ ngữ Kinh Thánh nữa và chỉ nói về “dấu chỉ về sự hiện diện của Thiên Chúa và về hoạt động của Ngài”. Dầu vậy, trong phiên họp thứ bốn, cuối năm 1965, các nghị phụ lấy lại diễn ngữ “dấu chỉ thời đại” mà không qui chiếu vào đoạn văn Kinh Thánh Matthêu 16, 1-3. Người ta thấy rằng đề tài “dấu chỉ thời đại”, cách này cách khác, có mặt trong từng chương của hiến chế Mục Vụ Vui Mừng và nhiều chỗ khác trong bản văn Công đồng.
1.2 Ý niệm “dấu chỉ” trong sách Thánh
Như đã nói, việc triển khai ý niệm dấu chỉ thời đại của hiến chế Mục Vụ không phải là không có tranh luận. Đặc biệt, những nhà chú giải Kinh Thánh đã lưu ý đến tính hàm hồ cũng như những nguy hiểm trong việc sử dụng từ ngữ Thánh Kinh nhằm tìm trong thế giới những dấu chỉ quá trực tiếp của sự can thiệp của Thiên Chúa, như thể Thiên Chúa là nguyên nhân trực tiếp và loại trừ mọi nguyên nhân của con người trong diễn tiến của thế giới. Theo cách hiểu đó, tự do của con người chỉ còn là một “trò chơi” trong diễn tiến lịch sử. Các nhà chú giải Thánh Kinh có lý khi tỏ ra dè dặt với một sự chuyển tiếp “quá nhanh”, quá trực tiếp từ ý nghĩa của từ ngữ dấu chỉ trong văn mạch và trong ý nghĩa xác định của Thánh Kinh, đến một ý nghĩa xác định khác trong lịch sử và trong thế giới hiện tại. Do đó, cần phải tìm hiểu ý nghĩa của ý niệm “dấu chỉ” trong Kinh Thánh.
1.2.1 Cựu ước
Cựu ước đã nói nhiều về những “dấu chỉ”[5] của Thiên Chúa : Thiên Chúa thường tỏ bày ý định của Ngài qua những dấu chỉ được ghi trong lịch sử thánh. Do đó, khi không thấy các dấu chỉ của Thiên Chúa, Dân Chúa sống trong tâm trạng hoang mang, lo âu và khắc khoải đợi chờ. Quả thật, Thiên Chúa luôn nhắc Dân nhớ lại những dấu chỉ trong quá khứ để củng cố niềm tin; đồng thời Ngài cũng ban những dấu chỉ hiện tại để giúp Dân sống niềm hy vọng; và nhất là Thiên Chúa hứa ban một dấu chỉ tương lai để hoàn tất nhiệm cục cứu độ của Ngài (X. Is 55,3; 43,16-20; . . .).
Về những dấu chỉ quá khứ, chúng ta thấy một “sưu tập” hết sức phong phú, từ những kỳ công của Mai-sen cho đến cuộc chiếm hữu đất thánh thời Gio-su-ê; từ những cử chỉ tượng trưng của các ngôn sứ cho các đứa con của Hô-sê và con của I-sa-ia. . . đều có thể là dấu chỉ. Ngoài ra, sách Thánh còn nói đến cả những dấu chỉ “tự nhiên” như cầu vồng, hoặc các tinh tú. . .
Tuy nhiên, về những dấu chỉ thời hiện đại, người ta thấy trong Cựu Ước có những cách hiểu khác nhau :
+ Đối với loại Sách Sử, lối nhìn về “dấu chỉ thời đại” dựa trên việc đọc lại những biến cố từ những vị sáng lập nên Giao Ước và suy tư theo nguyên tắc chung là : nếu Thiên Chúa, trong quá khứ, đã yêu thương những người thuộc về Ngài; thì Ngài không thể không yêu thương họ ngày hôm nay. Tình yêu của Thiên Chúa vẫn tỏ hiện trong đời sống của Dân vì Ngài vẫn luôn là Đấng dẫn dắt lịch sử. Lối nhìn này luôn đặt mối liên hệ tuyệt đối giữa những diễn biến của lịch sử với mức độ của lòng trung tín của Dân; nghĩa là nếu Dân càng trung tín với Chúa thì càng được hưởng những phần thưởng trần thế. Về phía Thiên Chúa, tất cả mọi may lành trong Dân là do Thiên Chúa trung tín với lời hứa của Ngài; còn nếu có những tai ương, đó cũng là vì Thiên Chúa trung tín với lời hứa của Ngài. Các tác giả của Sách Sử nhìn thấy những tai ương ấy mang ý nghĩa như hình phạt để giúp Dân sám hối về tội lỗi. Việc đánh đuổi quân vô đạo và những kẻ bất chính sẽ mang lại hạnh phúc cho Dân (X. 1 Mac 3,1-9). Trong những trường hợp đặc biệt, Thiên Chúa hoặc những vị đại diện của Chúa sẽ gởi tới một dấu chỉ nhằm giải thích minh bạch hơn ý nghĩa của một sự kiện lịch sử; hoặc cũng có trường hợp một con người, như Giô-na-than, đã xác định ý muốn của Thiên Chúa bằng một dấu chỉ (1 Sm 14,10)
+ Đối với các ngôn sứ, là những người mà lời giảng luôn luôn được gợi hứng từ hoàn cảnh hiện tại, thì cách hiểu ý niệm dấu chỉ, khá gần với các sách sử, bao hàm một sự phân biệt dấu chỉ thời đại theo hai điểm :
- Mặc dù Thiên Chúa luôn hoạt động, nhưng lịch sử của Dân không hoàn toàn trực tiếp thể hiện muốn của Ngài. Nếu hoàn cảnh hiện tại là tai hoạ cho Dân, đó là vì Dân đã không trung tín với những biến cố nền tảng.
- Nhưng chỉ riêng sự trở về với Thiên Chúa không đủ để tái lập trật tự của Giao ước; cần có một hành động can thiệp mới của Thiên Chúa : hồng ân của một giao ước mới . . . Hoạt động của Thiên Chúa trong thời hiện đại vừa là dấu chỉ sự bất lực của Dân Israel, vừa là dấu chỉ sức mạnh của Giavê vẫn đang tác động trong một cuộc sáng tạo mới (Xc. Is 45, 1-8).
+ Đối với loại sách Khôn Ngoan, có hai cuốn đặc biệt bàn về bàn về chủ đề này, đó là sách Gióp và sách Giảng Viên. Được hình thành trong một giai đoạn có những biến đổi văn hoá quan trọng, những sách này là những tiếng kêu mãnh liệt chống lại tất cả những người muốn giải thích tình trạng khó khăn hiện tại như ý định của Thiên Chúa. Lý do là : không phải có người nào chối từ hoạt động của Thiên Chúa trong lịch sử, nhưng mỗi người lại nhìn những sự kiện lịch sử theo cách của mình. Do đó, sách khôn ngoan không chấp nhận những cách giải thích hoà hợp dễ dãi giữa những dấu chỉ của Thiên Chúa với cách giải thích của con người.
Qohelet biết rằng tất cả lịch sử, tất cả những cái nhìn tiên đoán, nhưng dự định lớn đều chỉ là “đuổi theo gió”; và “Thiên Chúa ban cho con người biết nhận thức về vũ trụ, tuy thế, con người cũng không thể nào hiểu hết được ý nghĩa công trình Thiên Chúa thực hiện trong lịch sử” (Gv 3,11).
+ Về loại sách Khải Huyền, ta thấy có sự nhìn nhận cả cách trả lời của các ngôn sứ cũng như lập trường của các tác giả sách khôn ngoan. Tuy nhiên, nhiều khi ta thấy Thiên Chúa thinh lặng trong thời hiện tại và người công chính không biết đi theo đường nào. Tựu trung, trong thế giới xấu xa, mọi biến cố là dấu chỉ sự cùng tận và biến cố cùng tận này mang lại sự nghỉ ngơi cho những người công chính, bởi vì sự cùng tận tương đương với việc trở lại của Thiên Chúa và sự phục sinh của Ngài (X. Đn 12)
Tóm lại, theo Cựu Ước người ta có thể xác định những ý nghĩa căn bản về dấu chỉ thời đại như sau :
- Thiên Chúa đã thiết lập và dẫn dắt Dân của Ngài trong quá khứ bằng cách ban cho Dân những dấu chỉ biểu lộ sự hiện diện tác động và ý muốn của Ngài. Ngài đòi Dân gìn giữ sống động những dấu chỉ trong quá khứ để nuôi dưỡng niềm tin; nhưng Ngài vẫn tiếp tục ban những dấu chỉ trong thời hiện tại.
- Có những điều kiện và những cách thức riêng biệt để biện phân những dấu chỉ, chứ không phải đọc các dấu chỉ một cách ngẫu hứng hoặc tuỳ tiện. Đặc biệt, các dấu chỉ của Thiên Chúa biểu lộ ý định của một Thiên Chúa ngã vị và một chương trình duy nhất của Ngài, chứ không phải là những trò ma thuật dị đoan hoặc những giải thích về một hành động ngẫu hứng của thần thánh.
- Để biện phân những dấu chỉ do Chúa ban, phải có một dân tộc tin tưởng. Hơn nữa, một dấu chỉ của Thiên Chúa như thế không phải là một chuyện có tính cách cá nhân. Chắc chắn có những con người được dành riêng, được Thiên Chúa tuyển trạch, các ngôn sứ chẳng hạn, để nhận định, giải thích và ngay cả đôi khi là những người làm ra các dấu chỉ mà các ngài thực hiện bằng lời tiên báo hoặc hành động. Nhưng đó luôn là những dấu chỉ liên quan đến cộng đoàn Dân Chúa. Do vậy, là ngôn sứ đích thực, các ngài luôn hội nhập trong dòng lịch sử của Dân. Tất cả mọi ngôn sứ đều không phải là những cá nhân cô độc, ngay cả khi vì sứ điệp khó được chấp nhận mà các ngài bị loại trừ trong một giai đoạn nào đó.
- Cuối cùng, Thánh Kinh cho thấy Thiên Chúa dẫn dắt niềm tin của Dân bằng cách loan báo “một dấu chỉ tương lai”, “một dấu chỉ vững cửu và không thể tiêu tan”, đó chính là Đấng Mê-si-a.
1.2.2 Tân Ước
Vào thời đại Tân Ước, có một sự chờ đợi tha thiết về sự can thiệp của Thiên Chúa; hoặc đúng hơn, có nhiều sự chờ đợi khác nhau nơi những người Do Thái. Sứ điệp của Đức Giêsu vừa trở nên dấu chỉ Nước Thiên Chúa đã có mặt, nhưng cũng làm thất vọng một phần những sự chờ đợi ấy. Ngài sẽ hiện diện như một “Dấu chỉ” có khả năng mang lại sự nâng dậy cho tất cả những ai khao khát Ngài; đồng thời, cũng trở thành duyên cớ cho nhiều người vấp ngã.
“Ông Si-mê-on chúc phúc cho hai ông bà, và nói với bà Maria, mẹ của Hài Nhi : ‘Thiên Chúa đã đặt chú bé này làm duyên cớ cho nhiều người Ít-ra-en phải bị vấp ngã hay được chỗi dậy. Cháu còn là dấu hiệu bị người đời chống báng’” (Lc 2,33-34)
Diễn ngữ “dấu chỉ thời đại” thấy trong Mt 16,3, hiểu cho đúng, là những dấu chỉ riêng biệt của thời đại Thiên Sai, nghĩa là thời gian cứu độ cánh chung. Như thế, ở đây, ta không thể nói về những dấu chỉ vũ trụ hoặc dấu chỉ ngẫu nhiên, tuỳ hứng. Để hiểu được dấu chỉ đặc biệt này, phải đặt mình trong dòng lịch sử của Dân Chúa, và phải qui chiếu vào dấu chỉ Giô-na (X. Mt 12, 38-42), tức sự chết và cuộc Phục Sinh của Đức Kitô. Tất cả mọi dấu chỉ trong dòng lịch sử ơn cứu độ cũng như những dấu chỉ thời sau hết luôn phải qui chiếu vào Dấu Chỉ Tuyệt Hảo là chính Đức Giêsu, Đấng được nâng cao trên thập giá và tỏ lộ quyền năng của Ngài trong vinh quang Phục Sinh (X. Ga 12, 32-33; So 3,14; 8,28). Diễn ngữ “dấu chỉ” trong Tân Ước diễn tả điểm gặp gỡ giữa Thiên Chúa và lịch sử, vào thời đại đức Mêsia.
Như thế, trong Tân ước, Thiên Chúa dấn thân trọn vẹn vào dòng lịch sử, Thiên Chúa trở nên người để con người khám phá tiếng gọi trở nên Thiên Chúa trong chính lịch sử của đời sống trần gian; nghĩa là khám phá ra một tình yêu phổ quát được tỏ hiện trong suốt lịch sử nhân loại và đưa lịch sử nhân loại đến chỗ hoàn thành.
Một cách khái quát, với biến cố đức Giêsu Kitô, người Kitô hữu có thể khám phá thấy những ý nghĩa chính yếu của lịch sử cứu độ như sau :
+ Đức Giêsu đến để giao hoà con người với Thiên Chúa và giao hoà con người với nhau. Đó là một sự “hoà giải” phổ quát vừa hoàn toàn có tính nhân loại, vừa hoàn toàn có tính thần linh. Do đó, trên bình diện này, dấu chỉ chính là người thân cận. . .
+ Thật ra, Thiên Chúa không bẻ ngoặt lịch sử bằng một ý muốn độc đoán : cái chết của Đức Kitô là bằng chứng nổi bật rằng Ngài không muốn thống trị. Ngài không làm một “cú đẩy” các biến cố. Do đó, chúng ta thường thấy Ngài chấp nhận qui luật của cuộc sống con người. Ở mức độ này, dấu chỉ chính là thập giá.
+ Nhưng Thiên Chúa không bị giới hạn bởi lịch sử. Sách khải huyền có lý. Nếu hành trình của con người đi đến ngày Cánh Chung cần phải bước qua cái chết, thì chính cái chết không phải là điểm cùng tận mà là điểm khai mào cho một sự thành toàn. Con người qua cái chết để bước vào cõi sống. Ở mức độ này, dấu chỉ chính là sự phục sinh.
Tất cả những ý nghĩa của căn bản của đời sống đức Tin Kitô giáo đều thông qua ba dấu chỉ căn bản : người thân cận, cái chết và sự phục sinh của đức Kitô.
[1] Tổng hợp từ đề mục “Signes des Temps” trong Dictionaire de Théologie Chrétienne, Les Grand Thèmes de la Foi, Édition francaise dirigée par Joseph Doré, Desclée 1979; Théo, Nouvelle Encyclopédie catholique, Droguet Ardant/Fayard 1989; Dictionaire de la Vie Spirituelle, sous la direction de Stefano De Fiores et Tullo Goffi, Les Éditions du Cerf, Paris 1987; Dictionaire de Théologie fondamentale, Édition Francaise dirigée par René Latourelle, Les Éditons du Cerf, Paris 1992. . .
[2] Xc. G. Gennari, Signes des Temps, trong Dictionaire de la Vie Spirituelle, Sđd, trang 1031, chú thích 7.