23/08/2011 -

Suy tư, nghiên cứu

1077

 




Vâng Phục Vì Nước Trời (P1)


 


José Cristo Rey García Parades, CMF


chuyển ngữ: Việt Dũng, OP.


 


 


I - NỀN TẢNG KINH THÁNH CỦA SỰ VÂNG PHỤC


Sự vâng phục trong bậc tu trì và theo ý nghĩa Tin mừng của chúng ta cần phải được trình bày trong mối tương quan trường cửu với thánh ý của Chúa Cha.


1. Vâng phục là lắng nghe và thực thi thánh ý của Thiên Chúa.


1.1. Vâng phục là “mở tai ra”


Để ý một chút, chúng ta nhận thấy, danh từ “obedience” (vâng phục) có nguồn gốc từ tiếng Latinh obœdire (tiếp đầu ngữ nhấn mạnh ob- + động từ audire); cũng như trong tiếng Hy lạp  (hyp-akouo)[1] và tiếng Do thái dùng trong Kinh thánh, từ này có nghĩa là chăm chú lắng nghe, là mở tai ra, là chú ý vào thực tiễn. Theo nghĩa tôn giáo, vâng phục là thái độ chăm chú lắng nghe lời Thiên Chúa cho dù thánh ý của Người được diễn tả dưới bất cứ hình thức nào. Vì thế, chúng ta phải tập trung vào sự vâng phục thánh ý Thiên Chúa. Đức Giêsu Kitô, “Đấng được sai đến để thi hành thánh ý Chúa Cha” chính là nền tảng cho sự vâng phục của chúng ta.


1.2. Thánh ý Thiên Chúa


Vậy đâu là thánh ý Thiên Chúa? Thiên Chúa trong Kinh thánh không phải là một tên bạo chúa, mà cũng không phải là một kẻ độc đoán. Mọi sự Người làm hoặc tạo nên đều tốt lành. Thánh ý Thiên Chúa mà sự vâng phục muốn nhắm đến được diễn tả trong tiếng Do thái là ritson, có nghĩa là lòng nhân từ, thiện ý, sự tử tế, lòng tốt… Đối với dân Israel, Thiên Chúa không chỉ là Đấng sáng tạo nên họ, mà Người còn là ân nhân thiêng liêng của họ: Thiên Chúa khoan dung và ân cần với dân tộc của họ; Người đã là như thế và sẽ mãi mãi là như thế (lời hứa). Israel đã không vâng phục Giavê khi họ ngày càng lãng quên lòng nhân hậu vô biên của Người (Xc. Tv 106, 7), khi họ không đáp trả tình yêu mà họ vẫn nhận lãnh từ Thiên Chúa. Người Do thái đạo đức không chỉ vâng phục những giới luật của Thiên Chúa, mà còn khao khát, ca tụng  và suy gẫm nữa (Xc. Tv 119), vì luật của Thiên Chúa thì lôi cuốn, đáng ước muốn và là một quà tặng. Dân Israel nói chung là một người con “được tuyển chọn” hoặc là người tôi tớ của Thiên Chúa, chỉ thuộc về một mình Người và thực thi thánh ý Người. Nhưng Israel lại rất cứng đầu, bướng bỉnh và không vâng lời; thực vậy, nhìn từ góc độ dữ liệu Kinh thánh, dường như Israel và những người lãnh đạo họ không bao giờ vâng phục Thiên Chúa. Vì thế “Người tôi tớ Giavê” trong sách Isaia phần II là một hình ảnh ước mong của một giấc mơ chờ đợi đã lâu.


Để chuyển giao thánh ý Thiên Chúa cho loài người, các ngôn sứ đã phải tuân theo sứ mạng của họ, vâng phục Thánh Thần. Ngôn sứ là một người hòa hợp với Thiên Chúa. Họ phải có đôi tai luôn mở rộng và luôn sẵn sàng vâng phục. Khởi điểm của họ không phải là ý riêng, sở thích hay sự quan tâm riêng của họ. “Vì anh em, tôi ghen cái ghen của Thiên Chúa” (2 Cr 11, 2). Một lời ngôn sứ mà không hoàn toàn tuân theo Thiên Chúa[2] thì nó chẳng khác gì một ảo ảnh, vì thái độ thành thật của ngôn sứ phải là: “Lạy Chúa, xin hãy nói, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe” (1Sm 3, 9).


2. Đức Giêsu Kitô, Đấng được sai đến để thi hành thánh ý Chúa Cha.


2. 1. “Vâng phục cho đến nỗi bằng lòng chịu chết”


Đức Giêsu đã sống phục tùng thánh ý Chúa Cha ngay từ thời thơ ấu của Người: “Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?” (Lc 2, 49).


Trong những cơn cám dỗ của Chúa Giêsu, Người bị đặt đối diện với giới răn quan trọng nhất, đó là giới răn yêu thương. Cơn cám dỗ thứ hai (trong Tin mừng theo thánh Mátthêu; và là cơn cám dỗ thứ ba trong Tin mừng theo thánh Luca) tập trung vào việc khám phá xem Đức Giêsu có yêu mến Chúa Cha bằng chính mạng sống của Người không, hoặc Người có dám vâng phục Chúa Cha ngay cả khi phải chết, có dám hiến dâng mạng sống của mình cho Chúa Cha không. Ngọn tháp cao đền thờ là nơi người Do thái thường quăng tội nhân xuống, và tội nhân này ngay cả khi đã chết do rơi xuống, cũng vẫn bị giết chết một lần nữa do bị ném đá. Thánh Giacôbê, anh em với Đức Giêsu cũng bị ném xuống từ ngọn tháp của ngôi đền thờ này. Tại nơi đây, đối diện với mối nguy hiểm chết người, như Tin mừng về Nước Trời của Người sau cùng yêu cầu, Đức Giêsu không xin một dấu chỉ, cũng không thử thách Giavê như người Israel đã làm trong một tình huống tương tự khi họ hỏi: “Giavê có ở với chúng ta hay không?” Ngược lại, Đức Giêsu đáp: “Có lời chép rằng: Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi” (Mt 4, 7)[3]. Đức Giêsu cho thấy rằng, Người sẵn sàng hiến dâng mạng sống của Người để vâng phục Cha của Người và không xin bất cứ một đặc quyền đặc lợi nào[4].


Đức Giêsu đã chấp nhận việc thực thi sứ mệnh của mình bằng sự phó mặc của một người con, với một tấm lòng quảng đại tràn đầy. Người luôn luôn tìm kiếm thánh ý Chúa Cha. Tất cả những sổ sách ghi chép được truyền lại cho chúng ta cũng đề cập đến sự vâng phục cho đến hơi thở cuối cùng của một người con thảo nơi Người. Toàn bộ những công việc của Đức Giêsu trong Tân ước được diễn tả như là một sự vâng phục: “Nhờ một người duy nhất đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính” (Rm 5, 19).


2.2. Hiệp nhất ý muốn với Chúa Cha


Đức Giêsu không xuất hiện trên thế giới này như là một hữu thể “chui vào hiện hữu”, là người mà có thể phải tự hỏi bản thân về ý nghĩa và mục đích của đời mình. Về mặt nhân tính, Đức Giêsu chính là kết quả của sứ vụ (Xc. Ga 4, 34), là kết quả của một sự ủy thác nơi Chúa Cha (Xc Ga 10, 18; 12, 49), và vì thế, Người là kết quả của sự vâng phục. Chỉ một mình nơi Đức Giêsu, Chúa Cha mới nhận được sự đáp trả vâng phục hoàn trọn (Xc. Dt 10, 5-10). Đức Giêsu không thực hiện một thánh ý nào khác với thánh ý của Chúa Cha. Người không phải là một người hoạt động một cách độc lập. Người luôn luôn sẵn sàng phục vụ Chúa Cha, một sự phục vụ hoàn toàn đồng nghĩa với tình yêu: Chúa Cha đã sinh ra Người do tình yêu và Chúa con cũng chỉ nhắm đến việc đáp trả tình yêu này đối với Chúa Cha như Người đã nhận được từ Chúa Cha. Giữa Chúa Cha và Chúa Con có một mối liên hệ mật thiết mà chúng ta không thể hiểu được, một sự mật thiết làm cho toàn bộ cuộc đời Đức Giêsu chứa đầy mầu nhiệm. Những lối nói thể hiện điều đó được biểu lộ qua một vài phương diện sau:


Người Con không thể tự mình làm bất cứ điều gì, ngoại trừ điều Người thấy Chúa Cha làm; vì điều gì Chúa Cha làm, thì người Con cũng làm như vậy. Quả thật, Chúa Cha yêu người Con và cho người Con thấy mọi điều mình làm, lại sẽ còn cho người Con thấy những việc lớn lao hơn nữa, khiến chính các ông cũng phải kinh ngạc (Ga 5, 19-20).


Mối tương quan giữa Chúa Con và Chúa Cha chỉ có thể được định nghĩa bằng thuật ngữ “tình yêu”, và tình yêu này là một tình yêu trải nghiệm, một tình yêu sống động. Hoạt động của Chúa Con làm cho quyền năng của Chúa Cha thể hiện ở trên thế giới này: “Quả thật, Chúa Cha không xét xử một ai, nhưng đã ban cho người Con mọi quyền xét xử, để ai nấy đều tôn kính người Con như tôn kính Chúa Cha” (Ga 5, 22-23). Đức Giêsu cũng chia sẻ quyền lực của Chúa Cha vô bờ bến, ngay cả quyền làm cho người chết sống lại và ban sự sống cho họ (Xc. Ga 5, 21). Khi đến thế gian để thực thi sứ mạng của mình, Đức Giêsu không ngừng kết hợp với Chúa Cha: “Bên cạnh tôi luôn có Đấng đã sai tôi [tức Chúa Cha]” (Ga 8, 16-18).


Tình yêu của Chúa Con cũng không kém phần thánh thiêng hay tuyệt đối hơn tình yêu của Chúa Cha, mặc dù nó mang hình thái của sứ vụ, của sự phục vụ, hay của sự vâng phục. Chúa Con cũng không kém tự do hơn Chúa Cha, mặc dù hình thức tự do của Người cốt tại ở chỗ loại trừ bất cứ ước muốn nào không phải là ước muốn của Chúa Cha. Chúa Con cũng không phân biệt bản thân với sứ vụ của mình; không bao giờ Người xao lãng tình trạng mà Chúa Cha đã đặt Người vào bằng cách coi mình như là một hữu thể tại sự (in se).


Trên Thập giá, Chúa Cha và Chúa Con bị ẩn giấu qua lại lẫn nhau, nhưng trong chính sự ẩn giấu khó hiểu đó, Chúa Cha và Chúa con vẫn tiếp tục yêu thương nhau cho đến cùng bằng một tình yêu không bờ bến. Trên Thập giá, Chúa Con đã thực hiện một hành động yêu thương dưới hình thức phục vụ đúng nghĩa: trên thập giá, Người đã bỏ lại tất cả những gì là chủ quan của Người (Xc. Mt 26, 39; Ga 12, 27; Lc 22, 42); trên Thập giá, Người cũng cho thấy rằng Người đặt thánh ý Chúa Cha lên trên ý riêng của mình: đây là giây phút sau cùng của lời cam kết yêu thương, lời cam kết vâng phục tuyệt đối của Người. Bằng sự vâng phục, Đức Kitô đã cho thế giới thấy quyền năng tuyệt đối của Chúa Cha. Đức Giêsu đã vâng phục quyền năng này đến nỗi thể hiện rõ nét nơi bản thân Người, bằng cách trở thành người đại diện của Chúa Cha trong thế gian nhờ sự tuyệt diệu của quyền năng này. Và Người cũng đã thông chuyển quyền năng này cho Giáo hội (Ga 13, 20).


3. Vâng phục trong Thần Khí


Chúng ta không thể không kể đến cấu trúc Thần Khí trong sự vâng phục của Chúa Giêsu. Với Đức Giêsu, Chúa Thánh Thần chính là người mang lệnh truyền của Chúa Cha; trên hết mọi sự, Thần Khí là Luật mà nơi đó Đức Giêsu đọc ra thánh ý Chúa Cha. Với Đức Giêsu, Thần Khí là một trường hợp thừa tác đặc biệt[5]. Chính Thần Khí đã đưa Người đến sứ vụ của mình.


Không chỗ nào trong Tân ước nói cho chúng ta biết rằng, con người Giêsu, trong sự chết của Người và trong sự hiệp thông với Chúa Cha, đã “nhiệm suy” từ Thần Khí; trong một cách thế như vậy, cùng với Chúa Cha (như một thứ trưởng thành thiêng liêng), Người có thể cùng quyết định sứ mệnh của mình. Mối hiệp thông này với Chúa Cha trong sự nhiệm suy của Thần Khí được Đức Giêsu “khôi phục lại” sau khi Người đã “thổi Thần Khí vào sứ vụ của Người” nơi sự chết. Khi còn ở trần gian, Thần Khí đã bay lượn trên Đức Giêsu và tỏ rõ thánh ý Chúa Cha cho Người. Với sự thúc đẩy của Thần Khí, Đức Giêsu đã thưa “xin vâng” cho dù vì lời “xin vâng” này, Người có thể bị vào một vương quốc không thiêng thánh, vương quốc của cám dỗ, của sự chết và tội lỗi. Sự vâng phục trong cuộc thương khó là điều có thể chấp nhận được bởi vì Chúa Cha đã thể hiện cụ thể ý định của mình nơi Thần Khí là Người có thể không xuất hiện. Thần Khí đã bảo đảm tính đồng nhất Cha-Con vẹn toàn ngay trong giữa sự ẩn nấp của Chúa Cha. Khi sự vâng phục đối với sứ vụ của Chúa Con đã được thấm nhuần đến tận cùng nhờ Thần Khí, thì chính Thần Khí có thể được thổi trên Giáo hội và thế giới nhờ Thiên Chúa được tôn vinh (Xc. Ga 14, 26; 15, 26).


4. Mẫu gương của Đức Maria, “nữ tỳ của Thiên Chúa”


Để trở nên người phàm, Thiên Chúa muốn có sự ưng thuận của loài người, và Người đã nhận được sự ưng thuận này nơi Đức Maria, Mẹ không chỉ tuyên bố ưng thuận trên môi miệng mà còn thể hiện bằng cả cuộc đời của Mẹ, với tư cách là đại diện của toàn thể nhân loại. Đức Maria là hiện thân của người “tôi tớ Thiên Chúa”, tức là của dân được Thiên Chúa tuyển chọn. Nơi Đức Maria, Israel vâng phục Thiên Chúa mà không chút dè dặt. Mẹ chấp nhận tình yêu của Thiên Chúa, tin tưởng vào Lời Người và niềm nở đón nhận ý định nhân hậu của Thiên Chúa.


Cùng với thời gian, Đức Maria ngày càng trưởng thành. Từ cấp độ vô ý thức của một đứa trẻ, Mẹ đã lên đường tìm kiếm gặp gỡ thánh ý Thiên Chúa. Nhưng dù có ý thức hay không ý thức, toàn bộ đời sống của Mẹ không là gì khác hơn ngoài hai tiếng “xin vâng” với Thiên Chúa. Lời “xin vâng” của sự nhập thể có một vài điều giả định trước rất sâu xa trong cuộc đời Đức Maria. Trong hình ảnh Đức Maria mà thánh sử Luca cung cấp cho chúng ta, điểm nổi bật chính là thái độ sẵn sàng của Mẹ với thánh ý Thiên Chúa. Trong thái độ chờ đợi tuyệt đối của Mẹ, Mẹ đã được Thiên Chúa đáp lời. Khi Lời của Người đến với Mẹ, Mẹ đã niềm nở đón tiếp không chút dè dặt (Lc 1, 38). Nơi Mẹ, Lời đã đem lại một mùa bội thu gấp trăm lần, vì Mẹ là thửa đất tốt, thửa đất màu mỡ[6]. Mẹ đã được Thiên Chúa chúc phúc và ban ơn vì sự tin tưởng và sự vâng phục tuyệt đối vào Lời Chúa (Xc. Lc 1, 42-45). Vì thế, trong Tin mừng thứ ba, Đức Giêsu quả thực chuẩn nhận sự vâng phục trìu mến của Đức Maria khi Người nói: “Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa” (Lc 11, 28).


Lúc khởi đầu nhập thể, Đức Maria đã mang nơi mình tâm thức: lời của Thiên Chúa. Sự nhập thể đã biến đổi trọng tâm hiện hữu của Mẹ. Mẹ là thừa tác viên đầu tiên của Lời mặc lấy xác phàm, tức Đức Giêsu. Mẹ luôn luôn chú ý đến Lời bằng một thái độ lắng nghe và thực hành liên lỉ. Vì thế, Mẹ chính là “nữ tỳ của Thiên Chúa”. Mặc dù bà Elizabeth đã công nhận tước vị của Đức Maria là “Mẹ Thiên Chúa”, nhưng Đức Maria thích nhấn mạnh đến thân phận của mình là “tôi tớ của Thiên Chúa” hơn. Nơi Đức Maria, thiên chức làm mẹ phải được hiểu là sự phục vụ; cũng như nơi Đức Giêsu, phận làm con cũng được hiểu theo ý nghĩa tương tự như thế: Người là Chúa Con nhờ trở thành tôi tớ. Đức Maria là người phụ nữ vâng phục tuyệt đối.


II - LỜI KHẤN VÂNG PHỤC CỦA  KITÔ HỮU


Lý do hiện hữu của hình thức đời sống tu trì chúng ta chính là để thực thi thánh ý Chúa Cha trong cộng đoàn của mình, nhờ trở nên sự tiếp nối sống động thái độ vâng phục của Đức Giêsu và để cho bản thân chúng ta được thúc đẩy bởi mẫu gương của Đức Maria.


1. Sự vâng phục “Kitô hữu”


Vâng phục không phải là một đặc tính chỉ liên quan đến chúng ta là những người tu sĩ. Vâng phục là một điều kiện nền tảng đối với sự  hiện hữu của mỗi người với tư cách là một người Kitô hữu.


1.1. Đức tin của Kitô hữu là vâng phục


Là Kitô hữu có nghĩa là “con cái của sự vâng phục”[7]. Người Kitô hữu vâng phục: Thiên Chúa hơn là vâng phục người phàm (Xc. Cv 5, 29), vâng phục Đức Kitô (Xc. Dt 5, 29), vâng phục chân lý (Xc. 1 Pr 1, 22; Gl 5, 7), vâng phục Tin mừng (Xc. Rm 10, 16), vâng phục giáo huấn và những chuẩn mực đạo lý của các Tông đồ (Xc. Rm 6, 17; 2 Cr 2, 9). Chính đức tin là một sự vâng phục đối với Thiên Chúa hoặc đối với Đức Giêsu[8]. Đức tin của người Kitô hữu là sự vâng theo ân sủng cánh chung, vâng theo sự hoàn trọn các lời hứa; đó là một sự vâng phục trạng thái mới được tác thành nơi Đức Giêsu Kitô. Đức tin yếu kém làm cho một người mất khả năng vâng phục, mất khả năng nắm giữ các giá trị nước trời, mất khả năng lắng nghe Lời và thực thi Lời một cách hợp lý. Chỉ có đức tin vâng phục trong hành động mới có thể dời núi dời non.


2.2. Bước vào sự vâng phục của Đức Kitô


Trên hết mọi sự, thuộc về Giáo hội là thuộc về Đức Kitô. Bước vào Giáo hội là bước vào sự vâng phục của Đức Kitô; sống theo sự vâng phục của Đức Kitô là được trở nên đồng hình đồng dạng với Người. Trên hết mọi sự, trở thành phần tử của Giáo hội có nghĩa là chấp nhận, là đón tiếp và để cho bản thân quy phục “những gì đã được thực hiện một lần cho tất cả”, là đồng ý với thực tại cánh chung. Trong sự vâng phục đức tin, chúng ta nhận ra căn tính của chính mình. Trên Thập giá, tất cả chúng ta đã được giải thoát khỏi chính mình. Chúng ta hoàn toàn thuộc về Đức Kitô, Đấng đã cứu chuộc chúng ta bằng chính máu của Người; thuộc về Chúa Cha trong Đức Kitô, để chúng ta không còn thuộc về chính mình nữa, để chúng ta còn nô lệ cho bất cứ “thần” nào khác. Trọng tâm của lời đáp trả nơi người Kitô hữu là sự vâng phục. Việc noi theo Đức Kitô cần phải có tính năng động bên trong và bên ngoài để có thể cất bước theo Thầy đi bất cứ nơi đâu. Sự vâng phục của Chúa Con, Đấng đến không phải để được phục vụ nhưng để phục vụ, là một chuẩn mực bước theo Đức Kitô. Những người bước theo Đức Kitô lắng nghe và học biết nơi Người tất cả những chuẩn mực cho sứ vụ của mình, và họ phải vâng theo những chuẩn mực này. Thiên Chúa sẽ tiếp tục đòi hỏi tất cả những chuẩn mực này, không phải chỉ là một vài điều trong đó. Cuộc đời của người môn đệ là sự vâng phục. Sự noi theo bên ngoài của họ sẽ được biến đổi thành sự noi theo bên trong nhờ sự vâng phục.


Người Kitô hữu tham dự vào thân phận của Đức Kitô sẽ không còn hướng dẫn bản thân mình nữa. Anh ta từ bỏ quyền tự quyết về chính con người và vận mệnh của mình, thích ứng và hướng dẫn cuộc sống của mình để có thể nhận được từ Đức Kitô và Giáo hội của Người những quy luật cho đời sống mới. Anh ta trở thành một người đầy tớ. Sự đánh mất nhân cách này được thay thế bằng chính hình thức nhân cách cao nhất trong Đức Kitô Giêsu. “Luật duy nhất trong tình trạng mới chính là luật yêu thương, một thứ luật mà trong đó Đức Kitô đã được tự do nhờ sự phục vụ và phục vụ nhờ tự do”[9]. Vì thế, sự vâng phục của đức tin là sự hy sinh quyền tự chủ cá nhân, là sự cam kết với Đức Kitô tự hủy bản tính của chính mình. Dường như tình trạng ân sủng giống với sự chết liên quan đến một tình trạng chỉ được giới hạn trong thế giới này (Xc. Rm 6, 3-4).


2. Lời khấn vâng phục – Đoàn sủng của chúng ta


Về phương diện ngôn sứ, ơn gọi có tính cách đoàn sủng của chúng ta, với tư cách là tu sĩ, làm tăng thêm sự vâng lời đối với thánh ý Chúa Cha, vốn là một phẩm chất riêng nơi mỗi Kitô hữu. Người tu sĩ đích thực được nhận biết qua sự vâng phục của họ.


2.1. Vâng phục Chúa Cha


Chúng ta vừa xem xét nền tảng Kitô học của vấn đề này. Cũng như Đức Giêsu, chúng ta phải ưu tiên cho công việc của Chúa Cha, ưu tiên cho sứ vụ mà chúng ta đã lãnh nhận. Thực thi thánh ý Chúa Cha và là tôi tớ của Người luôn luôn phải là lương thực nuôi dưỡng chúng ta, phải là lý do hiện hữu của chúng ta. Không có sự vâng phục nào mà không có tình yêu đối với Chúa Cha và không có sự quyết tâm mạnh mẽ để nối dài tình yêu mãnh liệt và nhân từ của Người cho thế giới. Chúng ta cũng là “những người con yêu dấu của Chúa Cha”. Nên chúng ta cũng phải cố gắng làm sao tỏ ra xứng đáng với tình yêu của Người, làm vui lòng Người trong mọi sự và cộng tác vào công việc của Người. Và mặc dù việc thực hiện công việc này có thể đồng nghĩa với việc chấp nhận thập giá, bị Chúa Cha bỏ rơi và ngay cả bản thân bị giết chết, nhưng chúng ta không được chùn bước. Chúng ta được mời gọi yêu mến Thiên Chúa với tất cả tâm hồn chúng ta, bằng chính đời sống của chúng ta; tắt một lời, phải vâng phục cho đến chết, ngay cả chết trên thập giá.


2.2. Vâng phục “trong Thần Khí”


Nhưng làm sao một người có thể thấy được rằng việc được biến đổi tới chỗ vâng phục hoàn toàn là điều có thể xảy ra? Làm sao chúng ta có thể hy vọng trở nên những người tiếp nối sự vâng phục tuyệt đối của Đức Giêsu và Mẹ Maria. Công đồng Vaticanô II[10] nói với chúng ta về sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần.


Sự vâng phục của người Kitô hữu là một “đặc sủng”, là một quà tặng của Chúa Thánh Thần. Bằng chính sức lực của mình, không ai trong chúng ta có thể vâng phục, có thể từ bỏ chính mình để vâng theo thánh ý Chúa Cha, như Đức Giêsu đã làm. Khi tình yêu Chúa Thánh Thần bắt đầu hoạt động trong lòng chúng ta và chúng ta ngoan ngoãn chấp nhận nó, tức là khi chúng ta thực sự để cho tình yêu đó tiếp tục đưa dẫn nhân cách của chúng ta, thì chúng ta bắt đầu dần dần trở nên giống Đức Giêsu và vì thế dần dần vâng phục Chúa Cha như Đức Giêsu. Sự hiện diện của Thần Khí Thiên Chúa trong chúng ta đưa dẫn chúng ta vào tình trạng nghịch lý của một sự thụ động trở nên năng động và một sự năng động được thực hiện trong sự thụ động. Chúa Thánh Thần là một sự thụ động lớn nhất bởi vì Người được nhiệm suy từ Chúa Cha và Chúa Con. Đó là kết quả sự hoạt động của hai ngôi vị. Nhưng Người cũng là một sự hoạt động lớn nhất, bởi vì Chúa Cha chỉ sinh ra Chúa Con nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần, và Chúa Con chỉ có thể thưa lên “Cha ơi !” và sống với tư cách là Chúa Con nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần, và đồng thời cả Chúa Cha và Chúa Con đều thực hiện tình yêu của mình trong Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần được lãnh nhận tuyệt đối và vì thế, Người là một hình ảnh diễn tả trọn vẹn sự tự sinh thiêng liêng.


2.3. Vâng phục là tưởng tượng


Những ai để cho Chúa Thánh Thần tự ràng buộc mình vào nghịch lý của “sự vâng phục” và “ sự tưởng tượng”[11]: vào nghịch lý của sự vâng phục, bởi vì họ tham dự vào sự ngoan ngoãn đó của Chúa Thánh Thần, Đấng đã để cho bản thân mình sinh ra từ Chúa Cha và chịu để cho bản thân trở thành Thần Khí của sự trao hiến qua lại lẫn nhau nơi Ba Ngôi; vào sự tưởng tượng, bởi vì họ tham dự vào sự tôn vinh tưng bừng hớn hở, vào sự cảm hứng và sự tưởng tượng sáng tạo của tình yêu, là điều liên tục kích thích sự phấn khởi giữa Chúa Cha và Chúa Con. Theo cách đó, người Kitô hữu tìm thấy con đường để trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Giêsu và làm cho thánh ý Chúa Cha trở nên thức ăn thức uống của mình: họ đi vào con đường vâng phục tuyệt đối. Nhưng đồng thời, chính họ thấy mình bị bất ngờ và được khuyến khích trong sự vâng phục như thế nhờ “sự tưởng tượng của Chúa Thánh Thần”; họ thấy mình bị thu hút vào sự sáng tạo của Chúa Thánh Thần, Đấng canh tân mọi sự, Đấng là sự tự do tuyệt đối. Chúa Thánh Thần giải thoát người Kitô hữu khỏi nhu cầu sáng chế ra mọi thứ từ đầu bằng sự tưởng tượng của riêng mình. Chúa Thánh Thần có khả năng sáng chế hoàn toàn vượt trên tất cả mọi loài thụ tạo; và nhờ Chúa Thánh Thần thúc đẩy, người Kitô hữu có thể sáng chế ra mọi thứ cần thiết để được “tái sinh”, “được sinh ra từ ơn trên”, để sáng tạo ra một “nhân loại mới”. Vì thế, thông thường người ta nói rằng, không có sự biến chuyển nào quá lớn đến nỗi không thể hy vọng con người vâng theo Thần Khí. Chúa Thánh Thần là sức mạnh vĩ đại nhất, nhờ sức mạnh này, Chúa Cha sáng tạo mọi sự; nhưng đồng thời Chúa Thánh Thần là Đấng dễ bị xúc phạm nhất: Người có thể bị quấy rầy (1Cr 14, 39), bị làm phiền lòng (Xc. Ep 4, 30) và ngay cả bị dập tắt (Xc. 1 Tx 5, 19). Vì thế, Chúa Thánh Thần là nguồn mạch tự do của con người, vì để sáng tạo ra một hữu thể tự do cần phải có “một quyền năng tuyệt đối”, đồng thời Người cũng là Đấng bảo trợ của con người, và vì thế Người là chỗ dễ bị tổn thương của Thiên Chúa, thậm chí còn dễ bị tổn thương hơn cả Chúa Con. Điều này được Đức Giêsu nhấn mạnh khi Người nói rằng: “mọi tội, kể cả tội nói phạm thượng, cũng sẽ được tha cho loài người, chứ tội nói phạm đến Thần Khí sẽ chẳng được tha” (Mt 12, 31; Xc. Dt 6, 4-6). Nhưng ai chấp nhận sự hiệp thông của Chúa Thánh Thần thì bước vào sự thống nhất nghịch lý giữa sức mạnh và yếu đuối. Họ tham dự vào sức mạnh mãnh liệt của tình yêu và trong sự yếu đuối của tình yêu. Quả thực, chính điều này cho thấy sự vâng phục trong Chúa Thánh Thần là gì: yếu đuối để quên mình và ngay cả chấp nhận chịu chết, nhưng đồng thời một cách nghịch lý, lại là m sức mạnh vô song có thể làm được mọi sự.


3. Lời khấn vâng phục Kitô hữu


Khi nói về lời khấn khiết tịnh, chúng ta đã thấy rằng, phép lành trọng thể hoặc lời nguyện thánh hiến của phụng vụ trong nghi thức tuyên khấn làm nổi bật lên chiều kích đầy mầu nhiệm của hoạt động Thiên Chúa trên người được tuyên khấn; chúng ta nài xin Chúa Thánh Thần biến đổi người được tuyển chọn nên giống Đức Kitô, phát triển và giúp họ quyết tâm trở nên hoàn thiện. Nghi thức này nhấn mạnh đến tính ưu việt hoạt động của Thiên Chúa. Vì lý do này, nghi thức tuyên khấn chỉ quan trọng vào lúc “chúng ta hiến dâng bản thân” và “ràng buộc bản thân bằng lời khấn” (voto nos adstringimus …).


Qua việc tuyên khấn của lời khấn vâng phục, chúng ta khiêm tốn và biết ơn cố gắng đáp trả ân ban cao cả của sự vâng phục thảo hiếu mà Chúa Cha đã ban cho chúng ta qua Thần Khí của Người. Những lời khấn của chúng ta không phải là một dấu chỉ của sự độc lập. Nhưng ngược lại, chúng là một lời nguyện xin Thiên Chúa và Giáo hội cứu giúp. Điều này chẳng qua chỉ là vấn đề bổn phận, bởi vì nó thuộc về khả năng trao tặng một cái gì đó tạm gọi là sự đáp trả, tạ ơn Thiên Chúa. Vì thế, chúng ta được biến đổi nên đồng hình đồng dạng với Đức Giêsu Kitô, Đấng vì chúng ta đã vâng phục cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên thập giá, và tất cả những công việc chúng ta làm được hiệp nhất trong thánh ý cứu độ của Thiên Chúa.


(TSTH số 33)


(còn tiếp)


 


 







[1] Tiếp đầu ngữ hyp- chỉ thái độ quy phục một mệnh lệnh, một khuynh hướng quy phục bên trong.




[2] “Ta sai ngươi đi đâu, ngươi cứ đi; Ta truyền cho ngươi nói gì, ngươi cứ nói” (Gr 1, 7)




[3] L. Espinel, art., “Vâng phục. Nền tảng Thánh Kinh”,  trong Từ điển thần học về Đời sống thánh hiến, tr.1176.




[4] Đây là nguồn gốc sâu xa nhất của lời khấn vâng phục: chứng tỏ rằng một người trở thành “con của Thiên Chúa” là do sẵn sàng hiến dâng mạng sống cho mục đích và thánh ý của Người: “Lời khấn vâng phục nhằm để định hướng toàn bộ sự hiện hữu và đời sống của một người nào đó, tâm hồn của một người nào đó; điều này trong Đnl 6, 5 có nghĩa là sự sống, là nguyên tắc sống, nhưng điều này bao gồm sự thật về cuộc sống của một người, tuổi đời của một người, những tháng ngày trong đời sống của một con người cho đến lúc chết. Trung thành với khuynh hướng này có thể dẫn đến cái chết như cái chết của Đức Giêsu và nhiều Kitô hữu khác. Sự trung thành này, yêu mến Thiên Chúa hơn chính mạng sống của mình là một đòi hỏi của Đức Giêsu, Đấng đã xin tuổi đời dù nó vẫn cứ đến, nhưng trong những trường hợp đặc biệt Người xin toàn bộ đời sống của con người” (Espinel, art, sđd, tr. 1178).




[5] Xc. H. Ursvon Balthasar, Gli Stati di Vita del Cristiano, Jaca Book, p. 223




[6] Thật là thú vị khi để ý thấy rằng, văn cảnh cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và Mẹ Người trong đời sống công khai (Lc 8, 19-21) là dụ ngôn người đi gieo giống (Lc 8, 5-15). Trong dụ ngôn này, Đức Giêsu kết luận bằng những lời: “Hạt rơi vào đất tốt: đó là những kẻ nghe Lời với tấm lòng cao thượng và quảng đại, rồi nắm giữ và nhờ kiên trì mà sinh hoa kết quả” (Lc 8, 15). Trong một nơi khác, thánh Luca nói về Đức Maria: “Còn bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi lời ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2, 19). Ngoài ra, Người còn nói thêm rằng: “Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả nhưng điều ấy (dietêrei panta ta rhêmata) trong lòng” (Lc 2, 51).




[7] Tekna hypakoês, 1 Pr 1, 14.




[8] Phần mở đầu và phần kết thúc trong thư gửi tín hữu Rôma, thánh Phaolô nói về “sự vâng phục của đức tin” (Rm 1, 5; 16, 26). Điều này có nghĩa là một sự cam kết, một ý định tham dự.




[9] H. Urs von Halthasar, sđd, tr. 189.




[10] Xc. PC 14a.




[11] Xc. D. Solle, Fantasia e obbedienza, Morcelliana, Brescia 1970.


 


 



114.864864865135.135135135250