01/12/2011 -

Suy tư, nghiên cứu

213

 


 


Dấu Ấn "Nhập Thể" Trong Tập Gitanjali Của Tagore (tt)


 



Lm. Giuse Lương Hồng Phong, O.P.



 


4. Ân ban nhưng không


Đứng trước huyền nhiệm Tình Yêu Nhập Thể, con người ra như ngỡ ngàng, ngây ngất vì ân ban nhưng không, quá cao trọng và quá bất ngờ của tình yêu: “Đó là một ngày khi tôi chưa sẵn sàng chờ đón; như một người trong đám bình dân, xa lạ với tôi, Hoàng thượng ơi, chẳng hỏi han, Người đã đi vào tim tôi khép kín, in sâu dấu vĩnh cửu lên bao giờ khắc chảy trôi, giờ khắc đời tôi.”[1]


“Dấu vĩnh cửu” cũng là “dấu chỉ của tình yêu” mà Thượng Đế đã khắc ghi trong tim người, trong từng giờ khắc chảy trôi của đời người, là một lời mời gọi con người chuyển hoá bản chất hữu hạn của mình thành vô hạn, siêu vượt nhị nguyên thành nhất thể, tổng hoà những chi đối nghịch thành hoà điệu. Để  cuối cùng, con người tìm ngơi nghỉ bình an trong sự hài hoà tuyệt hảo. Hạn tính nơi con người là một phần của Vô Hạn. Chính trong tình yêu tinh tuyền mà con người tìm được sự hài hoà tuyệt hảo giữa tâm hồn hữu hạn của mình và tinh thần vô hạn nơi nơi. Nhưng tình yêu luôn đòi hỏi sự hi hiến thân mình, sự khước từ vị ngã. Như vậy, sự như nhất của người và Thượng Đế chỉ có thể đạt tới được trong sự từ bỏ hoàn toàn cái tôi hạn hữu của mình[2].


Mầu nhiệm Nhập Thể của Đức Kitô đã xác định sự hiện hữu đích thực của con người là “hiện hữu trong và nhờ Chúa Kitô”, để từ đó, con người được công chính hoá[3]. Sự từ bỏ cái tôi để con người hiến thân cho tình yêu Thiên Chúa chính là tiến trình con người được công chính hoá, được nhận lại ơn phúc làm nghĩa tử của Thiên Chúa. Khi con người dám buông mình cho tình yêu Thiên Chúa, thì chính trong sự hiện hữu mong manh, bất toàn và tạm bợ của họ: “Thiên Chúa được sinh ra cách thiêng liêng, qua ân sủng và tình yêu, từng khoảnh khắc và liên tục”[4].


“Xin để Người hiện ra trước mắt tôi như tia nắng đầu tiên trong làn ánh sáng, như hình bóng đầu tiên trong mọi bóng hình. Xin để nguồn vui nao nức đầu tiên đi từ ánh mắt Người đến thẳng tâm hồn tôi thức giấc, và xin để việc tôi quay lại với mình cũng là việc tôi trở lại cùng Người”[5].


5. Tin Mừng trọng đại


Thánh Luca đã thuật lại lời truyền tin long trọng của sứ thần Gáprien ngỏ với trinh nữ Maria: “…vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận”[6]. Biến cố Nhập Thể đã thay đổi vận mệnh lịch sử của nhân loại trong một kỉ nguyên mới, kỉ nguyên của thời hoà giải con người với Thiên Chúa, kỉ nguyên của ơn cứu độ viên mãn.


Tin Mừng Nhập Thể tiếp tục được vang xa, qua lời sứ thần Chúa loan báo cho các người chăn chiên, trong vinh quang của Chúa: “Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đavít, Người là Đấng Kitô Đức Chúa”[7].


Giáo huấn của Giáo Hội Công Giáo đã  xác tín: “Con Thiên Chúa, khi nhập thể, đã kết hợp với loài người”[8]. Người sống trong chúng ta và chúng ta sống trong Người. Chúng ta được kêu gọi nên một với Người. Những gì Người đã sống trong thân xác Người vì chúng ta và nên mẫu mực cho chúng ta, thì Người cũng cho chúng ta được hiệp thông như là chi thể của Thân Mình Người[9].


Tagore trình bày chân dung của Đấng Nhập Thể qua hình ảnh tia nắng huyền diệu, đem lại hơi ấm, ánh sáng, niềm tin và hy vọng cho trần hoàn: “Tia nắng của Người dang rộng đôi tay tràn xuống trái đất này tôi ở, rồi đứng lại ở cửa nhà tôi, suốt ngày dài để thu nhặt rồi đem về nơi chân Người những đám mây, kết bằng nước mắt tôi nhỏ, bài ca tôi hát và tiếng thở dài tôi than”[10]. Vì tình yêu hiến dâng, Người đã xem tất cả những gì thuộc về tôi cũng thuộc về Người. Những gì làm nên đời tôi hoặc đi qua đời tôi cũng sẽ được ghi dấu trong tình yêu Nhập Thể của Người. Cảm thức về Người  đã hoàn toàn xâm chiếm và biến đổi tận căn con người và cuộc sinh tồn của tôi, để trong tôi chỉ còn một khát vọng: “Chỉ mong tôi chẳng còn gì, nhờ thế gọi được Người là tất cả của tôi. Chỉ mong ý muốn trong tôi chẳng còn gì; nhờ thế cảm thấy Người ở mọi chốn, mọi nơi, đến với Người trong mọi thứ, mọi điều; và dâng Người tình tôi lúc nào cũng được. Chỉ mong ràng buộc trong tôi chẳng còn gì; nhờ thế trói buộc thân mình và ý muốn của Người, và nhờ thế thực hiện ý muốn của Người trong suốt đời tôi – ý ấy là tình yêu Người ràng buộc thân tôi”[11].


Thánh Irênê đã nhắc lại thông điệp của thư thánh Phêrô[12], để khám phá lại danh phận đích thực của con người khi được dự phần vào mầu nhiệp Nhập Thể: “Ngôi Lời đã làm người. Con Thiên Chúa làm con loài người; chính là để cho con người, khi kết hợp với Ngôi Lời và lãnh nhận tử hệ thần linh, được trở nên con Thiên Chúa”[13]. Thánh Athanasiô cũng kết luận: “Vì Con Thiên Chúa làm người để biến chúng ta thành con Thiên Chúa”[14]. Thiên Chúa đã bày tỏ ý định yêu thương muôn đời với con người,  khi cử Con Một Người đến trần gian, để phục hồi phẩm giá cao trọng của con người trong tương quan với Thiên Chúa. Nhờ ân ban của mầu nhiệm Nhập Thể, con người được trở về “tình trạng nguyên thuỷ”. Và hơn thế, họ được chia sẻ thiên tính của “Thiên Chúa trong Đức Kitô”. Khi Ngôi Lời mang lấy xác phàm[15], nhân tính của Đức Kitô được thiên tính đón nhận và thần hoá, mà cả nhân tính của loài người cũng được chia sẻ với nhân tính thần hoá của Đức Kitô[16].



6. Cuộc hội ngộ


Đối với thi sĩ triết gia Tagore, Đấng Tối Cao nhập thể vào cuộc đời và thân phận con người như một cuộc hội ngộ kì thú: “Tôi đang hát một mình trong xó tối; điệu du dương quyến rũ tai Người. Rời hoàng cung, Người đến đứng ở cửa nhà tôi, ngôi nhà tranh đơn sơ”[17].


Người say mê “tiếng hát của thụ tạo”, vì giai điệu ấy phản ánh chính sự tuyệt mĩ của Người như là Đấng Hoá Công. Chính điều này làm cho ta cảm nhận được ý nghĩa tuyệt diệu trong lời sứ thần tán dương và chia vui với trinh nữ Maria: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà… bà đẹp lòng Thiên Chúa”[18]. Chính Thiên Chúa đã âu yếm khoát lên thân phận con người mọn hèn hồng ân cứu độ, để nâng cao phẩm giá con người, để tô điểm cho nhân tính của con người thêm kiều diễm, đáng yêu và “đẹp lòng Thiên Chúa”. Tagore thật có lý khi để cho “tiếng hát của thụ tạo” quyến rũ và lôi kéo Người đích thân tìm đến “ngôi nhà tranh đơn sơ”, bước vào căn nhà nội tâm, cư ngụ trong cõi sâu thẳm thiêng thánh của phận người. Sẽ chẳng còn ranh giới nào để phân biệt vô biên và hữu hạn, cao sang và thấp hèn, Tạo Hoá và thụ tạo. Tất cả đã trở nên Một trong và nhờ cuộc Nhập Thể của Người, để làm nên một đại hội bất tận của trần gian:


“Tôi đã được mời dự đại hội trần gian; đời tôi thật có ân phúc diễm kiều. Đây tôi đã được nhìn và được nghe. Tại đại hội vui này, phần tôi là mang đàn dạo khúc; và tôi đã làm hết sức mình. Bây giờ, xin thưa, đã đến giờ chưa nhỉ, để tôi được phép bước vào nhìn mặt Người và dâng lời kính lạy lặng thầm?”[19]


Thánh Luca đã phác hoạ những ấn tượng thiêng liêng ban đầu của mầu nhiệm Nhập Thể, trong một cuộc gặp gỡ chân tình và mộc mạc giữa Thánh Gia và các mục đồng: “Họ liền hối hả ra đi. Đến nơi, họ gặp bà Maria, ông Giuse, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ”[20]. Như một sự tương ứng tình cờ, Tagore cũng đã phác hoạ một cách thật sống động về bức tranh mô tả cuộc hội ngộ giữa thần thiêng và phàm trần trong những nét đẹp rất đời thường: “Cho dẫu muốn cúi đầu chào Người, lòng kính cẩn trong tôi cũng không thể chạm tới chỗ chân Người đang ngừng nghỉ cùng những người tay trắng, khốn cùng, hèn mọn”[21].


Khi chúng ta can đảm“ra đi” như các mục đồng, trút bỏ bức màn vô minh[22] và thức tỉnh khỏi sự mê hoặc của cái tôi mình, hướng đến sự trọn hảo của lương tri và tâm thức, chúng ta sẽ nhận ra nguyên lí nền tảng của sự hợp nhất ẩn tàng trong mọi tác năng sáng tạo và đạt tới giải thoát thực sự. Lúc đó chúng ta tận hưởng được niềm vui tròn đầy trong Thượng Đế. Niềm vui này của chúng ta là niềm vui của tình yêu đến từ sự từ bỏ mình trong Người[23].


Đời tôi chẳng còn đơn độc trong xó tối cô đơn và thất vọng, vì: “Người đã coi tôi như người nhà trong khắp kho này châu báu; nguồn vui vô tận của Người tràn về trong khắp tim tôi; ước muốn của Người hiện hình trong suốt đời tôi”[24].



7. Tình bạn


Ngôn ngữ của Gitanjali đã dẫn đưa chúng ta đi vào mối tương quan với Đấng Nhập Thể như là những người bạn bình đẳng, sẵn sàng hiệp thông, chia sẻ, thấu cảm và hi hiến cho nhau đến tận cùng: “Lòng kiêu ngạo chẳng bao giờ đi tới nơi, Người trong manh quần tả tơi, tấm áo đơn sơ đang cùng đi với những người tay trắng, khốn cùng, hèn mọn”[25].


Thật tình cờ, thi sĩ Tagore chạm đến tâm tình của Đức Giêsu dành cho các môn đệ của Người: “Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy… Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết”[26]. Đức Giêsu tự nguyện đặt mình trong tương quan bạn hữu với con người. Trong tình bạn sâu nhiệm ấy, Đức Giêsu đã trở nên mặc khải trọn vẹn về tình thương vô hạn của Thiên Chúa, thể hiện trong kế hoạch cứu độ yêu thương của Người. Đáp lại, con người trở nên bạn hữu của Đức Giêsu khi để cho Lời sự sống và sự thật của Người được hiện thực trong mọi cách thế hiện hữu của con người, trong suốt lịch sử đời người.


Trong tình bạn, Đức Giêsu đã vui lòng gánh vác tất cả những thực tại vinh quang và tủi nhục, hạnh phúc và đau khổ, hồ môi, nước mắt, máu và tiếng cười hoan lạc của kiếp nhân sinh. Cùng với tôi, Người oằn lưng xuống vì gánh nặng cuộc đời, cắm mặt sát đất để thấu tỏ những nỗi cơ cực vất vưởng của con người, xác thân Người hứng chịu bầm giập, trái tim Người hằn lên thương tích, để Người sống trọn tình bạn với con người. Đó cũng là Người Bạn Vĩ Đại tự tỏ mình một cách hoàn hảo nhất, với một thân phận hèn hạ tột cùng, để liên đới với từng phận người hèn hạ khốn cùng trong Gitanjali: “Người ở nơi kia, nơi nông dân đang vật lộn cùng đất cứng, nơi công nhân đang xẻ đá làm đường. Người đang ở đó cùng họ đổ mồ hôi dưới mưa lũ, dưới mặt trời; áo quần lấm láp, bẩn dơ. Hãy cởi tăng bào, rồi cũng như Người bước xuống đất cằn bụi bặm… Có sao đâu nếu áo quần anh lấm bẩn tả tơi? Hãy đến gặp rồi cùng Người lao động cho mồ hôi vã xuống đất cằn”[27].


Như thế, Người đã làm cho cuộc sống nhân gian bừng sáng như một đại hội, với niềm vui dâng trào bất tận vì sự hiện diện của Người. Nơi đây, sự sống và nhân phẩm của mọi người thuộc mọi thành phần xã hội đều được tôn trọng và được bảo vệ trong sự bình đẳng. Sống trong tình bạn với Người, thì cuộc đời con người trở nên bản trường ca hùng tráng miên viễn, để ca ngợi và hiến dâng tất cả cho Tình Bạn ấy: “Say nhừ vì nguồn vui ca hát, tôi quên bẵng thân mình; tôi gọi Người là bạn, Thượng đế của lòng tôi”[28].


Bài ca cuộc đời, ca ngợi Tình Bạn ấy đã làm cho ta trở nên gần gũi thân thiện với Người, vì được chính Tình Bạn của Người thanh tẩy mọi tội luỵ, xoá tan mọi khoảng cách, dung hợp mọi khác biệt giữa Người và ta, để ta mãi mãi ở bên Người, để thuộc trọn về Người, để sống và chết cho Tình Bạn của Người: “Lời tôi ca vươn cánh rộng dài bay đến nhẹ vuốt chân Người – bàn chân trước kia nào dám mơ ước chạm tới[29].


Hiện diện trong Tình Bạn với Người, cá nhân tôi trở nên người anh em ruột thịt của mọi người. Tất cả “hỉ, nộ, ai, cụ, ái, ố, dục” của tha nhân không còn xa lạ với tôi nữa, nhưng đã trở nên chính sự hiện hữu và sự sống của tôi. Tôi không chỉ có căn nhà riêng, sự sống riêng của mình, nhưng nhà của tôi là cả thế giới và vũ trụ này, sự sống của tôi là một phần không thể tách lìa của Toàn Thể. Thế giới của chúng ta sẽ không còn những ý niệm tranh chấp hơn thua, bại thành, còn mất, nhưng chỉ là thể nhập nên Một: “Người đã làm bạn bè không quen thuộc biết đến tên tôi. Người đã dẫn tôi tới ngồi trong những căn nhà không phải của tôi. Người đã mang kẻ xa xôi lại thành người gần gụi và biến người xa lạ thành anh em thân[30].



Như một lời kết luận


Nói về kinh nghiệm tâm linh trong Gitanjali, người viết nhận thấy mình như chơi vơi giữa dòng thác tư tưởng và cảm xúc đầy linh thánh và cũng rất đời thực của thi sĩ Tagore. Lời kết luận xem ra còn hụt hẫng, đơn điệu và chưa thành toàn.


Tagore đã nối kết một cách tài tình giữa huyền nhiệm Nhập Thể và huyền nhiệm sáng tạo. Tư tưởng của Gitanjali được cô đọng lại trong chính lời tâm sự của thi sĩ: “Khi thượng đế sinh ra tôi thì chính Người đã trở thành tôi rồi. Ngày nay Người triển khai con người tôi trong cuộc sống và nâng niu con người tôi với nhiều sinh lực và vẻ đẹp khác nhau trong thế giới này”[31].


Gitanjali là một thông điệp hùng hồn khơi nguồn cảm xúc nơi con người, khi cho thấy sự thể nhập giữa con người hữu hạn và Hữu Thể Tuyệt Đối đã nâng cao phẩm giá con người. Trong sự thể nhập này, đời người là một đại hội vui bất tận. Thật vậy, niềm vui mãnh liệt nhất của con người, mỗi lúc một lớn hơn, chính là ở sự thống nhất càng lúc càng toàn diện với Đại Toàn.


Từ ý tưởng này, trong Gitanjali, thi sĩ Tagore đã diễn đạt thật hữu lý về ý nghĩa bản ngã của con người trong tương quan sống còn giữa con người với Thượng Đế và tha nhân. Con người chỉ  thực sự đạt đến sự tự do đích thực, sự toàn hảo trong vận mạng đời mình, vươn đến cùng đích tối thượng của hành trình trần thế, khi con người được tan chảy trong Tình Yêu Nhập thể, và trở nên hiện thân cho Tình Yêu cao cả ấy ngay giữa lòng nhân loại đang đồng hành với mình.


Phải chăng đó chính là những dấu ấn “Nhập Thể” bộc phát từ cảm thức tâm linh luôn dâng trào trong tâm hồn của thi hào Tagore, để tuôn chảy thành những xúc cảm mãnh liệt trong Gitanjali?


(TSTH số 5.2008)


(hết)







[1] Gitanjali 43




[2] Kinh Upanishad: “Để tìm gặp Người, ngươi phải giang rộng tay ôm tất cả”.




[3] Alain de Libera: Eckhart, Suso, Tauler hay là việc thần hoá con người, tr.44




[4] Alain de Libera: Sđd, tr.88




[5] Gitanjali 47




[6] Lc 1,30-33




[7] Lc 2,10-11




[8] Gaudium et spes 22,2




[9] Giáo lý Hội Thánh Công Giáo, 521




[10] Gitanjali 68




[11] Gitanjali 34




[12] 2Pr 1,4




[13] Thánh Irênê: Chống lạc giáo 3,19,1




[14] Thánh Athanasiô: Nhập thể 54,3




[15] Ga 1,1.14




[16] Lm Aug. Nguyễn Văn Trinh: Kitô học, t1. Tp Hồ Chí Minh, 2007, tr.405




[17] Gitanjali 49




[18] Lc 1,28.30




[19] Gitanjali 16




[20] Lc 2,16; [2,12]




[21] Gitanjali 10




[22] Avidya




[23] X. Lê Quang Phúc: Sđd, tr.117.




[24] Gitanjali 56




[25] Gitanjali 10




[26] Ga 15,14-15




[27] Gitanjali 11




[28] Gitanjali 2




[29] Gitanjali 2




[30] Gitanjali 63




[31] Tagore: Thư trả lời nữ văn sĩ Đức, A Hoegman, 1924. Trích lại của Nguyễn Văn Hạnh: Sđd, tr.74.



114.864864865135.135135135250