Cuộc Đối Thoại Giữa Đức Tin Và Lý Trí Qua Các Thời Đại (phần 3)
Tạ Văn Tịnh OP.
III. THỜI KỲ HIỆN ĐẠI
Sau thời kỳ Kinh viện, thần học vẫn giữ mối liên hệ hữu cơ với triết học, nhưng nhìn nhận quyền tự quyết cần thiết để triết học và khoa học hoạt động cách hữu hiệu trong lãnh vực nghiên cứu liên hệ. Tuy nhiên, sự phân biệt chính đáng này đã biến thành sự chia rẽ tai hại. Từ thời Cận đại đến Hiện đại, vì não trạng quá duy lý của một số nhà tư tưởng, những lập trường trở thành cấp tiến đến độ đã làm cho triết học ly tán và hoàn toàn độc lập với nội dung của đức tin. Một trong số những hệ quả của ly tán này có sự thiếu tin tưởng ngày càng gia tăng đối với chính lý trí. Có những người bắt đầu ngờ vực phổ quát, hoài nghi và bất khả tri, hoặc để dành cho đức tin một lãnh vực rộng rãi, hoặc để gieo sự thất tín vào mọi cách viện lý cho đức tin. Thời Hiện đại, phần lớn tư tưởng triết học phát triển bằng cách dần dà xa lìa mạc khải Kitô giáo, đến độ chống lại mạc khải ấy một cách minh nhiên. Phong trào này đặt đến đỉnh cao từ giữa thế kỷ 19 đến thế kỷ 20. Một số đại diện của thuyết duy tâm đã tìm những cách thức khác để biến đổi đức tin và nội dung của nó, kể cả mầu nhiệm Khổ nạn và Phục sinh của Chúa Giêsu, thành những cơ cấu biện lý và sau cùng coi nó là vô nghĩa. Đối lập với các tư tưởng này là những hình thức nhân bản vô thần, đã coi tôn giáo như một điều độc hại và tha hoá đối với sự phát triển của lý trí. Họ tự khuếch trương mình như một thứ tôn giáo mới, dùng làm nền tảng cho những ý đồ chính trị và xã hội, nhân danh giải phóng những người lao khổ. Nhưng ý đồ đó đã để lộ ra tư tưởng độc tài có hệ thống và gây ra bao đau thương cho nhân loại. Đứng trước thực tại này, Giáo hội một mặt thể hiện lập trường của mình trước ý thức hệ thời đại, mặt khác khẳng định vai trò của đức tin và lý trí trong nhận thức. Khởi đi từ truyền thống của Giáo hội, đặc biệt là thời các Giáo phụ và thời kỳ Kinh viện, các Công đồng Vatican đã đề cao mối tương quan giữa lý trí và đức tin. Bên cạnh đó là sự cố gắng không mệt mỏi của ĐGH Gioan Phaolô II và Benedictô XVI trong việc lỗ lực dung hoà giữa đức tin và lý trí, giữa triết học và thần học trong thời đại hôm nay.
1. Các Công đồng Vatican
Khởi đi từ tư tưởng của thánh August và thánh Thomas, Công đồng Vatican I dạy rằng: chân lý mà ta đạt được do con đường suy luận triết học và chân lý do mạc khải không hỗn đồng với nhau, hai thực tại này không làm cho nhau dư thừa. Tuy nhiên, Công đồng cũng phân biệt tính chất đặc thù của lý trí và của đức tin. Hai lãnh vực này khác nhau không những bởi nguồn gốc mà còn bởi đối tượng. Bởi nguồn gốc, tri thức của con người có được là nhờ lý trí tự nhiên; còn trong lãnh vực đức tin là nhờ mạc khải của Thiên Chúa. Bởi đối tượng, vì ngoài những chân lý mà lý trí tự nhiên có thể đạt được, còn có những mầu nhiệm được trình bày để chúng ta tin, những mầu nhiệm giấu ẩn trong Thiên Chúa, nếu không được mạc khải thì không thể biết được.[1] Được đặt nền tảng trên chứng tá của Thiên Chúa, lại thừa hưởng sự trợ giúp siêu nhiên của ân sủng, đức tin thuộc lãnh vực khác với nhận thức triết lý.
Thật vậy, nhận thức triết học dựa trên sự thâu nhận giác quan, trên kinh nghiệm, và phát triển nhờ ánh sáng của một mình lý trí. Triết học và các khoa học diễn tiến trong lãnh vực của lý trí tự nhiên, còn đức tin được Chúa Thánh Thần soi sáng và hướng dẫn, nhận ra trong sứ điệp cứu độ “sự sung mãn của ân sủng và chân lý” (Ga 1,14) mà Thiên Chúa đã mạc khải cho nhân loại qua dòng lịch sử, và mạc khải một cách dứt khoát qua Con của Ngài là Đức Giêsu Kitô (x. 1Ga 5,9).
Đứng trước mầu nhiệm, “phải lấy sự tuân phục đức tin để đáp lại Thiên Chúa là Đấng mạc khải” (DV. 5). Với lời khẳng định súc tích này, chân lý nền tảng của Kitô giáo được giãi bày. Công đồng nói: đức tin là lời đáp tuân phục Thiên Chúa. Điều đó ngầm chứa việc nhìn nhận Người trong Thiên Chúa tính, trong sự siêu việt và trong sự tự do tuyệt đối của Người. Thiên Chúa tỏ mình ra cho ta biết, thì với thế giá siêu việt tuyệt đối của mình, cũng cung cấp những lý do khả tín về những điều Người mạc khải. Nhờ đức tin, con người chấp nhận chứng tá của Thiên Chúa. Điều đó có nghĩa con người thừa nhận một cách trọn vẹn và đầy đủ chân lý của những điều được mạc khải, vì chính Thiên Chúa bảo đảm cho chân lý ấy. Chân lý này được ban cho con người, kích thích lý trí suy tư và tìm hiểu về chân lý ấy, và đón nhận ý nghĩa thâm sâu của nó. Trong đức tin, chẳng những con người có tự do, lại còn cho phép mỗi người biểu lộ hoàn hảo nhất sự tự do của mình.
Tuy nhiên, lý trí khi nhận thức đức tin nó không phá tan mầu nhiệm, nhưng làm cho mầu nhiệm rõ ràng hơn và giãi bày mầu nhiệm cách hợp lý cho con người. Giáo huấn của các CĐ Vatican còn mở ra phối cảnh chân thực của những điều mới mẻ đối với nhận thức triết học. Mạc khải đưa vào lịch sử một điểm quy chiếu mà con người không thể không biết, nếu muốn thấu hiểu mầu nhiệm cuộc đời của mình; nhưng mặt khác, nhận thức ấy cũng luôn luôn quy hướng đến mầu nhiệm Thiên Chúa, mà trí khôn không thể khám phá triệt để và chỉ có thể đón nhận trong đức tin. Giữa hai giai đoạn ấy, lý trí có một khu vực riêng biệt cho phép nó tìm kiếm và hiểu biết, mà không bị giới hạn ngoài tính hữu hạn của nó trước mầu nhiệm vô cùng của Thiên Chúa.
Chân lý mạc khải Kitô giáo mà ta thấy nơi Đức Giêsu Kitô, là một thực tại giúp con người biết định hướng trong khi tiến bước giữa những áp lực của não trạng duy tâm, duy vật và những gò bó của óc kỹ thuật. Nó là khả năng sau cùng Thiên Chúa cung cấp cho nhân loại để tìm lại tình yêu sung mãn, đã được bắt đầu khi tạo thành: “Anh em sẽ nhận biết chân lý, và chân lý sẽ giải thoát anh em” (Ga 8,32).
Chân lý mà Mạc khải cung cấp cho ta không phải là trái chín mùi, nó đòi hỏi được đón nhận bằng tình yêu. Chân lý này dành cho những ai tin vào Thiên Chúa và tìm kiếm Người với trái tim chân thành. Cứu cánh của cuộc nhân sinh là đối tượng triết học cũng như thần học đòi hỏi. Cả hai, với những phương tiện khác nhau và những nội dung khác nhau, đều nhìn vào “con đường sự sống” (Tv 16,11). Bởi vậy, việc nghiên cứu khoa học, nếu được tiến hành đúng theo chuẩn mực của nó, sẽ không bao giờ thật sự đối nghịch với đức tin, bởi vì các thực tại trần thế và các thực tại đức tin đều có nguồn gốc là bởi cùng một Thiên Chúa. Hơn nữa, những ai đang khám phá những lẽ huyền vi của tạo vật, của vũ trụ, thì mặc dù ý thức hay không ý thức, họ vẫn như được dẫn đưa bởi bàn tay của Thiên Chúa, “Đấng làm cho hiện hữu những gì đang hiện hữu”.[2]
2. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II
Mở đầu thông điệp Đức tin và lý trí, ĐGH Gioan Phaolô II viết: “Đức tin và lý trí như là đôi cánh giúp trí tuệ con người băng mình lên để chiêm niệm chân lý. Thiên Chúa đã in vào tâm khảm con người khát vọng nhận biết chân lý, và sau cùng để nhận biết chính Người, ngõ hầu khi đã biết và yêu mến Người thì con người cũng nhận biết chân lý đầy đủ về chính mình”.
Vốn là người luôn theo sát tư tưởng truyền thống thời các Giáo Phụ và Kinh viện, ĐGH Gioan Phaolô II không đề nghị một nền tảng triết học riêng biệt, cũng không phong thần cho một hệ thống triết học đặc thù, nhưng làm sáng tỏ mối liên hệ giữa đức tin và lý trí, giữa thần học và triết học. Ngài đã nhìn xa hơn đến những chân lý phổ quát và đã đặt ra những nền tảng hữu lý cho đức tin.
Với công thức “Tôi tin để hiểu” trong thông điệp Đức tin và lý trí, ĐGH Gioan Phaolô II khẳng định: “Đức tin làm cho cái nhìn bên trong được sắc xảo hơn, và giúp cho trí tuệ khám phá sự hiện diện sinh động của Đấng an bài trong diễn tiến của các biến cố” (số 16). Điều này phù hợp với sách Châm ngôn: “Tâm trí con người nghĩ ra đường lối, còn Thiên Chúa hướng dẫn từng bước đi” (Cn 16,9). Con người biết nhìn nhận đường lối của mình theo ánh sáng của lý trí, nhưng đặt việc khám phá của mình trong phối cảnh của đức tin mới khám phá được Đấng Anh Minh an bài mọi sự. Ngài cũng khẳng định lý trí và đức tin không thể tách biệt nhau và không làm cho con người mất khả năng nhận biết chính mình và nhận biết vũ trụ.
ĐGH đề cập đến thời kỳ Cận đại là giai đoạn lịch sử triết học phân ly dần dần giữa đức tin và lý trí triết học. Ngài cho rằng đức tin và lý trí mà đối đầu nhau đều trở nên nghèo nàn và suy yếu. Tương quan giữa lý trí và đức tin đòi hỏi một lỗ lực chăm chú để biện phân. Lý trí, mất trợ lực của đức tin sẽ liều mình đánh mất cứu cánh. Đức tin, thiếu lý trí, có nguy cơ không còn là mệnh đề phổ quát và trở thành thần thoại và mê tín (x. số 48).
Thật vậy, chính đức tin kích thích lý trí thoát khỏi tình trạng cô lập, và tình nguyện đương đầu với những gian nguy để tìm kiếm tất cả những gì là chân, thiện, mỹ. Đức tin tự nó là xác tín và làm cho lý trí xác tín.
3. Đức Giáo Hoàng Benedictô
Tiếp nối tư tưởng truyền thống, ĐGH Benedictô khẳng định đức tin và lý trí không mâu thuẫn nhau, trong một số trường hợp đức tin vượt trên lý trí nhưng không bao giờ tương phản với lý trí. Lý trí có khả năng sáng tạo, tham dự vào việc nhận biết Thiên Chúa. Cả đức tin và lý trí đều là quà tặng của Thiên Chúa cho nhân loại.
Nếu như ĐGH tiền nhiệm biện phân giữa đức tin và lý trí trong việc nhận biết Thiên Chúa, thì ĐGH Benedictô lại cho rằng đức tin và ánh sáng của lý trí đồng nghĩa với nhau trong những gì cao siêu nhất. Trong tông huấn Verbum Domini, ngài khẳng định phải có một đức tin nắm vững một tương quan thích đáng với lý trí ngay thẳng và không bao giờ được thoái hoá thành chủ trương duy tín, đưa tới cách đọc Kinh Thánh theo cơ cấu bảo thủ. Đàng khác phải có một lý trí, trong khi đi tìm các yếu tố lịch sử có trong Kinh Thánh, tỏ ra cởi mở và không tiên thiên bác bỏ tất cả những gì vượt quá tầm mức của mình. Nói cho cùng, tôn giáo của Lời nhập thể sẽ chỉ có thể cho thấy rằng tôn giáo này hết sức hợp lý đối với bất cứ ai chân thành đi tìm chân lý và ý nghĩa tối hậu của đời mình và của lịch sử.
Đứng trước những viễn tượng của thời đại, ĐGH lên án việc sử dụng đức tin như một cái cớ để biện minh cho bạo lực. Trong bài phát biểu tại đại học Ratisbonne, nước Đức năm 2008, ĐGH nói: “Máu đổ không làm vui lòng Thiên Chúa. Hành động vô lý trí là đi ngược lại bản tính của Người”.
Thế giới đang đầy những bất hoà, mà khuôn mặt của nó là những hình thức bạo lực nhân danh tôn giáo. Chúng được biểu lộ khác nhau về động lực và chi tiết. Những cuộc khủng bố tấn công nhằm mục tiêu rõ ràng, nhưng không để ý gì đến những sinh mạng vô tội bị giết hại dã man. Bên cạnh đó là những cuộc bách hại Kitô giáo ngày càng gia tăng, đặc biệt ở Irak, Ấn Độ, Pakistan.... Các Kitô hữu bị giết hại, bị loại trừ và bị tước đoạt các quyền con người. Đứng trước tình trạng này, ĐGH Benedictô đã nhiều lần lên án và chống lại chủ nghĩa khủng bố và cho đó là hành động đi ngược lại với cả lý trí và tôn giáo chân chính.
Quả vậy, con người không thể tôn vinh Thiên Chúa bằng việc giết hại đồng loại của mình. Đức tin là hoa trái của tâm hồn, và là một nhu cầu tự tại, nó phải được đón nhận một cách tự do trên cơ sở nhận biết, không thể dùng bạo lực để ép buộc người khác tin hay thuộc về tôn giáo của mình. Đó không phải là bản chất chân thật của tôn giáo. Trái lại, đó là sự xuyên tạc tôn giáo và góp phần phá hoại tôn giáo.
Trong lịch sử, người ta cũng đã nhân danh đức tin Kitô giáo để sử dụng bạo lực. Đây là điều đáng xấu hổ. Nhưng một điều tuyệt đối rõ ràng đó là đức tin Kitô bị nạm dụng một cách trái ngược với bản chất đích thực của đức tin này. Thiên Chúa mà các tin hữu Kitô tin chính là Đấng Tạo Hoá và là Cha của tất cả mọi người. Do đó, mọi người là anh chị em với nhau và họp thành một gia đình duy nhất. Nhân loại không bao giờ từ bỏ cuộc chiến chống bạo lực và quyết tâm xây dựng hoà bình trên thế giới. Tôn giáo chân chính được linh hoạt nhờ cùng một ước muốn chung, ước muốn trở thành những người lữ hành của chân lý, những người lũ hành của hoà bình.
4. Những bài học từ thời hiện đại
Nhìn chung, cách nhìn về mối tương quan giữa đức tin và lý trí thời kỳ Hiện đại không có bước đột phá rõ ràng, nhưng đi theo sát truyền thống và thích ứng với những biến cố của thời đại. Các tư tưởng gia đã cho thấy rõ cả đức tin và lý trí là hồng ân của Thiên Chúa. Mặc dù đức tin vượt trên lý trí ở một số vấn đề, nhưng không bao giờ có sự mâu thuẫn thật sự giữa đức tin và lý trí. Vì cùng một Thiên Chúa Đấng mạc khải mầu nhiệm và tuôn đổ đức tin, cũng là Đấng thông ban ánh sáng lý trí cho con người, mà Thiên Chúa không mâu thuẫn với chính mình Ngài, cũng như điều chân thật không bao giờ nghịch lại điều chân thật. Việc nghiên cứu có phương pháp trong mọi ngành khoa học và triết học sẽ không bao giờ đối nghịch với đức tin. Bởi vì các thực tại trần thế và các thực tại đức tin đều có nguồn gốc là bởi cùng một Thiên Chúa.
Đức tin là một hành vi nhân linh. Chỉ có thể tin nhờ ân sủng và những trợ giúp nội tâm của Chúa Thánh Thần. Tin vào Thiên Chúa và gắn bó với những chân lý do Ngài mạc khải không đi ngược với tự do và trí khôn con người. Trong đức tin, lý trí và ý chí con người cộng tác với ân sủng của Thiên Chúa: Tin là một hành vi của lý trí chấp nhận chân lý của Thiên Chúa theo mệnh lệnh của ý chí được Thiên Chúa tác động nhờ ân sủng. Đúng vậy, khi thánh Phêrô tuyên xưng Chúa Giêsu là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống, Chúa Giêsu nói với ông rằng không phải huyết nhục mạc khải cho ông điều ấy, nhưng là Cha của Người, “Đấng ngự trên trời” Mt 16,17). Để có được đức tin cần có ân sủng của Thiên Chúa giúp đỡ và sự trợ giúp bên trong của Chúa Thánh Thần, Ngài đánh động và quy hướng con tim về cùng Thiên Chúa, Ngài mở mắt lý trí cho mọi người cảm thấy dịu ngọt khi ưng thuận và tin vào chân lý.
Động lực chúng ta tin không phải là vì các chân lý Mạc khải tỏ hiện là xác thật và có thể hiểu được một cách rõ ràng đối với ánh sáng của lý trí tự nhiên của con người. Chúng ta tin vì uy quyền của chính Thiên Chúa. Đấng mạc khải là Đấng không thể sai lầm cũng không thể lừa dối ta. Tuy nhiên, để đức tin của chúng ta quy phục và phù hợp với lý trí, Thiên Chúa đã muốn có những bằng chứng bên ngoài về mạc khải của Ngài kèm theo sự trợ giúp bên trong của Chúa Thánh Thần. Chẳng hạn, phép lạ của Đức Giêsu và của các thánh, đó là những dấu chỉ chắc chắn của Mạc khải Thiên Chúa, những dấu chỉ đó phù hợp với lý trí mọi người, đó là những động lực khiến chúng ta tin. Những động lực đó cho thấy sự ưng thuận của đức tin hoàn toàn không phải là một hành vi mù quáng của tâm trí.
Đức tin tuyệt đối không được sử dụng vào mục đích bạo lực. Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, bạo lực nhân danh đức tin là đi ngược lại bản chất của nó.