24/08/2011 -

Suy tư, nghiên cứu

1036

 




Vâng Phục Vì Nước Trời (P2)


 


José Cristo Rey García Parades, CMF


chuyển ngữ: Việt Dũng, OP.


 


III - VÂNG PHỤC TỰ NGUYỆN VÀ CÓ BỔN PHẬN


Cộng đoàn tu trì của chúng ta là cộng đoàn truyền giáo. Nếu sứ vụ này cần phải có vâng phục, thì chỉ hợp lý khi cộng đoàn của chúng ta biết định rõ đường hướng dựa trên đức vâng phục. Cần phải nhấn mạnh rằng, sự vâng phục mà ta đề cập không được định nghĩa là sự vâng phục các bề trên. Đúng hơn, nền tảng sự vâng phục là mọi tu sĩ chủ động và tự do trong thừa tác vụ và họ phải thi hành sứ vụ của mình trong sự vâng lời. Đó chính là vâng phục thánh ý Thiên Chúa là Cha.


1. Vâng phục trong sứ mạng truyền giáo


Xét như là mục tiêu chủ yếu, việc vâng phục trong sứ mạng truyền giáo được xem là sự vâng phục thánh ý Chúa Cha. Qua đó, chúng ta thừa nhận rằng lý do hiện diện duy nhất của chúng ta với tư cách là các nhà truyền giáo là để sống như những tôi tớ của Thiên Chúa và làm bất cứ điều gì có thể để thực hiện sứ vụ mà chúng ta đã lãnh nhận.


Làm thế nào để nhận ra ý Chúa? Câu trả lời sẽ là tất cả chúng ta phải cùng kiếm tìm để nhận biết và thi hành ý định của Thiên Chúa. Trong việc tìm kiếm và thi hành thánh ý Thiên Chúa buộc chúng ta phải giúp đỡ anh chị em chúng ta qua lời cầu nguyện, khuyên nhủ và đối thoại huynh đệ. Không ai độc quyền trong việc hiểu biết và thực hiện ý Chúa cả, hơn thế, trong mỗi người và mọi anh em chúng ta, Thiên Chúa bày tỏ những mong muốn của Người, và việc thực hiện những mong muốn này là “công việc của mọi người” trong cộng đoàn. Nghĩa là chúng ta phải thể hiện lý do hiện diện cộng đoàn truyền giáo của chúng ta.


Chúng ta không được chọn sống và hoạt động một cách đơn lẻ. Ơn gọi tu trì nhắm đến mục tiêu là ơn gọi truyền giáo mang tính cộng đoàn. Nếu không có yếu tố “chung” này thì mọi ơn gọi sẽ trở nên vô hiệu. Là những tu sĩ, chúng ta không thể là những nhà truyền giáo hoạt động riêng rẽ. Với tư cách là những người hoạt động riêng rẽ “dựa trên chính cá nhân chúng ta”, chúng ta sẽ không nhận được những ơn huệ cần  thiết cho mỗi nhà truyền giáo, đó là nhận biết thánh ý của Đấng sai chúng ta đi. Chỉ “dựa trên cá nhân chúng ta”, chúng ta sẽ không thể nhận ra và thi hành thánh ý Thiên Chúa. Thánh ý Thiên Chúa trong trường hợp này là “thành viên của cộng đoàn”.


Tới đây chúng ta đã có một trong những điểm nòng cốt về cộng đoàn tu trì, đó là: cùng nhau kiếm tìm và thực thi ý định của Thiên Chúa trong sứ vụ chung của chúng ta.


2. Cùng nhau kiếm tìm thánh ý Thiên Chúa


Để có thể nhận ra kế hoạch của Thiên Chúa lúc này và bây giờ, “ngay giữa những hoàn cảnh đổi thay của thời đại, địa lý và con người”, tất cả mọi anh em trong cộng đoàn đều cần đến ánh sáng của Thần Khí, Đấng đã được ban cho chúng ta. Nếu chúng ta chia sẻ ánh sáng này cho người khác, chúng ta sẽ có thể càng thăng tiến thêm trong sự hiểu biết. Chẳng ai thánh thiện và sáng suốt đến độ không cần đến sự soi dẫn của người khác. Chẳng có ai quá nghèo nàn hay tội lỗi đến độ không thể cho đi điểm sáng của mình. Chúng ta cần phải làm sống động đức tin của chúng ta trong cộng đoàn anh chị em chúng ta, và tin vào sự tỏ bày ý định nhân hậu của Thiên Chúa bằng những việc sống đức tin này.


Cộng đoàn tu trì của chúng ta thường chỉ thể hiện điều này trong những dịp trọng đại, đặc biệt trong những cuộc họp cấp cao như tổng hội, tỉnh hội hay các cuộc hội họp khác. Kinh nghiệm cho thấy càng tham dự những cuộc hội họp thì sự mạc khải ý nhiệm của Thiên Chúa càng tỏ lộ, và khích lệ chúng ta thi hành những mạc khải đó. Đó là một điều rất khó để có thể xuyên suốt từng vấn đề trong đời sống thường ngày của các cộng đoàn địa phương. Tuy nhiên, cũng trong các cộng đoàn này, cùng nhau tìm ý Chúa là vấn đề sống còn với cộng đoàn. Nó sẽ làm cho cộng đoàn thăng tiến trong đức tin, trong sự sửa lỗi huynh đệ và giáo hoá lẫn nhau.


Vâng phục thánh ý Chúa cần thiết phải thông qua con đường đối thoại cộng đoàn và đời sống huynh đệ. Lời Chúa (logos) được mạc khải cho chúng ta qua những lời (logos) của anh em. Đối thoại cộng đoàn trở nên một giả định sống động để nhận biết và thực hiện sứ vụ từ những đối thoại đó. Đối thoại cộng đoàn không chỉ giới hạn bởi những cuộc trao đổi hay bàn thảo những tư tưởng. Đúng hơn đây là “đối thoại của cuộc sống”. Khi cuộc sống và suy nghĩ của chúng ta được ăn khớp với nhau qua đối thoại, chúng ta dễ dàng hiểu nhau hơn và khám phá ra sự thật, sự thật sẽ liên kết tất cả chúng ta.


3. Cộng đoàn thi hành thánh ý Thiên Chúa


Việc thực thi thánh ý Thiên Chúa gắn kết chúng ta không chỉ như những cá nhân nhưng như một tập thể. Khi cộng đoàn bất trung với Chúa sẽ làm cho chúng ta bị tổn thương y như khi chính chúng ta thất tín với Người. Đời sống khô khan hay bất tín của cộng đoàn thì cũng chính là của ta. Chúng ta là một cộng đoàn với cả những thực tại tích cực hay tiêu cực của nó, trong ân sủng cũng như trong tội lỗi. Bên cạnh những đòi hỏi riêng của lời khấn tuân phục ý Chúa, còn có những yêu cầu của cộng đoàn mà tất cả chúng ta đều phải có trách nhiệm. Vì thế, chúng ta phải khích lệ và sửa đổi cho nhau. Chúng ta phải cầu nguyện cho nhau và giúp nhau nhận ra rằng  “người ta được chọn không phải vì muốn hay chạy vạy, nhưng vì được Thiên Chúa thương xót” (Rm 9,16), vì thế chúng ta sẽ thấu hiểu nhau hơn và mang lấy gánh nặng và tội lỗi của nhau. Điều này phù hợp với ơn gọi truyền giáo của chúng ta là cùng nhau thực hiện một công việc nhỏ mọn thì hơn là những việc đại sự nhân danh cá nhân. Tôi tin rằng, sẽ rất phù hợp để trích dẫn ra đây một bản văn đã được lên chương trình trong thư gửi giáo đoàn Côlôxê, bản văn này đáng được làm bản lề hướng dẫn đời sống các cộng đoàn truyền giáo của chúng ta:


Nhưng nay, cả anh em nữa, hãy từ bỏ tất cả những cái đó: nào là nóng nảy, độc ác, nào là thoá mạ, ăn nói thô tục. Anh em đừng nói dối nhau, vì anh em đã cởi bỏ con người cũ với những hành vi của nó rồi. Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau. Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo. Ước gì ơn bình an của Đức Ki tô điều khiển tâm hồn anh em, vì trong một thân thể duy nhất, anh em đã được kêu gọi đến hưởng ơn bình an đó. Bởi vậy, anh em hãy hết dạ tri ân.


Ước gì lời Đức Ki tô ngự giữa anh em thật dồi dào phong phú. Anh em hãy dạy dỗ khuyên bảo nhau với tất cả sự khôn ngoan. Để tỏ lòng biết ơn, anh em hãy đem cả tâm hồn mà hát dâng Thiên Chúa những bài thánh vịnh, thánh thi và thánh ca, do Thần Khí linh hứng. Anh em có làm gì, nói gì, thì hãy làm, hãy nói nhân danh Chúa Giêsu và nhờ Người mà cảm tạ Thiên Chúa Cha (Col 3; 8-9, 12-17).


IV - VAI  TRÒ CỦA BỀ TRÊN TRONG CỘNG ĐOÀN


Mặc dù mỗi cộng đoàn tu trì đều ưu tiên vâng phục thánh ý Chúa, nhưng vẫn có một tác vụ hay chức năng riêng, chức năng này mang đặc sủng và tầm quan trọng khác nhau ở một thời đại. Đặc sủng này xác định ý Chúa trên cộng đoàn, đó là tác vụ quyền bính. Tác vụ này không chỉ là những điều bị áp đặt lên cộng đoàn một cách vô điều kiện. Tác vụ đó phát sinh từ bản chất  sâu xa của cộng đoàn. Đó là sự thể hiện khát vọng cùng liên kết và phát triển nơi mỗi cộng đoàn.


1. Tác vụ quyền bính


Tác vụ quyền bính có lý do tồn tại khi cộng đoàn dòng tu được hợp nhất như một cộng đoàn lớn gồm các cộng đoàn nhỏ, như là hiện diện của đoàn sủng được dự phóng cho tương lai, đoàn sủng này nối tiếp quá khứ và truyền thống của cộng đoàn.


1.1. Sứ vụ cảnh giác, nhiệt tình, liên đới


Sứ vụ quyền bính là thực tại trung gian được phép dùng quyền hành do chính các cộng đoàn đề xướng, sứ vụ đó cũng liên kết hiện tại với truyền thống cũng như với những dự phóng cho tương lai. Chúng ta áp dụng thuộc từ “bề trên” đối với anh em hay chị em trong cộng đoàn dòng tu đã lãnh nhận tác vụ quyền bính (lời khấn). Họ có bổn phận xây đắp tình liên đới trong anh em thuộc cộng đoàn địa phương, tỉnh dòng hay toàn dòng trong đời sống và sứ vụ. Đây là sứ vụ cảnh giác hay nhiệt tình. Cảnh giác đòi hỏi cộng đoàn phải trung thành trong chuẩn mực cao nhất, “là môn đệ của Đức Kitô như được phác hoạ trong Tin mừng”, và trung thành với đặc sủng của dòng nữa. Điều này liên quan đến việc dùng tác quyền trong việc sửa lỗi huynh đệ, hay chăm sóc mục vụ cho anh em, và bảo vệ cộng đoàn trước những đe doạ có thể xẩy ra. Sự nhiệt tình bao gồm duy trì và khích lệ “tinh thần” truyền giáo của cộng đoàn trong căn tính của mình, thi hành niềm vui và nhiệt huyết của một đấng bề trên, cũng như duy trì tình liên đới trong anh em.


1.2. Quyền hành của bề trên phát xuất từ đâu?


Đó là quyền hành do đặc sủng, gắn chặt với đặc sủng của dòng. Đó là thứ quyền bính trong Thánh Thần. Vì vậy, đó không phải là thứ quyền bính tự trị, cũng không phải quyền bính được gắn với đặc sủng mang tính cá nhân của người giữ chức vụ đó. Các bề trên phải thi hành quyền của họ theo những nguyên tắc của hiến pháp. Quyền hành của bề trên được đề cử do chính tổng hội ủy thác cho họ. Điều này được chứng tỏ một cách minh bạch trong cuộc bỏ phiếu của các bề trên cao cấp, hay ở những cấp độ tương ứng của các bề trên cấp tỉnh hay địa phương.


Tác vụ quyền bính được thi hành do nhiều người khác nhau trong dòng. Vậy nên, có một “thực tại khách quan” thể hiện đúng mức tác vụ đó: tác quyền thuộc toàn tu hội hay hội dòng,[1] phải được quản trị một cách trung tín. Vì vậy, bề trên buộc phải sống tình liên đới của dòng -  trong mọi vấn đề - và vì vậy phải xác định được giá trị tài sản hiện tại của dòng. Đó là quyền bính do đặc sủng, quyền bính của cả dòng, được thể hiện rõ nơi bề trên. Đây là điều buộc đầu tiên về mặt luân lý đối với những người đã nhận tác vụ: sự liên đới tình thương và sứ vụ thể hiện trong các cộng đoàn của chúng ta, được diễn tả rõ nét nơi các bề trên. Họ không bao giờ được quyên rằng họ là bề trên của cộng đoàn tỉnh dòng hay địa phương nhân danh toàn dòng, và vì vậy tác vụ của họ không được giới hạn trong việc phục vụ anh em hay chị em của cộng đoàn tỉnh dòng hay địa phương, mà cả những anh chị em có liên hệ trong toàn tỉnh dòng nữa.


2. Nguồn lực của quyền bính


Từ một quan điểm khác, bề trên phải phát huy quyền bính của mình khi Người có một tình yêu nồng nàn đối với Giáo hội, khi Người được đồng nhất với sứ vụ của Giáo hội, và khi họ chọn lựa dứt khoát phục vụ cho người nghèo, đó là một dấu chỉ thời đại. Từ đó, nơi chính mình, họ mang quyền bính của chính dân Thiên Chúa, quyền bính của người nghèo và người tàn tật trên thế giới. Hơn thế, khi quyền bính của Dân Thiên Chúa càng củng cố tác vụ của bề trên thì Người càng được liên kết với Đấng Tân lang của Giáo hội, của Dân Thiên Chúa, là Đức Giêsu Kitô. Một lòng mến tha thiết với Đức Giêsu Kitô, một khát vọng nên một với Người trong mọi sự, sẽ làm cho dấu ấn của Thiên Chúa tỏ hiện nơi vị bề trên, và qua Người, Thiên Chúa sẽ nói và phục vụ: “con người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20, 28; 1 Ga 3, 16).


Người giữ chức vụ được đề cử cách pháp lý luôn tồn tại những tác động ngoại lai và quyền bính này hoàn toàn khác với quyền bình luân lý. Có những bề trên, do phẩm chất con người hay do ơn Thánh Thần ban đã có một quyền bính luân lý rồi. Tuy nhiên, quyền luân lý này không phải đòi hỏi đối với tất cả những ai đã lãnh nhận tác vụ trong dòng. Điều thiết yếu để có quyền bính luân lý đó là vị bề trên chấp nhận quyền bính của đặc sủng, của Giáo hội, của người nghèo và của Đức Giêsu tác động nơi Người: để làm người phát ngôn hơn là lời nói, làm người đại diện hơn là người ra quyền hành, để trở thành dấu chỉ hay biểu tượng hơn là thực tại, để được giao phó hơn là bị đòi buộc.


Ở một mức độ nào đó, thì rõ ràng bề trên cũng phải dùng tác vụ quyền bính theo tính chủ quan của mình. Họ sẽ hình thành tác vụ ấy theo đặc sủng của cá nhân mình và theo đòi hỏi của Tin mừng mà Thánh Thần linh hứng cho Người. Chính vì điều này mà các bề trên phải dùng tất cả những ân huệ được ban để phục vụ. Trong việc tìm hiểu ý Chúa trong cộng đoàn, một trách nhiệm đặc biệt của các bề trên là hoà hợp tất cả cộng đoàn: các Người phải nỗ lực quan tâm đến ý định của Chúa Cha và chia sẻ những ý định đó cho anh em. Tuy nhiên, các Người phải tránh những hình thức vụ lợi cho bản thân. Các bề trên phải lấy làm vui mừng khi lắng nghe những ý kiến phản ánh của anh em trong cộng đoàn, và khích lệ anh em đóng góp vào công việc của dòng và của Giáo hội. Thậm chí, trong nhiều cơ hội khác nhau, sứ vụ đòi hỏi các Người làm việc mà không làm tổn hại đến tác quyền của mình, để quan tâm và tỏ rõ những công việc đang được thực hiện.


3. Bảy lời khuyên dành cho bề trên


1) Hãy đón nhận bằng tình thương và niềm hân hoan sứ vụ mà dòng đã mời gọi bạn. Thiên Chúa muốn bạn làm bề trên của anh em, chị em bạn. Hãy đón nhận ý Chúa. Đừng quên rằng Thiên Chúa muốn bạn vâng phục trong hoan lạc.


2) Bạn là tôi tớ của một cộng đoàn các ngôn sứ. Hãy để Lời Chúa luôn được lắng nghe trong cộng đoàn của bạn. Đừng ngăn cản lửa Thần Khí. Hãy sống với nhiệt huyết và sẽ chẳng có gì có thể dập tắt niềm hy vọng vào Chúa và sự tin tưởng của anh chị em.


3) Ma quỷ muốn cướp đi căn tính của bạn. Nó muốn biến bạn thành cái máy làm việc, và biến hội dòng của bạn thành một ngẫu tượng đầy mãnh lực, nó công cụ hoá tất cả, thậm chí cả con người. Cộng đoàn của bạn được mời gọi trở nên dấu chỉ của Nước Trời. Hãy chiến đấu mỗi ngày để cộng đoàn trở nên xứng đáng hơn.


4) Hãy tin tưởng nơi anh chị em. Ngay cả khi họ lừa dối bạn. Hãy cầu nguyện cho họ, vì nó sẽ giúp bạn tiếp tục tin tưởng vào anh chị em. Và sự tin tưởng ấy sẽ biến đổi họ. Chúng ta sẽ xoá đi được những ngờ vực trước một người vô tội cũng như trước một người có tấm lòng chân thành và yêu mến.


5) Công việc phục vụ của bạn đối với anh em, chị em sẽ không bao giờ vô ích. Khi bạn chết đi, lại là lúc cộng đoàn của bạn được sinh ra. Bạn không phải là bề trên cho chính mình nhưng vì cộng đoàn. Tác vụ của bạn không phải là để xây dựng một cộng đoàn theo khuôn khổ và ý riêng của bạn, cũng không phải là công trình của riêng bạn. Tác vụ của bạn chỉ là khí cụ của Chúa để xây dựng một cộng đoàn như ý Người muốn.


6) Khi bạn cảm thấy cô đơn, hãy nghĩ đến Đức Giêsu. Người đã từng trải qua những hoàn cảnh tương tự. Đừng lo lắng, nếu những lúc đó cám dỗ đến với bạn, dụ bạn từ bỏ công việc và buông xuôi tất cả. Đức Giê su đã có những cảm nghiệm tương tự đó rồi. Hãy đi cầu nguyện. Hãy cầu nguyện với Chúa Cha. Người sẽ sai sứ thần đến giúp bạn và bạn sẽ lấy lại được sức mạnh để tiếp tục cuộc hành trình.


7) Và nên nhớ rằng! Bạn tỏ ý muốn từ chức chỉ khi bạn khám phá ra rằng bạn đang cảm thấy bất ổn về mặt tâm lý và chẳng có gì có thể giải quyết được. Ngoài những hoàn cảnh này, hãy đón nhận việc phục vụ một cách khiêm tốn. Hãy luôn luôn mở rộng con tim để Thiên Chúa đi qua đời bạn. Bạn sẽ thay đổi. Bạn sẽ chín chắn. Và cuối cùng bạn sẽ trở nên xứng đáng là môn đệ của Đức Giêsu.


V - HÀNH TRÌNH TÂM LINH CỦA SỰ VÂNG PHỤC


1. Biết tự chủ trước Thiên Chúa nhờ lòng mến


Thiên Chúa luôn là mục đích của ơn gọi tu trì. Kẻ được sai đi phải sống phụ thuộc trọn vẹn vào Thiên Chúa, Đấng đã sai họ đi. Một khi người tu sĩ làm chủ con người của mình thì làm chủ được mình nhờ lòng mến Chúa.


Người tu sĩ không bao giờ rời bỏ môi trường vâng phục của mình đối với Chúa, ngay cả khi họ vâng phục những con người hành động như đấng trung gian ban phát ý định của Người. Hơn nữa, người tu sĩ cần biến sự phục tùng thiết thực của mình đối với các bề trên thành sự phục tùng chính Đức Kitô. Thánh Phêrô đã nói với các Kitô hữu rằng: “vì Chúa anh em hãy tuân phục mọi thể chế do loài ngươi đặt ra: dù là vua hay người nắm quyền tối cao (1Pr 2; 13-14) nhưng Người cũng nói tiếp “Hãy sống như những người tự do, không phải dùng tự do như màn che sự gian ác, nhưng như những tôi tớ của Thiên Chúa” (1Pr 2, 16). Và Người kết luận “Hãy tôn trọng mọi người, hãy yêu thương anh em, hãy kính sợ Thiên Chúa, hãy tôn trọng nhà vua” (1 Pr 2, 17).


Ở mọi nơi mọi lúc, sức mạnh thúc đẩy chúng ta vâng phục phải là lòng mến. Chỉ có lòng mến mới làm cho sự vâng phục trở nên hoàn hảo và chíng đáng. Chính lòng mến thúc bách và tinh lọc sự vâng phục của ta. Tương quan của chúng ta với các bề trên phải được quyết đoán do lòng mến.


2. Vâng phục trong đối thoại


Vâng phục không đòi từ bỏ dứt khoát lối suy nghĩ riêng, chân lý riêng của chúng ta. Điều quan trọng là chúng ta vâng phục trong bầu khí đối thoại (dialoge-logos), trong sự liên đới tìm kiến chân lý. Vì lý do này, ngay từ đầu người tu sĩ không nên phá đổ mà hơn thế phải bảo vệ những xác quyết do các bề trên đề ra, biết lượng giá sự thật được diễn tả qua những xác quyết đó. Tuy nhiên chân lý phải thực sự phát xuất từ lòng mến, khi người tu sĩ cảm thấy trong lương tâm có điều gì mâu thuân với những gì đã được truyền dạy thì họ phải tự do trình bày vấn đề, sau khi thổ lộ trước sự hiện diện của Chúa. Tuy nhiên, trong mọi trường hợp, họ nên chấp nhận những gì đã được quyết định vào giờ phút cuối cùng.


3. “Phát huy mọi khả năng và sức lực của tu sĩ”


Sự vâng phục của tu sĩ phải trở thành niềm vui, được cam kết và thực hành trong kỷ luật. Một tu sĩ chỉ thi hành những gì họ được giao phó không thôi thì chưa đủ. “Siêng năng” trong sự vâng phục đòi hỏi mỗi tu sĩ phải đóng góp mọi năng lực cá nhân để thi hành nhiệm vụ đã được trao cho họ.


Bất cứ lúc nào người tu sĩ đón nhận sứ vụ, cho dù là phục vụ anh em, phục vụ công việc của Giáo hội, hay phục vụ tha nhân, thì họ phải đặt tất cả tâm trí vào việc đó và cống hiến cho sứ vụ bằng tất cả đặc sủng của mình. “Hãy làm cho tài năng và sức lực của họ trổ sinh hoa trái” là một đòi hỏi cần thiết. Các tu sĩ phải vượt qua những mỏi mệt, thất vọng để tiếp tục “đi đến cùng” cuộc hành trình. Thế nhưng, sự thể hiện này “không thể được” đối với những kẻ chỉ nói xuôi bề ngoài, đó là sự vâng phục giả tạo. Kiểu vâng phục này phá vỡ động lực của các cộng đoàn chúng ta. Thà thẳng thắn tứ chối trách nhiệm hay sứ vụ ngay từ đầu còn hơn là “tỏ vẻ vâng lời bề ngoài như thế”. Tu sĩ còn đang có trách nhiệm mà không dồn hết “năng lực” cho bổn phận ấy thì đó chưa phải là vâng phục.


4. Sẵn sàng cho sứ vụ


Vâng phục phải được hiểu là luôn sẵn sàng để được sai đi bất cứ nơi đâu trên thế giới. Có hai điều kiện để được sai đi truyền giáo: đó là sự tự do cả về con người và vật chất và sẵn sàng với bất cứ sứ mạng nào mà các bề trên trao phó cho các tu sĩ.


Trong bối cảnh này, hội dòng đúng là một tập thể sẵn sàng cho sứ vụ. Bất cứ lúc nào, nhiệt huyết ra đi của nhà truyền giáo cũng sẵn sàng. Khi quyết định sai đi, các bề trên có thể hy vọng vào sự vâng phục của mỗi thành viên trong hội dòng.


Vâng phục trong sứ vụ sẽ hoàn thiện con người chúng ta. Đây là niềm vui lớn lao và là chân trời bao la của vâng phục tu trì. Đó cũng là cơ cấu, trong đó tác vụ quyền bính trong các hội dòng phải được thiết lập. Các bề trên phải vâng nghe lời mời gọi cấp bách của sứ mạng đã bắt nguồn từ truyền thống, và phải đặt các hội dòng và nhân sự của họ trong trạng thái sẵn sàng đáp ứng ngay những nhu cầu của sứ vụ.


Việt Dũng, OP.


(TSTH số 33)


Chuyển dịch từ OBEDIENCE FOR THE KING DOM của José Cristo Rey García Paredes. Cmf






[1] Khi chúng ta nói “toàn thể” hay “tất cả”, là chúng ta cũng nói đến hội dòng của cha anh đã để lại cho chúng ta “gia sản thiêng liêng” này.



114.864864865135.135135135250