Năm nay, chúng ta mừng kỷ niệm 800 năm ngày kết thúc cuộc đời dương thế (dies natalis) của thánh Đa Minh. Đây là cơ hội tốt để ôn lại những chứng tích về cuộc đời của ngài. Chúng tôi sẽ không kể lại tiểu sử của vị thánh, nhưng chỉ trình bày vài điểm liên quan đến phương pháp nghiên cứu lịch sử. Tại sao có vấn đề?
Lm. Phan Tấn Thành, OP.
Nhập đề. Vài khái niệm sử học: lịch sử / sử ký; tiểu sử /thánh ký
I. Nguồn tài liệu
A. Liệt kê: bốn cấp độ
B. Nhận xét. Những giới hạn của các dữ liệu
II. Vài dữ kiện căn bản (sử ký)
A. Những niên biểu chính của cuộc đời thánh Đa Minh
B. Nhận xét: 1/ Về thân thế. 2/ Đời âm thầm và công khai. 3/ Thiết lập ngành nữ. 4/ Qua đời
III. Nhân đức và phép lạ (thánh ký)
- Chung quanh việc chào đời và tuổi niên thiếu
- Cuộc đời công khai
Kết luận
1/ So sánh với thánh Phanxicô
2/ Vài cách chiêm ngắm khuôn mẫu Đa Minh trải qua thời gian
Phụ lục. Chân dung thánh Đa Minh qua cái nhìn của hai vị Giáo hoàng: Bênêđictô XV (1921) và Phanxicô (2021)
---------------
Nhập đề
1/ Khi nghiên cứu về cuộc đời Đức Giêsu, các sinh viên thần học đã được nghe nói đến sự phân biệt giữa “Đức Giêsu của lịch sử” và “Chúa Kitô của đức tin” (thuật ngữ trở thành phổ thông kể từ bài diễn văn của Martin Kaeler năm 1892: Der soggenannte historische Jesus und der geschichtliche, biblische Christus). Các sách Tin mừng không phải là tiểu sử của Đức Giêsu, nhưng là chứng tích của niềm tin của các môn đệ vào Đức Giêsu, Con Thiên Chúa. Các sách Tin mừng cung cấp rất ít dữ liệu về cuộc đời Đức Giêsu. Đại khái, chúng ta biết Người khai mạc sứ vụ ở Galilê, rồi kết thúc tại Giêrusalem, nơi mà Người bị bắt và chịu chết (xc. Cv 10,37-40). Sứ vụ của Người kéo dài bao lâu? Không biết! Người đã làm gì từ khi sinh ra cho đến khi giảng đạo? Không biết! Chỉ có Mátthêu và Luca để lại cho chúng ta ít chi tiết về thời thơ ấu của Người, nhưng những chi tiết ấy lại không hoàn toàn trùng hợp với nhau. Chẳng hạn như, theo Mátthêu, ông Giuse quê ở Bêlem, như vậy có lẽ ông cũng lấy vợ cùng xứ. Còn theo Luca, Đức Maria quê ở Nazareth, sau đó về Bêlem sinh con vì muốn tuân hành sắc chiếu của hoàng đế Rôma. Luca không đả động tới việc di cư sang Ai-cập; Mátthêu không đề cập đến những lần đưa hài nhi Giêsu lên đền thờ. Để giải quyết những vấn nạn được nêu lên chung quanh sự khác biệt ấy, các học giả mời chúng ta hãy cố gắng khám phá dụng ý của các tác giả Tin mừng là gì: họ có chủ ý viết tiểu sử của Đức Giêsu không; hay tiểu sử chỉ là phụ thuộc, còn việc củng cố lòng tin mới là cốt yếu (Ga 20,31)? Rồi cũng phải tìm hiểu xem tác giả nhắm tới độc giả nào: viết cho các tín hữu gốc Do-thái hay gốc dân ngoại? Đâu là điều Mátthêu muốn nói khi chọn quê hương cho Đức Giêsu là Bêlem (thay vì Nazareth): phải chăng vì muốn cho thấy rằng Đức Giêsu thuộc dòng dõi vua Đavít (Mt 1,5)? Tại sao cho Đức Giêsu lánh nạn sang Ai-cập: phải chăng là để cho thấy Người là ông Môsê mới dẫn đoàn dân ra khỏi Ai-cập (Mt 2,21)? (trong Mátthêu, rất nhiều sự kiện được kèm theo chú giải: “hầu ứng nghiệm”.)
2/ Đức Giêsu vừa là Thiên Chúa vừa là người: vì thế sự phân biệt giữa “lịch sử” và “đức tin” trong lối tiếp cận là chuyện dễ hiểu: con mắt người phàm chỉ nhận ra Đức Giêsu lịch sử; cần có đức tin mới nhìn nhận Người là Con Thiên Chúa. Mặt khác, ngay cả trong lối tiếp cận lịch sử, ta cũng cần biết một sự phân biệt khác nữa, đó là giữa lịch sử và sử ký. Thời xưa, người Rôma đã phân biệt giữa “sự kiện” (res gesta, chuyện xảy ra) và “sử học” (historia, nghiên cứu và phê phán). Ngày nay, người ta phân biệt giữa “lịch sử” (histoire) và “sử ký” (historiographie): không ai có thể ghi chép hết tất cả mọi chuyện xảy ra trên đời (lịch sử); ta buộc phải chọn lọc những chuyện gì “đáng kể” (sử ký) mà thôi. Vì thế Friedlich Nietzche đã nhận xét chí lý rằng: “Không có sự kiện mà chỉ có giải thích”. Thực vậy, chọn lọc là giải thích rồi; ta chỉ lựa tin nào mình cho là quan trọng thì mới ghi lại. Và ta cũng có thể thêm một nhận xét nữa là: “Nhiều trang sử được viết bởi người thắng trận”, bởi vì những người thua không “làm nên lịch sử”.
3/ Khi bước vào chuyện các thánh, người ta còn thêm sự phân biệt giữa “tiểu sử” (biographie) và “hạnh thánh” (hagiographie). Theo nguyên gốc Hy-lạp, hagiographia (hagios: thánh; graphê: chữ viết) có nghĩa là viết về các thánh. Đôi khi từ ngữ này áp dụng cho Sách thánh (Thánh Kinh), nhưng ngày nay, người ta hiểu về các văn phẩm viết về các vị thánh. Khi kể lại tiểu sử các vị thánh, “hạnh thánh” không chỉ kể lại cuộc đời của một phàm nhân, nhưng còn muốn đề cao các nhân đức của đương sự (đáng cho ta ngưỡng mộ bắt chước) và các phép lạ (đáng cho ta tin tưởng cầu xin ơn lành).
Bây giờ áp dụng vào thánh Đa Minh, chúng ta thử tìm hiểu: đâu là “sử ký” (kể lại cuộc đời) và đâu là “thánh ký”? Bài này gồm có ba phần: 1/ Trước hết, chúng ta lược qua các nguồn sử liệu, kèm theo nhận xét về chủ đích của người viết. 2/ Điểm qua những niên biểu chính trong “cuộc đời” thánh Đa Minh. 3/ Cuối cùng, nêu bật những yếu tố thuộc về “thánh ký”.
I. Những nguồn sử liệu về thánh Đa Minh
Khỏi nói ai cũng biết, khi viết sử cần phải “nói có sách, mách có chứng”: không phải bất cứ chứng cớ nào, nhưng là chứng cớ đáng tin cậy của những người “mắt thấy tai nghe”, chứ không kể lại theo tin đồn. Những chứng cớ càng xa sự kiện thì càng giảm tín lực, và có nguy cơ là được thêu dệt theo óc tưởng tượng mà thôi (fake news)!
Trước hết, chúng ta hãy kê ra các nguồn tài liệu ra đời trong thế kỷ XIII[1]. Kế đó, chúng ta nhận xét về giá trị của các nguồn này.
- Liệt kê các nguồn sử liệu
1/ Lẽ ra, cấp thứ nhất phải được dành cho các tác phẩm của chính thánh Đa Minh, cách riêng là hồi ký, thư tín. Thế nhưng, khác với các vị lập dòng khác (chẳng hạn như thánh Phanxicô Assisi)[2], thánh Đa Minh không để lại bút tích gì. Chúng ta cũng chẳng có dấu vết gì từ phía các môn đệ đầu tiên của Dòng. Vì thế, cấp thứ nhất được dành cho những nhân chứng công khai trong vụ án phong thánh: Acta canonizationis sancti Dominici, mở ra tại Bologna (năm 1233 với 9 nhân chứng), và Toulouse (năm 1234 với 27 nhân chứng). Giá trị của các nhân chứng không đồng đều, người dài người ngắn. Mặt khác, họ chỉ kể lại các “nhân đức” của cha Đa Minh, chứ không thuật lại tiểu sử của ngài, và họ chỉ quen biết ngài trong thời gian hoạt động ở Toulouse và Bologna, chứ không cho biết gì thêm về những giai đoạn trước đó[3].
2/ Cấp thứ hai là các tác phẩm của tổng quyền Giorđanô de Saxonia: Libellus de principiis Ordinis Praedicatorum (1234-35), kèm theo thư luân lưu nhân dịp cải táng (24/5/1233): Epistola Encyclica de actis in translatione corporis S. Dominici. Cha Giorđanô là người kế vị thánh Đa Minh, lãnh đạo Dòng trong thời gian khá dài (1221-1236), và là người xúc tiến việc phong thánh cho vị sáng lập.
3/ Cấp thứ ba là những tài liệu viết sau khi cha Đa Minh được phong thánh (3/7/1234).
Các tài liệu này được soạn ra để đọc trong buổi cử hành phụng vụ, nêu cao các nhân đức và các phép lạ. Đó là lý do của các “Legenda”. Legenda không phải là chuyện dã sử hoang đường (như là légende trong tiếng Pháp, legend tiếng Anh), nhưng là những bài đọc (legere, lectio) trong phụng vụ (giờ Kinh Sách dành cho chính ngày lễ và tuần bát nhật). Các bản văn được kiện toàn dần dần. Có ba legenda ra đời theo thứ tự thời gian: Pedro Ferrando, Constantino Orvieto, Humberto de Romans. Tại sao có ba bản? Chúng ta sẽ trở lại vấn đề trong mục nhận xét.
4/ Cấp thứ bốn: các tài liệu tuyên dương và huấn đức
Khi thế hệ đầu tiên của Dòng sắp qua đi, người ta lo thâu lượm các chứng từ về thánh tổ phụ và đồng bạn tiên khởi. Mục tiêu chính yếu không phải là xuất bản thành tư liệu sử học nhưng là để giúp vào việc huấn luyện tu đức cho các anh em mỗi khi chiêm ngắm những mẫu gương của các bậc tiền bối. Ngoài ra còn phải thêm một mục tiêu thứ yếu nhưng không kém phần quan trọng, đó là anh em thấy nhức nhối khi thấy Dòng Phanxicô xuất bản nhiều tư liệu về các phép lạ của thánh tổ phụ và các đồng bạn. Quân ta cũng quyết định cho ra đời các bộ sưu tập các thánh tích và phép lạ để thiên hạ biết rằng Dòng Giảng thuyết không thua kém gì Dòng Anh em Hèn mọn đâu![4] Đó là chưa kể những cuộc tranh đấu với các giáo sĩ triều ở đại học Paris, căng thẳng đến nỗi có người (Guillaume de Saint-Amour) vận động xin Giáo hoàng dẹp bỏ cả hai Dòng Đa Minh và Dòng Phanxicô.
Có thể xếp vào loại này (giới hạn vào những tác phẩm ra đời trong thế kỷ XIII):
- Vitae Fratrum Ordinis Praedicatorum necnon chronica Ordinis ab anno 1203 usque 1254 của Gérald de Frachet (1195-1270), được ấn hành trong tủ sách MOPH I (Rôma 1896). Tổng hội 1245 truyền cho các anh em nếu biết được phép lạ nào của thánh Đa Minh thì hãy thông báo cho bề trên tổng quyền. Lệnh này còn được lặp lại ở các tổng hội 1252, 1255 và 1260. Trong bối cảnh này mà cuốn sách Vitae Fratrum được biên soạn do cha Gérald de Frachet, giám tỉnh Paris (khoảng năm 1259), và được tổng hội 1260 phê chuẩn.
- Legenda aurea của Giacomo da Varazze (khoảng 1261-1266)..
- Vita sancti Dominici của Rodrigo de Cerrato (khoảng 1270-1282).
- Miracula beati Dominici do chị Cêcilia Cesarini kể lại 14 phép lạ của thánh Đa Minh thực hiện tại Rôma (khoảng 1288).
- Libellus de vita et obitu et miraculis S. Dominici et de ordine quem instituit của Dietrich (Theoricus) Apolda (khoảng 1288-97).
- Những tác phẩm vô danh: Quomodo s. Dominicus orabat (chín cách cầu nguyện của thánh Đa Minh, viết khoảng 1260-1288), Tractatus de approbatione Ordinis Fratrum Praedicatorum (viết khoảng 1260-1270).
B. Phê bình dữ liệu
Dựa trên những chứng tích vừa rồi, chúng ta có thể viết lại cuộc đời thánh Đa Minh cách trung thực không?
Để lại cho câu hỏi này, trước hết cần phải phân biệt các cấp độ “tín lực” của các dữ liệu. Các dữ liệu vừa kể chỉ là các chứng tích. Như đã nói trên đây, chứng tích của những người “mắt thấy tai nghe” thì có giá trị hơn các chứng tích thuật theo tin đồn. Mặt khác, cũng cần biết dụng ý của người ghi lại chứng tích: một chứng tích dành cho con cháu nhớ đến công ơn tiền nhân thì khác với một bản báo cáo lưu trữ trong hồ sơ của sở công an. Dĩ nhiên, câu chuyện của một anh hùng dân tộc thì khác với câu chuyện của một tên phản động: tiểu sử của anh hùng được tô thêm điểm son, còn hồ sơ của tên phản động dễ bị chú thêm những lời nguyền rủa. Không nói ai cũng biết, cần phải tìm những chứng tích khách quan để tránh cảnh “mẹ hát con vỗ tay”, nhưng phải hiểu “khách quan” như thế nào? Phải chăng đó là những người đứng ngoài cuộc, chẳng dính líu gì đến nội vụ, hoặc chẳng có thiện cảm với nhân vật đang bàn? Không dễ gì trả lời cho những câu hỏi ấy, nhưng ít là câu hỏi cũng cho thấy tính cách phức tạp khi xét đến tính khách quan của chứng tích lịch sử!
Sau những nhận xét ấy, chúng ta phân tích những nguồn tài liệu vừa nêu. Điều ghi nhận trước hết là những nguồn kể trên đều do “người nhà” viết ra, chứ không do “người ngoài”. Rồi một lỗ hổng lớn đã được nhắc đến là chính thánh Đa Minh không để lại một tác phẩm nào. Ngoài ra, mỗi cấp độ tài liệu đều mang theo giới hạn của nó.
1/ Cấp một: Vụ án phong thánh
Thời nay, các hồ sơ phong thánh cần bắt đầu bằng phần lược thuật tiểu sử, nhưng trong vụ đang bàn thì thiếu điểm này. Các nhân chứng chỉ trả lời một số câu hỏi được nêu lên liên quan đến các nhân đức và phép lạ của cha Đa Minh. Họ cũng chỉ quen biết cha trong thời gian ở Toulouse và Bologna, nghĩa là trong giai đoạn cuộc đời công khai của cha. Phiên tòa Bologna gồm 9 nhân chứng, tất cả đều là tu sĩ của Dòng. Phiên tòa ở Toulouse có 27 nhân chứng (trong đó có 3 viện phụ, một kinh sĩ, nhiều đan sĩ, vài giáo sĩ, một nữ đan sĩ), nhưng không quen thân lắm với cha.
2/ Cấp hai: Tổng quyền Giorđanô
Tác phẩm Libellus de principiis Ordinis Praedicatorum (1234-35) được coi như cuốn tiểu sử đầu tiên viết về thánh Đa Minh, và trở thành nguồn tham chiếu cho các tác phẩm về sau. Tuy nhiên, tác phẩm này mang nhiều giới hạn. Trước tiên, cha Giorđanô chỉ gặp vị lập Dòng hai lần (tại Paris và Bologna) và không thuộc về nhóm môn đệ tiên khởi. Kế đến, từ khi thánh Đa Minh qua đời đến lúc biên soạn, 11 năm đã trôi qua: có lẽ nhiều ký ức không còn sốt dẻo nữa. Dù vậy, trong cương vị của tổng quyền, chắc là cha đã tiếp xúc với nhiều anh em thuộc nhóm tiên khởi. Giới hạn thứ ba là mục tiêu của tác phẩm: cha Giorđanô muốn viết về nguồn gốc của Dòng nhiều hơn là về tiểu sử của vị sáng lập. Chỉ có 9 đoạn dành cho chặng đường “ẩn dật” của vị sáng lập, trong khi hơn 110 đoạn còn lại nói về việc lập Dòng. Sau đây là dàn bài cuốn sách:
1-3. Dẫn nhập
4-13. Từ khi sinh ra cho đến khi đi Đan Mạch (1170-1204)
11-43. Từ Languedoc cho đến khi lập nhà ở Toulouse (1206-1216)
44-66. Từ khi lập nhà đầu tiên cho đến lúc cha Reginalđô qua đời (1216-1220)
67-85. [Anh Henri de Cologne]
86-88. Các tổng hội Bologna (1220-21)
89-91. [Anh Everard de Langres]
92-119. Qua đời (1221). Các nhân đức và phép lạ.
120. Lập kinh Salve
121-130. Lòng sùng kính bình dân. Di dời thi hài.
Chúng ta thấy rằng một đàng tác phẩm này cung cấp ít tài liệu về cuộc đời “ẩn dật” của cha Đa Minh, đàng khác lại chen thêm chuyện của hai anh Henri và Everard.
Mặt khác, khi so sánh với các tác phẩm viết sau này, cuốn Libellus kể ra ít phép lạ trong cuộc đời thánh Đa Minh (điềm báo trước khi sinh ra, lúc rửa tội; phép lạ thử lửa đốt sách; một vài phép lạ ở Rôma).
3/ Cấp ba: Các legenda
Cha Đa Minh được ĐTC Grêgôriô IX tuyên thánh ngày 3/7/1234[5] với sắc chiếu Fons sapientiae đề cao những nhân đức của vị thánh (một người mà ngài quen biết ở Rôma khi còn là hồng y Hugolino) nhưng không đả động đến cuộc đời. Sau khi đã được phong thánh, cần phải soạn kinh để đọc. Trong bối cảnh này, các legenda ra đời. Legenda được hiểu như lectio (bài đọc) giờ kinh sách, không chỉ riêng vào lễ kính mà còn kéo dài suốt tuần bát nhật nữa. Lần lượt ba legenda được phát hành, tương tự như ấn bản mới cho ấn bản cũ (nên nhớ là vào thời ấy chưa có nhà in mà chỉ chép tay thôi).
a) Legenda Sancti Dominici của Pedro Ferrando, năm 1235 (được các tổng hội 1236, 1238, 1239 phê chuẩn). Hai phần ba tư liệu được lấy từ quyển Libellus của cha Giorđanô. Vì là người Tây-ban-nha, tác giả thêm nhiều chi tiết về thời thơ ấu của Đa Minh cũng như về các phép lạ: chẳng hạn như danh tánh của song thân; những cuộc hãm mình của Đa Minh khi còn nhỏ; ngôi sao trên trán, những lần hiến thân bán mình; ơn gọi của Reginalđô; di chúc thánh Đa Minh.
b) Legenda Sancti Dominici của Constantinô Orvietô, ra đời 10 năm sau (1245/46) và được các tổng hội 1246, 1247, 1248 phê chuẩn. Tại sao cần một legenda khác? Lý do tại vì cuốn trước được soạn hơi gấp, nên còn nhiều thiếu sót, vì thế cần được bổ túc. Tác giả (về sau làm giám mục Orvietô) nhận thêm tài liệu do cha tổng quyền Joannes Wildeshausen (1241-1252) cung cấp khi đi kinh lý trong Dòng. Điều mới mẻ là tác giả thêm nhiều phép lạ, cững như trưng dẫn nhiều câu Kinh thánh để chú giải các sự kiện được kể, chẳng hạn như có những điềm báo trước ngày sinh và sứ mạng của Đa Minh (cũng tựa như thiên sứ Gabriel đã hiện ra với ông Dacaria để báo trước sứ mạng của Gioan Tiền Hô); hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô hiện ra trao sứ mạng truyền giáo; phép lạ tăng bánh ở San Sisto; cho người chết sống lại.
c) Hơn kém mười năm sau, nhân dịp tu chính các bản văn phụng vụ trong Dòng, cha tổng quyền Humbertus de Romans (1254-1263) soạn ra một cuốn legenda thứ ba: Legenda Sancti Dominici vào năm 1254 (được các tổng hội 1254, 1255, 1256 phê chuẩn)[6].
Chúng ta nhận thấy rằng các legenda được tổng hội phê chuẩn giống như tiến trình ban hành hiến pháp. Như vậy, dưới khía cạnh pháp lý, chúng mang tính cách “chính thức” (officiel) của Dòng, chứ không còn là tác phẩm của một tư nhân nữa[7]. Về điểm này, chúng có giá trị hơn các bản văn cấp bốn tiếp theo đây.
4/ Cấp bốn: Vita
Các tác phẩm ở cấp bốn ra đời cả chục năm sau khi thánh Đa Minh qua đời. Có thể là các tác giả đã đi thu thập tài liệu từ những người đã có cơ hội biết đấng sáng lập. Dù sao, người biên soạn không chỉ giới hạn vào việc lưu trữ ký ức mà còn nhắm tới nhiều mục tiêu khác nữa.
a) Vitae fratrum của Gerard de Frachet (k.1259). Tác phẩm được chia làm 5 phần: 1/ Các lời tiên tri về việc thành lập Dòng (7 chương). 2/ Các chuyện xảy ra trong đời thánh Đa Minh (45 chương). 3/ Các chuyện xảy ra trong đời chân phước Giorđanô (45 chương). 4/ Đời sống nhân đức của vài anh em vào buổi nguyên thủy (25 chương). 5/ Cái chết lành thánh của vài anh em (9 chương)[8]. Chúng ta thấy tiểu sử thánh Đa Minh chỉ là một trong 5 phần của tác phẩm. Đặc biệt, tác giả còn thêm chương mở đầu để giới thiệu những điềm báo trước khi Dòng được thành lập
b) Legenda aurea của Jacobus a Voragine (Iacopo a Varazze), viết khoảng năm 1261-1266. Đây là bộ sách Hạnh các thánh nổi tiếng suốt thời Trung cổ, và trở thành best-seller, thậm chí còn hơn cuốn Kinh thánh nữa[9]. Ở đây Legenda không còn viết để đọc trong phụng vụ, nhưng là cung cấp những sự tích để dùng vào bài giảng. Thánh Đa Minh chỉ là một trong các vị thánh.
c) Vita sancti Dominici của Rodrigo de Cerrato (khoảng 1270-1282).
d) Miracula beati Dominici do chị Cêcilia Cesarini viết khoảng năm 1288, kể lại 14 phép lạ của thánh Đa Minh thực hiện tại Rôma. Nội dung đã cho thấy mục tiêu của tác giả: đây không phải là một cuốn tiểu sử nhưng là tập hợp các phép lạ. Giá trị của tác phẩm ở chỗ chị đã tiếp xúc với thánh phụ, và để lại những nét mô tả chân dung của người.
e) Libellus de vita et obitu et miraculis S. Dominici et de ordine quem instituit của Dietrich (Theoricus) Apolda viết khoảng 1288-97. Tuy cũng mang tên là Libellus giống như tác phẩm của cha Giorđanô, nhưng mục tiêu đã khác. Tác giả sống bên Đức, nhưng không biết dựa vào đâu mà trình bày nhiều chi tiết liên quan đến gia thế của cha Đa Minh, trong đó có cuộc thành hôn của song thân diễn ra năm 1170.
II. Vài dữ liệu căn bản (sử ký)
Trước hết, chúng ta tạm vạch ra vài niên biểu “thô”, rồi sau đó, thêm vài nhận xét
A. Những niên biểu chính
1173-1175? Sinh tại Caleruega.
1179-1180 Lúc 6 tuổi, được gửi đến một người cậu làm linh mục để đào tạo về việc đạo hạnh.
1186 Theo học tại Palencia.
1195-1197 Gia nhập kinh sĩ đoàn Osma, thụ phong linh mục.
1201 Phó bề trên kinh sĩ đoàn Osma
1203 Tháp tùng giám mục Diego đi Đan Mạch để cầu hôn cho hàng tử Castilla. Đi ngang Toulouse, tranh luận với chủ quán theo phái Cathares.
1205 Chuyến đi Đan Mạch lần thứ hai, nhưng kế hoạch thất bại.
1206 Trên đường về, Giám mục Diego ghé qua Rôma, xin từ chức để đi truyền giáo nhưng ĐTC không chấp nhận. Mùa hè, gặp phái đoàn Tòa thánh ở Montpellier Thiết lập một đan viện nữ tu ở Prouilhe (27/12).
1207 Giảng ở Montréal. Cuộc tranh luận công khai đầu tiên. Vào tháng 10, Đức Cha Diego trở về Osma và qua đời tại đây.
1208 Giảng thuyết chống lạc giáo ở Prouilhe, Lauragais, Carcassonne.
1210 Bắt đầu sứ vụ ở Toulouse, hợp tác với giám mục Fulco.
1215 Mở tu viện đầu tiên ở Toulouse tại nhà của Pierre Seila (25/4). Tháng 6: giám mục phê chuẩn. Tháng 10: tháp tùng giám mục Fulco đi Rôma họp công đồng Lateranô IV, và xin Tòa thánh châu phê Dòng. Công đồng khai mạc ngày 11 tháng 11 và bế mạc ngày 14/12 cùng năm. ĐTC Innocentê III khuyến cha chọn một bản luật cổ, vì công đồng không cho châu phê bản luật mới.
1216 Tháng 1: sau khi bế mạc công đồng, trở về Toulouse. Tháng 6: họp anh em (con số từ 6 đã lên đến 16 fratres), chấp thuận luật thánh Augustinô và soạn sách Tục lệ. Tháng 10: đi Rôma xin châu phê. Ngày 22/12: ĐTC Honorio III xác nhận Dòng: Bulla Religiosam vitam.
1217 Ngày 21/1: nhận được danh xưng “Praedicatores” trong bulla Gratiarum omnium largitori. Tháng 3: Trở về Prouilhe và Toulouse. Ngày 15/8: phân tán anh em. Ngày 13/12: lên đường đi Rôma cùng với Stephanô Metz, ngang qua Bologna.
1218 Đến Rôma (tháng 1). Giảng thuyết tại giáo đô. Chuẩn bị thiết lập tu viện San Sisto. Mùa xuân: gửi anh em đi Bologna, Reginalđô nhập Dòng và cũng được cử về Bologna, ơn gọi gia tăng. Tháng 11-12: Trở về Tây-ban-nha, ghé thăm Bologna, Prouilhe, Tolouse. Cử hành lễ giáng sinh tại Segovia.
1219 Cuối tháng 1, thăm Madrid và thâu nhận nhiều tập sinh. Qua mùa xuân, lên Paris cùng với Bertrand de Garrigues. Tại Paris, tổ chức đời sống tu viện và học viện. Cử anh em đi lập nhà tại nhiều thành phố trong nước Pháp (Limoges, Reims, Metz, Poitiers, Orleans). Quen với Giorđanô.
Tháng 7 về Bologna. Tháng 11 về Rôma, gặp Đức Giáo hoàng ở Viterbo, và nhận nhiều sắc chỉ để giới thiệu Dòng với các giám mục. Cải tổ các nữ tu ở Rôma vào tu viện San Sisto.
1220 Ngày 12/2: Giorđanô vào Dòng tại Paris. Reginalđô qua đời (ở Paris).
Nhận tu viện Santa Sabina. Cử các anh em đi Aragon, Scandinavia, Anh.
Ngày 17/5 vào dịp lễ Hiện xuống: Họp tổng hội ở Bologna, soạn Hiến pháp (lúc đầu gọi là Consuetudines, sau đổi thành Institutiones). Sau đó, đi giảng ở Bắc Ý. Tháng 12, trở về Rôma.
1221 Ngày 28/2: Hoàn tất việc cải tổ nữ tu San Sisto. Anh em chuyển qua tu viện Santa Sabina. Ngày 29/3 một sắc chỉ nhìn nhận cha Đa Minh là “Prior Ordinis Praedicatorum”. Tháng 4. Lên đường đi Bologna, ghé qua Siena, Firenze.
Ngày 30/5: họp tổng hội lần II tại Bologna. Phân chia thành tỉnh dòng (5 cố định, và 3 đang chuẩn bị). Sau tổng hội, đi Venezia, thăm hồng y Hugolino. Cuối tháng 7, trở về Bologna.
Ngày 6/8 (thứ sáu): qua đời tại Bologna.
1233 Ngày 24/5 (thứ ba sau lễ Hiện xuống): cải táng ở Bologna.
1234 Ngày 3/7: ĐTC Grêgôriô IX tuyên thánh ở Rieti.
B. Vài nhận xét
1/ Thân thế
Chúng ta không biết rõ năm sinh của thánh Đa Minh. Cho đến cách đây 50 năm, người ta cho rằng ngài sinh vào ngày 24/6/1170 (lễ thánh Gioan Tẩy giả), và Dòng đã tổ chức mừng 800 năm sinh nhật thánh tổ phụ (từ 7/5/1970 đến 4/8/1971). Nhưng ngày nay các sử gia đặt nhiều nghi vấn liên quan đến nguồn gốc thông tin này, và thậm chí liên quan đến song thân và các anh em của ngài[10].
a) Năm sinh. Người đầu tiên cho biết thánh Đa Minh sinh vào năm 1170 là cha Dietrich (Theodoricus) Apolda trong Libellus de vita et obitu et miraculis S. Dominici et de ordine quem instituit (viết khoảng năm 1298). Vấn nạn: tác giả dựa vào đâu mà khẳng định như vậy, vì ông xa cách nguồn gốc vừa về không gian (sống bên Đức) vừa về thời gian (sinh khoảng 1228 và qua đời khoảng 1302)? Tại sao các tác giả trước đó (trong đó có những người đồng hương với cha Đa Minh như Ferrandus và Rodrigo) lại không đả động gì? Nhất là cha đã cung cấp một dữ kiện quý báu, đó là song thân kết hôn vào năm 1170, mà không ngờ mình rơi vào nghịch lý: chẳng lẽ hai ông bà vừa mới lấy nhau mà đã sinh con? Mặt khác, chúng ta biết được là hai ông bà có ba người con, mà Đa Minh không phải là con cả! Vì thế ta phải xê dịch năm sinh muộn hơn (khoảng 1172-74), nhưng đừng muộn quá, kẻo không ăn khớp với các dữ kiện khác của cuộc đời (chẳng hạn muốn gia nhập kinh sĩ đoàn Osma thì phải hội đủ điều kiện về tuổi)[11].
b) Anh em. Cha Đa Minh có bao nhiêu anh em? Theo tục truyền, gia đình cha Đa Minh có ba người con trai, và tất cả đều làm linh mục: Antôn, Mannes và Đa Minh. Câu hỏi: Mannes (có khi viết là Mames) là anh hay là em của Đa Minh, hay là anh em sinh đôi? Cha Giorđanô viết rằng Mannes là uterinus frater với cha Đa Minh. Thế nhưng “uterinus” có nghĩa là gì? Phải chăng là “anh em ruột, hay là anh em cùng một dạ,” nghĩa là cùng mẹ mà khác cha? Có phải cha Giorđanô muốn nói rằng: Mannes và Đa Minh không chỉ là anh em trong Dòng mà còn là anh em ruột thịt nữa? Hay là phải giải thích rằng: Mannes và Đa Minh chỉ là anh em cùng mẹ (cùng một dạ) chứ không phải là cùng cha? Nếu hiểu như thế, phải chăng bà Joanna đã có con với chồng trước (và sinh ra Mannes), rồi chồng chết, bà tái giá với ông Felix Guzman (và sinh ra Đa Minh)? Nếu theo giả thuyết này, Mannes là anh của Đa Minh. Nhưng biết đâu Mannes là em thì sao? Thật vậy, cha Đa Minh qua đời năm 1221, còn Mannes thì đến năm 1234 vẫn còn sống (để ghi dấu việc Đa Minh được phong thánh, Mannes đã cất một nhà nguyện ở nơi sinh quán Caleruega). Không lẽ anh mà sống lâu hơn em 15 năm hay sao? Hay phải nói ngược lại: Đa Minh sinh trước Mannes? Câu chuyện còn thêm phần ly kỳ khi mà Gérard de Frachet (Vitae fratrum, p.II, c.1) nói rằng Đa Minh có hai người cháu trong Dòng Giảng thuyết: hai cháu này là con ai? Nếu trong gia đình có ba anh em trai đều làm linh mục, phải chăng cần phải thêm có một chị (hay em gái) lập gia đình nữa thì mới có thể có con (và gọi Đa Minh là cậu)? Một giả thuyết cũng được đặt ra là hai cháu là con của người anh cả Antôn (trước khi làm linh mục)[12].
2/ Phần lớn cuộc đời cha Đa Minh sống trong ẩn dật. Cuộc đời “công khai” bắt đầu từ khi đi Đan-mạch với đức cha Diego (năm 1203, lúc ấy độ chừng 30 tuổi). Sau đó, ngài hoạt động ở miền nam nước Pháp (giai đoạn từ 1206 đến 1215), và cũng tạm coi là âm thầm. Khi nói đến âm thầm và công khai là chúng ta hiểu về sử liệu: phần lớn các sử liệu về cha Đa Minh chỉ liên quan đến giai đoạn thành lập Dòng, nghĩa là vào 6 năm cuối đời[13].
3/ Tuy rằng cha Đa Minh đã rời bỏ quê hương từ năm 1203 rồi sau đó ở lại hoạt động ở miền nam nước Pháp, nhưng giai đoạn này cũng được coi như “âm thầm” xét về phương diện tài liệu. Giai đoạn “công khai” bắt đầu kể từ năm 2015 cha khi thành lập tu viện ở Tolouse, và mấy tháng sau, cha tháp tùng giám mục Toulouse đi họp công đồng Laterano IV. Lúc ấy cha được 45 tuổi. Từ đó các hoạt động trở nên dồn dập, nhưng chỉ kéo dài 5-6 năm.
4/ Thành lập ngành nữ
Một đề tài hấp dẫn trong các truyện và phim về cuộc đời thánh Phanxicô là mối tương quan với cô Clara, tổ mẫu của dòng nữ Clarissa. Thánh Đa Minh có lập dòng nữ không? Câu trả lời là không. Cha được ủy thác coi sóc các thiếu nữ Cathare trở lại, và được quy tụ ở Prouilhe năm 1207. Đây là sáng kiến của cha Đa Minh hay là của giám mục Diego, hay giám mục địa phương? Điều này còn tranh cãi[14]. Mười năm sau (1218), một điều tương tự xảy ra ở Rôma khi ĐGH Honorio III ủy thác cho ngài cải tổ các nữ tu, quy tụ từ 8 đan viện khác nhau vào tu viện San Sisto. Cha định mở một đan viện ở Bologna để đón nhận chị Diana, nhưng đã qua đời trước khi dự án hoàn thành. Việc sát nhập các nữ đan viện vào Dòng diễn ra dưới thời tổng quyền Giorđanô[15].
5/ Qua đời
Cha Đa Minh qua đời mà không để lại di chúc, và đây là điều khác biệt với thánh Phanxicô (bản di chúc đã trở thành đầu mối chia rẽ trong Dòng Anh em Hèn mọn sau này). Tuy nhiên, những lời trối trăn của cha cũng đã trở thành đề tài tranh luận cho các học giả: đâu là lời nói của cha, và đâu là chuyện phịa? Tôi không trở lại câu chuyện này vì đã đề cập trong cuốn sách Tìm hiểu Dòng Đa Minh (Học viện Đa Minh 2016), trang 226-239.
Trên đây mới chỉ là những dữ kiện “thô”. Mỗi thời đại và mỗi cá nhân sẽ sử dụng những tư liệu ấy để trình bày bức chân dung của thánh Đa Minh tùy theo những suy tư và cảm nghiệm của mình, lồng trong những bối cảnh lịch sử thế kỷ XIII hoặc thế kỷ XXI. Trong bài này chúng ta chỉ giới hạn vào thế kỷ XIII, và chúng ta chuyển sang phần thứ ba.
III. Nhân đức và phép lạ (thánh ký)
Các dữ kiện sử ký được trang điểm thêm bằng các nhân đức và phép lạ và trở thành thánh ký. Nhân đức và phép lạ được coi là những yếu tố làm nên vị thánh. Có thể coi “nhân đức” là nỗ lực tập luyện về phía con người, còn “phép lạ” là dấu chỉ củng cố cho sự thánh thiện về phía Thiên Chúa.
Đứng trước các dữ kiện của nhân đức và phép lạ, nhà sử học có thể giữ hai thái độ: 1/ Gạt bỏ tất cả các chuyện này, được coi như do óc tưởng tượng bày ra, không thể kiểm chứng được. 2/ Cố gắng khám phá ra dụng ý của soạn giả, xem ông muốn gửi sứ điệp nào cho người đọc. Người viết bài này đi theo hướng thứ hai[16]. Để làm sáng tỏ vấn đề, chúng ta có thể so sánh với các sách Tin mừng: chủ đích sách Tin mừng không phải kể lại tiểu sử của Đức Giêsu, nhưng là chứng tỏ rằng qua Đức Giêsu (cuộc đời, lời giảng, việc làm, đặc biệt là cuộc tử nạn và Phục sinh) Thiên Chúa đã ban ơn cứu độ cho loài người. Một cách tương tự như vậy, các “điềm thiêng dấu lạ” trong cuộc đời của các thánh muốn cho thấy rằng Thiên Chúa đã dùng các ngài như sứ giả của ơn cứu độ.
Trong các dữ liệu viết về thánh Đa Minh, các phép lạ đã được ghi nhận ngay từ tác phẩm Libellus của cha Giorđanô, và con số ấy tăng lên trong các legenda, nhất là trong Vitae fratrum[17].
Chúng tôi không muốn kể ra hết tất cả các phép lạ, nhưng chỉ muốn nêu bật ý nghĩa của vài phép lạ liên quan đến: 1/ lúc chào đời và giai đoạn ẩn dật, 2/ việc lập Dòng, 3/ sau khi qua đời.
A. Chung quanh việc chào đời và thời niên thiếu
- Song thân là những người thánh thiện. Danh tính của các ngài do Petrus Ferrando cung cấp: ông Felix và bà Ioanna de Aza. Trước khi sinh con, bà mẹ đã được thánh Đominicô Silos hiện ra và báo tin sẽ sinh con trai. Tên gọi Dominicus được giải thích là: “vir Domini” hoặc “Domini custos”. Bà mẹ nằm mơ thấy đứa con như chú chó ngậm đuốc (giống như bà mẹ thánh Bênađô, trước đó một thế kỷ: xc. PL 185, col.227; 440). Hình ảnh con chó tượng trưng cho nhà giảng thuyết đã có trong Isaia 54,10-11. Chú chó ngậm bó đuốc tượng trưng cho lòng nhiệt tâm giảng thuyết.
- Ngày rửa tội. Bà vú đỡ đầu thấy một ngôi sao trên trán (xc. Ông Simeon tiên tri về hài nhi Giêsu sẽ là “Lumen gentium” [Ánh sáng soi đường cho muôn dân]: Lc 2,32).
- Lúc thiếu thời, cậu bé bỏ giường xuống nằm ngủ dưới đất. Khi còn là sinh viên, anh không thích chơi đùa, không uống rượu. Hơn thế nữa, anh bán sách để giúp người nghèo, thậm chí còn muốn bán mình để chuộc kẻ làm nô lệ. Đây là những điềm tiên báo sự thánh thiện: hãm mình, bác ái, khó nghèo.
- Cuộc đời công khai
1/ Khi bắt đầu thi hành sứ vụ
Phép lạ đầu tiên là trận thử lửa tại Fanjeaux được kể trong Libellus của cha Giorđanô: ba lần bỏ sách vào lửa mà không cháy. Điều này muốn nói lên tính cách chính thống của lời giảng của cha Đa Minh, đối lại với các lạc thuyết của nhóm Cathare đương thời. Nên biết là phép lạ cũng được ghi nhận bởi một tác giả ngoài Dòng[18].
2/ Chung quanh việc lập Dòng.
Các “điềm thiêng dấu lạ’ có thể xếp thành nhiều loại: những thị kiến của chính mình hoặc của Giáo hoàng; những lần Đức Mẹ hiện ra; những phép lạ. Các tích này được thuật lại trong các Legenda và Vitae fratrum.
- Những thị kiến xảy ra tại Rôma. Lần đầu tiên, khi cha Đa Minh xin ĐTC Innocentê III châu phê thì ngài do dự; nhưng sau đó ngài thay đổi thái độ sau giấc mơ thấy đền thờ Lateranô nghiêng ngửa, và cha Đa Minh chống đỡ[19]. Khi trở lại Rôma lần thứ hai để xin châu phê Dòng, cha Đa Minh được hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô hiện ra trao gậy và sách Tin mừng (tháng giêng năm 1217). Đây là lý do vì sao đi đâu cha cũng mang Tin mừng Mátthêu và các thư thánh Phaolô[20].
- Những lần Đức Mẹ hiện ra (trao áo dòng cho Reginalđô, rảy nước thánh cho các tu sĩ)[21].
- Những phép lạ: chữa bệnh (chẳng hạn cho Reginalđô); phục sinh người chết ở Rôma (Napoleon, cháu của hồng y Stephano; người kiến trúc sư làm việc cho tu viện San Sisto); trừ quỷ. Phép lạ hóa bánh ở tu viện San Sisto[22]. Phép lạ nói tiếng nước ngoài cho đoàn hành hương (năm 1219, ở Toulouse).
C. Sau khi qua đời
- Vitae fratrum kể lại nhiều sự tích, chẳng hạn như cha đã tiên báo cái chết của mình, hoặc có người đã thấy cha về trời.
- Ngày cải táng cũng là cơ hội để anh em được chứng kiến phép lạ hương thơm tỏa ra từ quan tài.
Những điềm thiêng dấu lạ này không chỉ muốn nói rằng Đa Minh là một người thánh thiện, nhân đức, mà ra như còn là hiện thân của các nhân vật trong Kinh thánh (Elia, Gioan Tẩy giả), hoặc các vị thánh lập dòng nổi tiếng trong lịch sử (thánh Antôn viện phụ, thánh Biển Đức, thánh Bênađô)[23]. Não trạng ấy đã gặp thấy từ trong Tân ước rồi. Đức Giêsu chẳng phải là ông Môsê mới đấy ư? Đó là ý tưởng của Mátthêu, còn vua Hêrôđê lại nghĩ rằng Người là Gioan Tẩy giả tái sinh (Mc 6,16). Còn người đương thời thì lại nghĩ ông Gioan Tẩy giả là Elia mới (Mc 9,13). Đó là tâm trạng của con người trong Kinh thánh, được gọi là anamnesis: Xin Chúa hãy nhớ lại điều đã làm cho tổ phụ chúng con, và xin lặp lại sự can thiệp trong thời đại hôm nay.
Kết luận
Để kết luận về “sử ký” và “thánh ký” của thánh Đa Minh, tôi xin đưa ra hai nhận xét: một là nhận xét đồng đại qua việc so sánh với thánh Phanxicô Assisi; hai là nhận xét lịch đại, nhìn lại những khuôn mẫu nhân đức mà hậu thế đã chiêm ngưỡng thánh Đa Minh.
1/ Thánh Đa Minh và thánh Phanxicô
Có hai điều đáng nói: một là về phương pháp nghiên cứu thánh Phanxicô nói riêng, hai là đối chiếu với thánh Đa Minh.
a) Việc nghiên cứu lịch sử thánh Phanxicô còn gặp những vấn nạn khó khăn hơn là việc nghiên cứu thánh Đa Minh. Vào đầu thế kỷ XX, câu hỏi được Paul Sabatier nêu lên hồi năm 1894 như sau: các sách viết về cuộc đời Phanxicô quen trình bày ngài như “alter Christus”, một nhân vật có một không hai trên đời này, không ai bắt chước nổi! Nhưng đó có phải là con người Phanxicô lịch sử (Francesco storico), người nghèo Assisi (il poverello) không? Phanxicô có phải là con người luôn phục tùng Tòa thánh, hay là con người cách mạng, chỉ trích bộ mặt cơ chế của Giáo hội, chủ trương trở về với nét đơn sơ của Tin mừng?[24]
b) Khi đối chiếu với thánh Đa Minh, một câu hỏi tiên quyết dưới khía cạnh lịch sử được đặt ra là: hai vị có bao giờ gặp nhau không? Thoạt tiên, vấn nạn xem ra ngớ ngẩn bởi vì đã có biết bao nhiêu bức tranh vẽ lại cảnh hai vị ôm nhau, nhưng thử hỏi: có chứng cớ lịch sử nào của việc hai vị gặp gỡ không, hay chỉ là lưu truyền? Cha Guy Bedouelle O.P. nhận xét rằng, các nguồn cổ nhất của Dòng Đa Minh (Libellus và các legenda) không hề đả động đến việc này[25]. Sự kiện chỉ được nhắc đến trong Vitae fratrum của Gérard de Frachet, viết lại theo lời kể của một tu sĩ Hèn mọn. Đối lại, câu chuyện gặp gỡ được nói đến nhiều hơn trong các nguồn sử liệu về phía Dòng Anh em Hèn mọn (Tommaso de Celano, Vita secunda c.109; Fioretti, c.53)[26]. Vì dụng ý gì?
Cho dù hai vị không hề gặp nhau đi nữa, điều không thể chối cãi là tầm quan trọng của hai Dòng trong lịch sử Giáo hội không chỉ trong thế kỷ XIII mà còn kéo dài đến ngày hôm nay. Với cái nhìn của nhà sử học, giáo sư Giulia Barone đã đưa ra những nhận xét thú vị về hai vị như sau[27]: dưới khía cạnh tuyên truyền dân gian, thánh Đa Minh bị lép vế, vì nhiều lý do:
- Thánh Đa Minh xem ra không có tính cách sáng tạo, bởi vì ngài không viết một bản luật riêng mà chỉ lấy lại luật Dòng thánh Augustino rồi thích nghi cho hợp tổ chức của mình.
- Thánh Đa Minh không để lại một tác phẩm nào, trong khi thánh Phanxicô để lại nhiều văn phẩm trở thành đề tài cho các nhạc sĩ (chẳng hạn bài ca vạn vật) và thậm chí cho thông điệp Laudato si’ của ĐTC Phanxicô.
- Thánh Đa Minh là con người của lý trí, không gây nhiều ấn tượng tình cảm như thánh Phanxicô (dù là đối với chị Clara hay là đối với Chúa Giêsu chịu đóng đinh).
Nói tóm lại, thánh Đa Minh không phải là một nhân vật “giật gân”. Ngài là con người trí thức, làm việc âm thầm, có tổ chức; nhờ vậy tránh được những chia rẽ trầm trọng trong nội bộ sau khi ngài nhắm mắt.
2/ Khuôn mẫu thánh Đa Minh trải qua tám thế kỷ
Trong bài này, chúng ta cố gắng phân biệt các yếu tố “sử ký” và “thánh ký” dựa theo các sử liệu về thánh Đa Minh ở thế kỷ XIII, với hy vọng tìm lại được chân dung lịch sử của ngài. Từ đó đến nay, tám thế kỷ đã trôi qua, và có rất nhiều cuốn sách đã được viết về cha. Phải thú nhận rằng bức chân dung của cha không cố định như một bức tượng đồng, nhưng thay đổi tùy nơi tùy thời[28]. Tôi chỉ gợi lên vài nét chấm phá để kết thúc.
a) Khi bàn về các nhân đức, vào thời Trung đại, hình như người ta chỉ kể lại một vài nhân đức điển hình được coi như tổng hợp của tất cả đời sống đức hạnh : khiêm tốn, khiết tịnh, vâng lời, bác ái (thương người cả phần hồn lẫn phần xác)[29]. Theo Pedro Ferrando, trên giường chết, thánh Đa Minh khuyến khích con cái hãy giữ « bác ái, khiêm nhường, khó nghèo », nghĩa là các nhân đức tiêu biểu cho tất cả các tu sĩ[30].
b) Vào thời nay, người ta muốn nêu bật những nhân đức tạo nên « cá tính » hoặc « đặc sủng » của cha. Tuy nhiên, không phải tất cả mọi người đều nhất trí về đặc sủng này, bởi vì nó biến đổi tùy nơi tùy thời.
- Có thời người ta nhấn mạnh đến đời sống chiêm niệm của cha (contemplata aliis tradere), dựa theo khuôn mẫu của đời sống đan tu mà cha đã nghiền ngẫm trong các tác phẩm của Gioan Cassiano. Điều thú vị là Beato Angelico chuyên môn vẽ thánh Đa Minh trong tư thế cầu nguyện, chứ không thấy bức hình nào họa lại một nhà giảng thuyết hùng hồn.
- Có thời người ta nhấn mạnh đến tình huynh đệ, đời sống cộng đoàn; vì thế đề cao việc thánh Đa Minh lựa chọn bản luật thánh Augustinô. Xem ra đây là chủ trương của cuốn Hiến pháp sau công đồng Vaticanô II, mở đầu với chương về đời sống cộng đoàn, đặt lên trước cả phụng vụ và ba lời khuyên Phúc âm.
- Có thời người ta nhấn mạnh đến “sứ vụ”: Dòng mang tên là “Giảng thuyết” và đó là định hướng cho tất cả đời sống của anh em. Theo khuôn mẫu này, thánh Đa Minh là con người “nói về Chúa và nói với Chúa”; ngài đã lãnh nhận officium Verbi một thuật ngữ trích từ tác phẩm “Đối thoại” của thánh Catarina Siena (chương 158).
- Cha Vicaire lại thích nêu bật công thức vita apostolica như tổng hợp tất cả các yếu tố vừa nói: cầu nguyện, khó nghèo, cộng đoàn, rao giảng Tin mừng[31].
Dù sao, thời nay, ít người còn muốn nhắc đến cha như là “chiến sĩ đức tin”, vì không muốn cha dính líu đến định chế Inquisitio.
Để kết luận, tôi thích nhìn cha Đa Minh như là alter Christus, không theo nghĩa của thánh Phanxicô (bắt chước đức khó nghèo trần trụi và mang những dấu tích thương khó), nhưng theo nghĩa là Đức Giêsu đã sống 30 năm cuộc đời ẩn dật và chỉ giảng đạo 3 năm. Thánh Đa Minh trải qua hơn 40 năm trong bóng tối, và chỉ dành 6 năm cuối đời cho công cuộc lập Dòng. Thế nhưng khi cha qua đời (nghĩa là sau 6 năm thành lập), Dòng có 300 tu sĩ trong 30 tu viện (riêng nước Pháp đã có 11 tu viện với 110 tu sĩ). Năm 1236 (15 năm sau), ước chừng có khoảng 4 ngàn tu sĩ trong 300 tu viện. Một thế kỷ sau khi thánh Đa Minh qua đời, Dòng có 600 tu viện và khoảng chừng 12 đến 18 ngàn tu sĩ. Phải chăng đó mới thực sự là phép lạ, công tình của Thiên Chúa?
-------------
Thư mục
Chúng tôi chỉ liệt kê vài tác giả bàn đến vấn đề sử học liên quan đến thánh Đa Minh:
Hinnebusch, William A., The History of the Dominican Order, 2 vols. Alba House, Staten Island, NY, 1966– 1973).
Vicaire, Marie Humbert, Histoire de saint Dominique, t. 1: Un homme évangélique; t. 2: Au cœur de l'Église, Cerf, Paris, 1982.
Tugwell, Simon, “Notes on the life of St. Dominic [Part 1].” Archivum Fratrum Praedicatorum (AFP) 65 (1995): 5-169; [Part 2]. AFP 66 (1996): 5-200; [Part 3]. AFP 67 (1997): 27-59. [Part 4]. AFP 68 (1998): 5-116. [Part 5]. AFP 73 (2003): 5-141.
Barone, Giulia. “L’agiografia domenicana alla metà del XIII secolo ». In: Aux origines de la liturgie dominicaine : le manuscrit Santa Sabina XIV L I. Aubervilliers : Institut de Recherche et d'Histoire des Textes (IRHT), 2004. pp. 365-377. https://www.persee.fr/doc/dirht_0073-8212_2004_act_67_1_1196.
Cochrane, Denis John, The lives of Saint Dominic in Medieval French and their relation to the Latin Sources [Thesis submitted to the requirements of the degree Ph.D., Australian Catholic Universitt 2012 ]. https://doi.org/10.4226/66/5a9631ecc68a8.
Lincoln, Kyle C., A Canon From Castile: The Early Life of St. Dominic of Osma (1170/4-1207), [Thesis presented to the Graduate Faculty of Saint Louis University for the Degree of Master of Arts, 2012]. https://media.musicasacra.com/dominican/Studies/lincoln.pdf.
Phụ lục. Chân dung thánh Đa Minh qua cái nhìn của hai vị giáo hoàng
Nhân kỷ niệm 700 năm ngày tạ thế của thánh Đa Minh, ĐTC Bênêđictô XV đã gửi một thông điệp (enciclica) đền toàn thể Giáo hội, với tựa đề Fausto appetente die (Đang khi chờ đợi ngày hồng phúc), ký vào ngày 29 tháng 6 năm 1921, trong đó ngài nêu bật ba đặc điểm của công cuộc giảng thuyết của thánh nhân: đạo lý vững chắc, trung thành với Tòa thánh, và lòng thảo kính đặc biệt với Đức Trinh nữ Maria.
Một thế kỷ sau, nhân kỷ niệm 800 năm ngày tạ thế của thánh Đa Minh, ĐTC Phanxicô viết một bức thư (lettera) cho bề trên tổng quyền Dòng Anh em giảng thuyết (ngày 24 tháng 5 năm 2021), trong đó ngài đề cao danh xưng Praedicator gratiae: kẻ rao giảng Tin mừng về lòng thương xót của Thiên Chúa.
Đối chiếu hai văn kiện, chúng ta thấy vào đầu thế kỷ XX, Tòa thánh nhấn mạnh đến tầm quan trọng của đạo lý đức tin; bước sang thế kỷ XXI, điểm nhấn được đặt ở việc loan báo lòng thương xót.
THÔNG ĐIỆP CỦA ĐỨC THÁNH CHA BÊNÊĐICTÔ XV
NHÂN KỶ NIỆM 700 NĂM NGÀY SINH VỀ TRỜI CỦA THÁNH ĐA MINH
Kính gửi các vị Thượng phụ, Trưởng giáo, Tổng Giám mục, Giám mục, và các Bản quyền trong bình an và hiệp thông với Tông Toà. Xin gửi lời chào thăm và phép lành Tòa thánh.
Chúng ta đang chờ đợi ngày hồng phúc, mà cách đây bảy trăm năm, cha Đa Minh, một ngôi sao thánh thiện, đã từ khổ luỵ trần gian bước về ngai toà của các thánh vinh phúc. Từ nhiều năm, Chúng tôi vẫn thuộc về số những kẻ mộ mến ngài, đặc biệt kể từ khi Chúng tôi bắt đầu cai quản giáo phận Bologna, nơi mà các di tích của thánh nhân được lưu giữ và kính nhớ. Từ Tông toà, Chúng tôi vui mừng được khích lệ toàn dân Thiên Chúa hãy cử hành việc tưởng nhớ vị thánh lừng danh này. Như vậy, không những Chúng tôi thỏa mãn lòng ngưỡng mộ của riêng mình, mà còn là cách thức bày tỏ tấm lòng tri ân đối với vị thánh lập pháp và đối với Dòng nổi tiếng do ngài sáng lập.
2- Thật vậy, cũng như cha Đa Minh đích thực là một “con người của Thiên Chúa”[32], thì ngài cũng hoàn toàn là một con người của Giáo Hội Chúa, một chiến sĩ kiên cường bảo vệ đức tin. Dòng Anh Em Giảng Thuyết do ngài sáng lập xưa nay vẫn là thành trì kiên cố của Giáo Hội Rôma. Vì thế, không những có thể nói rằng thánh Đa Minh là người chấn chỉnh đền thờ vào thời của mình (Hc 50,1), mà đã góp sức vào việc bảo vệ Hội thánh đến muôn đời, làm tròn những lời nhận xét mang tính tiên tri của Đức giáo hoàng Honoriô III khi châu phê Dòng vừa được thành lập: “Các anh em của Dòng sẽ là những chiến sĩ đức tin, và ngọn đèn soi sáng thế giới”.
3- Thực vậy, như chúng ta đã biết, để mở rộng vương quốc của Thiên Chúa, Đức Giêsu Kitô đã không dùng vũ khí nào hơn ngoài lời rao giảng Tin Mừng, nghĩa là tiếng nói sống động của các người loan truyền giáo lý bởi trời đến hết mọi nơi. Chúa đã truyền: “Anh em hãy giảng dạy muôn dân (Mt 28,19), loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo.” (Mc 16,15). Vì thế, nhờ lời giảng của các Tông đồ, đặc biệt là thánh Phaolô, được tiếp nối lời dạy của các giáo phụ và các tiến sĩ, mà các trí tuệ được soi sáng bởi chân lý và các tâm hồn được hâm nóng bởi lòng yêu mến các nhân đức. Theo chiều hướng nhằm thánh hóa các linh hồn, cha Đa Minh đã quyết tâm cho bản thân và cho các đồ đệ của mình “hãy chuyển trao cho tha nhân những gì đã chiêm niệm”. Để thực hiện điều này, cha nhắc nhớ anh em nuôi dưỡng nơi bản thân một nếp sống khó nghèo, thanh khiết, vâng phục tu trì, và còn đòi buộc nghĩa vụ nghiêm nhặt phải chuyên chăm học hỏi đạo lý và rao giảng chân lý.
4- Việc giảng thuyết của tu sĩ Đa Minh biểu lộ ba đặc tính: vững chắc về đạo lý, hoàn toàn trung thành với Tông Toà, và kính mến Đức Trinh Nữ Mẹ Thiên Chúa.
Thực vậy, tuy dù dã cảm nhận ơn gọi giảng thuyết từ khi còn trẻ, nhưng cha Đa Minh chỉ khởi sự thi hành tác vụ sau khi đã trau dồi kiến thức triết học và thần học tại đại học Palencia, và dưới sự hướng dẫn của các giáo phụ, cha đã thực sự thấm nhuần nguồn mạch Kinh thánh, đặc biệt là thánh Phaolô.
5- Người ta đã sớm nhận ra đạo lý thâm sâu của cha khi bắt đầu những cuộc tranh luận với những kẻ lạc giáo. Mặc dù họ sử dụng hết mọi phương thế và lập luận tinh vi để chống lại các đạo lý đức tin, nhưng cha đã biện bác và sửa sai họ. Điều này xảy ra đặc biệt ở Toulouse, sào huyệt và trung tâm của phe lạc giáo, nơi quy tụ những đối thủ uyên bác nhất. Các sử gia ghi nhận rằng cha Đa Minh, cùng các anh em tiên khởi, mạnh mẽ về lời nói và việc làm, đã đương đầu với thái độ ngang ngược của những kẻ lạc giáo, nên không những đã ngăn cản không để họ bành trướng và còn dùng lòng bác ái bao dung để lôi kéo được rất nhiều người trở về với Giáo Hội. Chính Thiên Chúa đã đến trợ giúp cha cách hữu hình trong cuộc chiến đức tin; tựa như khi chấp nhận những kẻ lạc giáo thách thức rằng mỗi bên phải quăng quyển sách của mình vào đống lửa, thì phép lạ đã xảy ra khi chỉ riêng quyển sách của cha Đa Minh không bị đốt cháy. Có thể nói, nhờ sự dũng cảm của cha, mà châu Âu đã thoát khỏi mối nguy lạc giáo Albigeois.
6- Cha Đa Minh cũng muốn cho con cái của mình phải được trang bị bằng đạo lý vững chắc. Ngay sau khi Dòng được Tông Toà phê chuẩn và xác nhận với danh hiệu Anh Em Giảng Thuyết, cha đã cho thành lập nhiều cộng đoàn tu viện ở gần các trường đại học danh tiếng, để các môn sinh của ngài có thể dễ dàng tiếp cận với các lãnh vực văn hoá khác nhau, và một số đông những người học thức đã gia nhập gia đình mới này. Nhờ thế, Dòng Đa Minh ngay từ khi mới thành lập đã có tiếng là Dòng học thức, và quan tâm đặc biệt đến việc chữa lành các thương tích sâu xa gây ra bởi những sai lầm, và chiếu toả ánh sáng đức tin Kitô giáo. Cha Đa Minh cùng các anh em đã nhận thấy rằng chính sự lầm lạc đạo lý và dốt nát về chân lý đã cản trở người ta đến với ơn cứu độ vĩnh cửu. Thế nên, không có gì lạ khi thấy mọi người ngạc nhiên và được chinh phục bởi hướng hoạt động tông đồ mới, vừa được đặt nền tảng trên Tin Mừng và giáo huấn của các vị Giáo phụ, vừa được bồi dưỡng bởi các kiến thức rộng rãi của các ngành học khác.
7- Sự khôn ngoan của Thiên Chúa dường như dược bộc lộ qua tiếng nói của các anh em Đa Minh, khi từ Dòng mới đã xuất thân rất nhiều nhà giảng thuyết và bảo vệ Đức tin, tựa như thánh Giaxintô, thánh Phêrô tử đạo, thánh Vinh Sơn Phêriê; hoặc các khuôn mặt học thức uyên bác như thánh Albertô Cả, thánh Raymundo Pênhapho, đặc biệt là thánh Tôma Aquinô, một người con vĩ đại của cha Đa Minh, qua đó Thiên Chúa đặc biệt “rủ lòng thương chiếu toả ánh sáng trên Giáo Hội của Người”. Nhờ giáo huấn chân lý của thánh nhân, Dòng rất được trân trọng, và nhận một vinh dự mới khi Giáo hội tuyên nhận giáo huấn của thánh Tôma như là của Giáo hội, và thánh tiến sĩ lừng danh này không ngừng được các vị giáo hoàng tán dương và được đặt làm thầy dạy và bổn mạng và các trường Công Giáo.
8- Cùng với lòng nhiệt thành gìn giữ đức tin, cha Đa Minh còn nuôi dưỡng lòng yêu mến, kính trọng đối với Tông Toà. Lịch sử kể lại rằng ngài đã quỳ dưới chân Đức Inôcentê III và hứa sẽ hết lòng bảo vệ Giáo hoàng, rồi vào đêm hôm sau, vị tiền nhiệm của Chúng tôi đã thấy một thị kiến, trong đó cha Đa Minh kề đôi vai gan dạ để vác đỡ Vương cung Thánh đường Lateranô đang nghiêng ngả. Cũng có nguồn sử kể lại, khi hướng dẫn các anh em đầu tiên của Dòng tiến bước trên đường hoàn thiện Kitô giáo, cha Đa Minh đã ấp ủ ý tưởng quy tụ một nhóm giáo dân nhiệt thành và đạo đức, thành lập nhóm chiến binh thánh thiện, sẵn sàng bảo vệ quyền lợi của Giáo hội, mạnh mẽ chống phe lạc giáo. Đó là nguồn gốc của Dòng Ba Đa Minh, cổ động sự thánh thiện giữa các tín hữu giáo dân, đã mang lại cho mẹ Giáo hội một sự hỗ trợ và nâng đỡ đáng kể.
9- Thụ hưởng tinh thần của vị tổ phụ, các tu sĩ Đa Minh hết lòng kính trọng, bảo vệ Toà Thánh. Khi các tâm trí bị lung lạc bởi những sai lầm, hoặc khi Giáo hội bị chao đảo bởi những cuộc xáo trộn của nhân dân hay các quyền bính, thì Toà Thánh vẫn luôn có các tu sĩ Đa Minh, những nhà bảo vệ chân lý và công lý, tương trợ đắc lực và hữu hiệu, giữ gìn danh dự và uy tín của mình. Trong lãnh vực này, ai lại không biết đến những việc làm vẻ vang của một trinh nữ Dòng Đa Minh, thánh Catarina Siena? Với lòng yêu mến Chúa Giêsu Kitô, thánh nữ đã thành công thuyết phục Đức Giáo hoàng trở về trụ sở của mình ở Rôma sau 70 năm xa cách, điều mà không một ai có thể thực hiện. Thêm nữa, trong khi Giáo Hội Tây Phương bị chia tách nặng nề với cuộc đại ly giáo, thì chính thánh nữ là người đã giúp rất nhiều anh chị em tín hữu trung thành, vâng nghe Đức giáo hoàng hợp pháp.
10- Và, tuy phải bỏ qua nhiều công trình hiển hách khác, nhưng không thể nào quên được sự kiện là đã có bốn vị Giáo hoàng xuất thân từ hàng ngũ anh em Đa Minh. Trong số đó, vị gần đây nhất là thánh Giáo hoàng Piô V, người mà hết thảy Kitô hữu lẫn xã hội dân sự đều không ngớt lời tri ân. Sau biết bao nỗ lực, Đức Piô V đã liên kết được cánh tay của các vua chúa Công giáo, và nhờ sự phù trợ của Đức Trinh Nữ Mẹ Thiên Chúa, Đấng mà thánh giáo hoàng kính cẩn cúi chào với tước hiệu “Đấng phù hộ các giáo hữu”, Kitô giáo đã chiến thắng quân Hồi giáo Thổ Nhĩ Kỳ ở vịnh Lepantô.
11- Biến cố này làm nổi bật đặc tính thứ ba của việc giảng thuyết Đa Minh như chúng ta đã nhắc đến: đó là lòng sùng kính, mộ mến Đức Trinh nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa. Người ta nói rằng nhờ một thị kiến mà Đức giáo hoàng Piô V đã biết được cuộc chiến thắng ở Vịnh Lepantô vào chính lúc xảy ra, đang khi trong toàn thể thế giới Công giáo, các hiệp hội cùng nài xin Đức Mẹ trợ giúp qua việc đọc Kinh Mân Côi mà chính Đấng sáng lập Dòng Anh Em Giảng Thuyết đã khởi xướng, và các tu sĩ Đa Minh sau này phổ biến. Với lòng yêu mến Đức Trinh Nữ Diễm phúc như từ mẫu, phó thác cho sự bảo trợ của Mẹ, cha Đa Minh bắt đầu cuộc chiến đức tin. Trong nhiều lập luận, tư tưởng, bè rối Albigeois tấn công cả tình mẫu tử thánh thiêng lẫn sự khiết trinh của Đức Maria. Khi họ đả kích với lời lẽ châm biếm, cha Đa Minh đã nỗ lực hết mình bảo vệ các đạo lý thánh, ngài tha thiết khấn xin Mẹ trợ giúp, thường cất lên những lời như sau: “Lạy Đức Trinh Nữ rất thánh, xin cho con được xứng đáng ca tụng Mẹ; xin đoái thương trợ giúp, để con mạnh mẽ chống lại những kẻ thù nghịch của Mẹ”[33]. Hẳn là Đức Nữ Hoàng Thiên Quốc rất vui với lòng mộ mến của tôi tớ Mẹ, và chúng ta dễ dàng hiểu rằng qua cha Đa Minh, Mẹ truyền dạy cho toàn thể Giáo Hội là Hiền thê của con Mẹ, về Kinh Mân Côi rất thánh; cất lời cầu nguyện bằng Kinh Mân Côi, trên môi miệng và với cả con tim, suy niệm đặc biệt các mầu nhiệm thánh, đọc 15 lần lời Kinh Lạy Cha, lặp lại nhiều chục lần kinh Kinh Mừng, là cách thức thông dụng nhất để thúc đẩy và duy trì đức mến và các nhân đức khác nơi các tín hữu. Vì thế, thánh Đa Minh đã truyền cho anh em của ngài, khi giảng Lời Chúa thì hãy giúp mọi người ghi nhớ cách thức cầu nguyện bằng kinh Mân Côi, đón hưởng ơn ích của lời kinh này như chính ngài đã cảm nghiệm. Thêm vào đó, cha Đa Minh còn thấu hiểu uy quyền của Mẹ trước nhan thánh Chúa, bất cứ ơn lành nào Chúa ban cho nhân loại thì chính Mẹ sẽ cộng tác để chuyển trao. Cha Đa Minh cũng nhận biết Mẹ Maria rất nhân lành và hay thương xót, Mẹ hằng cứu giúp những ai lầm than khốn khổ, Mẹ chẳng bao giờ từ chối những người thành kính chạy đến kêu cầu. Vì vậy, Giáo hội vẫn xác tín và khẩn cầu Đức Maria với tước hiệu “Mẹ của ân sủng và của lòng thương xót” trong mọi trường hợp, và cách riêng là khi nguyện Kinh Mân Côi. Bởi thế, các Đức Giáo hoàng vẫn luôn nhắc đến kinh Mân Côi và khích lệ bằng việc Ban Ân Xá Tông Toà cho những ai yêu mến, cầu nguyện bằng Kinh Mân Côi.
12- Chư Huynh đáng kính, anh em biết rằng sự hiện diện của các tu sĩ Đa Minh ngày nay vẫn còn cần thiết giống như vào thời Đấng Sáng Lập. Vẫn còn biết bao tâm hồn đang bị tê liệt vì thiếu tấm bánh sự sống là đạo lý của Giáo hội. Biết bao người xa rời đức tin vì bị lừa dối bởi hệ tư tưởng sai lạc. Làm thế nào các linh mục, nhờ tác vụ Lời Chúa, có thể đáp ứng các nhu cầu ấy nếu họ không đầy tràn lòng nhiệt thành với ơn cứu độ các linh hồn, và được chuẩn bị tốt trong các thánh khoa? Rồi còn phải nói gì đến những con cái Giáo Hội đang sống hờ hững, vô ơn, quay lưng với vị Đại diện Chúa Kitô trên trần gian: họ cần có người dẫn lối để biết trở về với Giáo Hội. Để có thể chữa lành những sự dữ vừa nói và những sự dữ khác nữa, chúng ta rất cần sự bảo trợ và nâng đỡ của Mẹ Maria!
13- Như thế, các tu sĩ Đa Minh thấy mở ra một cánh đồng thật bao la, hầu như bất tận, để họ phục vụ ích chung. Chúng tôi ước mong rằng việc cử hành long trọng nhân dịp kỷ niệm bảy thế kỷ sinh nhật trên trời của cha thánh sẽ giúp anh chị em Đa Minh hôm nay canh tân đời sống, thêm lòng nhiệt thành, bước theo khuôn mẫu thánh thiện của Đấng Sáng Lập, biết làm cho cuộc sống hằng ngày trở nên xứng đáng hơn nữa với vị tổ phụ cao cả. Dĩ nhiên các tu sĩ thuộc hàng giáo sĩ cần phải làm gương cho các thành phần khác, càng ngày càng dấn thân hơn vào việc rao giảng Lời Chúa, để tăng thêm sự tùng phục vị kế nhiệm thánh Phêrô, và hết lòng sùng kính, mộ mến Đức Trinh Nữ Mẹ Thiên Chúa, và học biết chân lý. Còn các tín hữu giáo dân thuộc gia đình Đa Minh, Giáo Hội cũng đang trông chờ rất nhiều nơi anh chị em. Hãy chuyên cần học hỏi, trau dồi bản thân theo tinh thần của thánh tổ phụ, cộng tác vào việc hướng dẫn, giúp đỡ những anh chị em còn lầm lạc hay vụng về trong đời sống đức tin và luân lý. Ước mong anh chị em giáo dân Đa Minh sẽ là những tín hữu chuyên chăm vì thiện ích của các linh hồn. Cuối cùng, chúng tôi ước mong tất các các con cái thánh Đa Minh hãy cố gằng phổ biến, khích lệ các tín hữu đọc Kinh Mân Côi, mà chúng tôi, theo gương vị tiền nhiệm là đức Lêo XIII, hết lòng mời gọi trong thời kỳ thử thách này. Nếu được như vậy, chúng tôi nghĩ rằng việc kỷ niệm bách chu niên này thật sự mang lại hoa trái..
Như dấu tỏ của những ân huệ thiêng liêng và bằng chứng của muôn phúc lành quý báu, tôi ban Phép Lành Tông Toà cho Chư huynh, hàng giáo sĩ và toàn thể đoàn dân của Anh em.
Làm tại Rôma, cạnh Đền thánh Phêrô, ngày 29 – 06 – 1921,
-----------
THƯ CỦA ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ
Kính gửi Anh Gerard Francisco Timoner, O.P.,
Tổng quyền Dòng Anh em Giảng thuyết
Praedicator Gratiae: “Nhà Giảng thuyết Ân sủng” là danh hiệu nổi bật hơn cả dành cho thánh Đa Minh, vì đó là danh hiệu thích hợp với đặc sủng và sứ vụ của Dòng do thánh nhân sáng lập. Nhân dịp kỷ niệm 800 năm Thánh Đa Minh qua đời, tôi vui mừng hiệp cùng các tu sĩ Dòng Giảng thuyết mà tạ ơn về những hoa trái thiêng liêng trổ sinh từ đặc sủng và sứ vụ ấy, biểu lộ qua sự phát triển đa dạng phong phú của Gia đình Đa Minh suốt nhiều thế kỷ. Tôi xin gửi lời chào thăm, lời cầu nguyện cùng những lời chúc tốt đẹp đến tất cả các phần tử của đại gia đình Đa Minh, bao gồm cả đời sống chiêm niệm và hoạt động tông đồ của các nữ đan sĩ và nữ tu, các huynh đoàn linh mục và giáo dân, các tu hội đời và các phong trào giới trẻ.
Trong Tông huấn Gaudete et Exsultate, tôi có viết “mỗi vị thánh là một sứ mạng, được Chúa Cha hoạch định để phản ánh và hiện thực hóa một khía cạnh nào đó của Tin Mừng, tại một thời điểm cụ thể trong lịch sử.” (số 19). Thánh Đa Minh đã đáp ứng nhu cầu cấp thiết của thời bấy giờ không chỉ bằng việc rao giảng Tin Mừng cách mới mẻ và say mê, mà quan trọng không kém, còn bởi chứng tá thuyết phục cho lời mời gọi nên thánh trong sự hiệp thông sống động của Giáo hội. Trong tinh thần canh tân triệt để, thánh nhân đã cố gắng trở về với đời sống thanh bần và đơn sơ của cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi, tụ họp chung quanh các tông đồ và trung thành với giáo huấn của các ngài (x. Cv 2,42). Đồng thời, lòng nhiệt thành với phần rỗi các linh hồn đã thôi thúc thánh nhân thành lập đoàn ngũ các nhà giảng thuyết dấn thân mà lòng yêu mến Sách thánh và đời sống chính trực của họ có thể soi sáng tâm trí và sưởi ấm các tâm hồn bằng chân lý ban sự sống của Lời Chúa.
Trong thời đại chúng ta, thời đặc trưng của những thay đổi mang tính lịch sử và những thách đố mới đối với sứ mạng loan báo Tin Mừng của Giáo hội, Thánh Đa Minh có thể trở thành nguồn cảm hứng cho tất cả những ai đã chịu phép rửa, những người được kêu gọi là những môn đệ thừa sai, đi đến tận mọi “vùng ngoại biên” của thế giới, mang theo ánh sáng Tin Mừng và tình yêu thương xót của Chúa Kitô. Nói về tính thích thời trường cửu nơi tầm nhìn và đặc sủng của Thánh Đa Minh, Đức Giáo hoàng Bênêđíctô XVI nhắc nhở chúng ta rằng “ngọn lửa truyền giáo phải luôn bừng cháy trong lòng của Giáo hội” (Buổi tiếp kiến chung ngày 03/02/2010).
Ơn gọi cao cả của Thánh Đa Minh là rao giảng Tin Mừng về tình yêu thương xót của Thiên Chúa với tất cả chân lý cứu độ và sức mạnh cứu chuộc của tình yêu ấy. Khi còn là một sinh viên ở Palencia, thánh nhân đã nhận ra tương quan không thể tách rời giữa đức tin và đức ái, giữa chân lý và tình yêu, giữa đức chính trực và lòng trắc ẩn. Như Chân phước Giôđanô Saxônia kể với chúng ta, thánh nhân đã xúc động vì nhiều người đang phải đau khổ và phải chết trong nạn đói trầm trọng, nên người đã bán đi những cuốn sách quý giá của mình, và với lòng nhân ái đáng phục, người đã thiết lập một trung tâm từ thiện để dưỡng nuôi người nghèo khổ (Libellus, 10). Chứng tá của thánh nhân về lòng thương xót của Chúa Kitô và mối bận tâm mang phương dược chữa lành của lòng thương xót đến cho những ai đang gặp cảnh thiếu thốn về vật chất và tinh thần đã truyền cảm hứng cho việc thành lập Dòng của anh em, đồng thời định hình đời sống và hoạt động tông đồ của vô số anh chị em Đa Minh ở nhiều nơi và nhiều thời khác nhau. Sự hợp nhất giữa chân lý và bác ái có lẽ được thể hiện rõ nhất nơi trường Salamanca của Dòng Đa Minh, đặc biệt là nơi công trình của tu sĩ Francisco de Vitoria, người đã khởi xướng cho nền móng công pháp quốc tế dựa trên những quyền phổ quát của con người. Điều này đã trở thành nền tảng triết học và thần học cho những nỗ lực quả cảm của các tu sĩ Antonio Montesinos và Bartolomé de Las Casas tại Mỹ châu, và Domingo de Salazar tại Á châu để bảo vệ phẩm giá và quyền của dân bản địa.
Sứ điệp Tin Mừng về phẩm giá bất khả xâm phạm của con người trong tư cách là con cái của Thiên Chúa và là thành viên của chỉ một gia đình nhân loại, đang thách đố Giáo hội trong thời đại chúng ta phải thắt chặt tình bằng hữu xã hội, vượt thắng các cơ cấu kinh tế và chính trị bất công, và hành động cho sự phát triển toàn diện của mỗi cá nhân và dân tộc. Trung thành với ý muốn của Chúa, và được thúc đẩy bởi Chúa Thánh Thần, những người theo Chúa Kitô được mời gọi nỗ lực cộng tác với nhau “để khai sinh một thế giới mới, nơi tất cả chúng ta đều là anh chị em với nhau, nơi có chỗ cho tất cả những ai bị xã hội loại bỏ, nơi công lý và hòa bình rực rỡ ánh huy hoàng” (Fratelli Tutti, 278). Ước gì Dòng Anh em Giảng thuyết, ngày nay cũng như trước kia, ở nơi tuyến đầu của việc loan báo Tin Mừng cách mới mẻ, có khả năng nói với tâm hồn những người nam cũng như nữ của thời đại chúng ta, và khơi lên trong họ lòng khao khát cho vương quốc của Đức Kitô mau đến, vương quốc của thánh thiện, công lý và bình an!
Lòng nhiệt thành của Thánh Đa Minh đối với Tin Mừng và ước muốn có một nếp sống tông đồ đích thực đã khiến thánh nhân đề cao tầm quan trọng của đời sống chung. Một lần nữa Chân phước Giôđanô Saxônia cho chúng ta biết, khi thành lập Dòng, Thánh Đa Minh đã có một chọn lựa thật ý nghĩa khi “không để mình được gọi là phó bề trên, nhưng là Anh Đa Minh” (Libellus, 21). Lý tưởng về tình huynh đệ này được thể hiện qua cách thức quản trị cộng đoàn, ở đó mọi người cùng tham gia vào quá trình phân định rồi đưa ra quyết định, tùy theo vai trò và quyền hạn tương ứng của họ, thông qua hệ thống các công hội ở tất cả các cấp. Tiến trình “đồng nghị” này cho phép Dòng thích ứng đời sống và sứ mạng của mình với sự thay đổi của bối cảnh lịch sử mà vẫn duy trì được sự hiệp thông huynh đệ. Chứng tá về tình huynh đệ Tin Mừng, như một lời chứng ngôn sứ cho kế hoạch tối hậu của Thiên Chúa trong Đức Kitô nhằm hòa giải và hiệp nhất toàn thể gia đình nhân loại, vẫn là yếu tố nền tảng của đoàn sủng Đa Minh và là cột trụ trong nỗ lực của Dòng nhằm cổ võ việc canh tân đời sống Kitô hữu và loan truyền Tin Mừng trong thời đại của chúng ta.
Cùng với Thánh Phanxicô Assisi, Thánh Đa Minh hiểu rằng việc loan báo Tin Mừng, bằng lời nói và bằng gương sáng – verbis et exemplo, đòi hỏi phải xây dựng toàn thể cộng đoàn Giáo hội trong sự hiệp nhất huynh đệ và trong tư cách là người môn đệ thừa sai. Đoàn sủng giảng thuyết Đa Minh đã sớm lan toả thành nhiều ngành khác nhau tạo nên một gia đình Đa Minh rộng lớn hơn, bao gồm tất cả các bậc sống trong Giáo hội. Trong những thế kỷ tiếp theo, đoàn sủng này thể hiện cách hùng hồn trong các tác phẩm của Thánh Catarina Siêna, các bức họa của Chân phước Fra Angêlicô, các việc bác ái của Thánh Rôsa Lima, Thánh Gioan Maisan và Thánh Margarita Castellô. Cũng thế, trong thời đại của chúng ta, đoàn sủng Đa Minh tiếp tục gợi hứng cho công trình của các nghệ sĩ, các học giả, thầy dạy và các nhà truyền thông. Trong năm kỷ niệm này, chúng ta không thể không nhớ đến những thành viên của Gia đình Đa Minh mà cuộc tử đạo của các vị chính là một hình thức rao giảng mãnh mẽ. Hoặc là vô số anh chị em đã noi gương đơn sơ và lòng trắc ẩn của Thánh Martin de Porres, mang niềm vui Tin Mừng đến các vùng ngoại vi của các xã hội và thế giới của chúng ta. Đến đây tôi đặc biệt nghĩ đến chứng tá thầm lặng của hàng ngàn đoàn viên Huynh đoàn Giáo dân Đa Minh và các thành viên của Phong trào Giới trẻ Đa Minh, những người phản ánh vai trò quan trọng và thực sự không thể thiếu của người giáo dân trong công cuộc loan báo Tin Mừng.
Nhân dịp Năm thánh kỷ niệm sinh nhật của Thánh Đa Minh nơi cuộc sống vĩnh cửu, tôi bày tỏ lòng biết ơn cách đặc biệt đến các tu sĩ Dòng Anh em Giảng thuyết về những đóng góp nổi bật trong việc rao giảng Tin Mừng qua các khám phá thần học về mầu nhiệm đức tin. Bằng việc gửi các tu sĩ đầu tiên đến các đại học nổi tiếng ở Âu châu, Thánh Đa Minh đã cho thấy tầm quan trọng sống còn của việc cung cấp cho các nhà giảng thuyết tương lai một nền đào tạo thần học đúng đắn và vững chắc dựa trên Kinh thánh, tôn trọng các vấn nạn do lý trí đặt ra, và sẵn sàng tham gia vào cuộc đối thoại nghiêm túc và tôn trọng lẫn nhau để phục vụ nhiệm cuộc mặc khải của Thiên Chúa trong Đức Kitô. Hoạt động tông đồ trí thức của Dòng, nhiều trường học và học viện của Dòng ở cấp học cao hơn, việc chuyên tâm nghiên cứu các khoa học thánh và sự hiện diện của Dòng trong giới văn hóa đã khơi dậy cuộc gặp gỡ giữa đức tin và lý trí, dưỡng nuôi sức sống đức tin Kitô giáo và thúc đẩy sứ vụ của Giáo hội trong việc thu hút nhiều tâm trí và tâm hồn đến với Chúa Kitô. Về mặt này, tôi chỉ có thể lặp lại lòng biết ơn của tôi đối với Dòng về lịch sử phục vụ Tông tòa kể từ thời Thánh Đa Minh.
Trong chuyến viếng thăm Bologna cách đây 5 năm, tôi diễm phúc có đôi phút cầu nguyện trước mộ Thánh Đa Minh. Tôi cầu nguyện cách đặc biệt cho Dòng Anh em Giảng thuyết, khẩn xin cho các phần tử của Dòng được ơn bền đỗ trong sự trung thành với đặc sủng nguyên thủy và truyền thống huy hoàng mà họ thừa kế. Để cảm ơn Thánh Đa Minh vì tất cả những thiện hảo mà các con cái nam nữ của thánh nhân thực hiện trong Giáo hội, tôi đã cầu xin một ơn đặc biệt là cho Dòng được tăng thêm nhiều ơn gọi linh mục và tu sĩ.
Ước gì việc cử hành Năm thánh tuôn đổ muôn vàn ân sủng trên các tu sĩ Dòng Giảng thuyết và toàn thể Gia đình Đa Minh, đồng thời mở ra một mùa xuân mới của Tin Mừng. Với lòng trìu mến sâu xa, tôi phó thác tất cả những ai tham dự các cử hành Năm thánh cho sự chuyển cầu đầy yêu thương của Đức Mẹ Mân Côi và Thánh phụ Đa Minh của anh chị em, và tôi ưu ái ban Phép lành Tông toà như một bảo chứng của sự khôn ngoan, niềm vui và bình an trong Chúa.
Rôma, từ đền thờ Thánh Gioan Lateranô, ngày 24 tháng 5 năm 2021
[1] X. Guy Bedouelle, Thánh Đa Minh ân sủng Lời Chúa, Tủ sách Đại Kết, TPHCM 1992, trang 43-51.
[2] Các tác phẩm của thánh Phanxicô bao gồm: 1/ Luật (2 bản) và Chúc thư. 2/ Thư tín. 3/ Các kinh nguyện và bài thánh thi và thánh ca.
[3] Bản dịch tiếng Việt: Chân dung cha Đa Minh theo các nhân chứng, Học viện Đa Minh 2012.
[4] Đối chiếu với các tài liệu do Dòng Phanxicô xuất bản: Dialogus de gestis sanctorum fratrum minorum (1246); Tommaso de Celano, Vita I (1228), Vita II (1246), Tractatus de miraculis (1253); S. Bonaventura, Legenda maior S. Francisci; Legenda minor (1260-1262). Ngoài ra cũng nên đối chiếu ngày phong thánh của hai vị tổ phụ (Phanxicô qua đời ngày 3/10/1226 và được phong thánh ngày 16/7/1228: chết sau mà làm thánh trước!) cũng như hai vị thánh đầu tiên của hai Dòng, nổi tiếng về các phép lạ: Antôniô Pađova OFM (+13/6/1231 - 30/5/1232) và Phêrô Verona OP (+6/4/1252 - 9/3/1253). Sự ganh đua nhiều khi đưa đến chỗ đả kích bôi nhọ lẫn nhau. Nhằm xoa dịu những căng thẳng, người ta “bịa” ra sự tích hai thánh tổ phụ ôm nhau: con cái hãy bắt chước cha mẹ nhé!
[5] Nên biết là cũng chính ĐTC Grêgôriô IX đã phong thánh cho Phanxicô Assisi (ngày 16/7/1228, với sắc chiếu Mira circa nos). Thủ tục phong thánh được kiện toàn dần dần. Vào thời ấy, sau khi hoàn tất thủ tục, đương sự được tuyên thánh ngay. Mãi đến thế kỷ XVII mới có sư phân biệt hai cấp: chân phước (beatus) và hiển thánh (sanctus) và hai nghi thức beatificatio và canonizatio.
[6] Ấn bản phê bình: Humberti de Romanis Legendae sancti Dominici, ed. Simon Tugwell, MOPH, 30, Institutum Historicum Fratrum Praedicatorum, Roma, 2008.
[7] Acta Capitulorum Generalium, I ad a. 1260, p. 105: “quod fratres utantur legenda b. Dominici que inserta est in lectionario et alie deinceps non scribantur”. Nên biết là một biện pháp tương tự cũng xảy ra cho Dòng Phan Sinh, khi tổng hội Pisa năm 1266 truyền đốt hết tất cả các legenda, và chỉ duy trì Legenda Maior của tổng quyền Bonaventura.
[8] Bản dịch tiếng Việt: Đời sống anh em, Học viện Đa Minh 2013, 438 trang.
[9] Alain Boureau, La légende dorée. Le système narratif de Jacques de Vorágine, Cerf, Paris, 1984. Id. ‘Legenda aurea'. Sept siècles de diffusion, Bellarmin, Montréal, 1986.
[10] Xem bài: Mừng 850 năm ngày sinh của thánh Đa Minh, trên địa chỉ: https://catechesis.net/mung-ky-niem-850-nam-ngay-sinh-cua-thanh-da-minh
[11] Simon Tugwell, “Notes on the Life of Dominic IV: Dominic's Date of Birth”, AFP, LXVII, (1997), 46-50.
[12] Anthony Lappin, “On the Family and Early Years of St. Dominic of Caleruega”, AFP, LXVII, (1997),19-22.
[13] Ai muốn tò mò thêm về đời ẩn dật, có thể đọc: Kyle C. Lincoln, A Canon From Castile: The Early Life of St. Dominic of Osma (1170/4-1207), từ địa chỉ trên mạng internet https://media.musicasacra.com/dominican/Studies/lincoln.pdf (thư mục từ trang118-125).
[14] Simon Tugwell, ‘For whom was Prouille Founded?’, AFP 74 (2004): 5–66.
[15] X. Phan Tấn Thành, Tìm hiểu Dòng Đa Minh, Học viện Đa Minh 2016, tr. 204-211.
[16] Antonio Rubial Garcia, “La hagiografia: su evolución histórica y su recepción historiografica actual”, in De sendas, brechas y atajos: contexto y crítica de las fuentes eclesiásticas, siglos XVI-XVIII , Mexico 2008, págs. 15-33. https://www.enah.edu.mx/publicaciones/documentos/175.pdf
[17] Hai tác phẩm đương thời có lẽ đã gây ảnh hưởng đến phương pháp này là: Jean de Mailly O.P., Abbreviatio de gestis et miraculis sanctorum (k.1230) và Bartolomeo de Trento O.P., Liber Epilogorum in Gesta Sanctorum (k. 1245).
[18] Pierre de Vaux-de-Cernay, Historia Albigensis, tuy phép lạ xảy ra ở Montreal chứ không phải ở Fanjeaux.
[19] Theo Legenda của Constantino (1245, cap.17). Sau này (năm 1260), Bonaventura, trong Leganda maior (cap. 3), sẽ khẳng định rằng người chống đỡ đền thờ là thánh Phanxicô.
[20] Cũng theo Legenda của Constantino (cap.21), chứ không có trong Libellus và Legenda của Ferrando.
[21] Phan Tấn Thành, Tìm hiểu Dòng Đa Minh, Học viện Đa Minh 2016, chương 16; Dòng Đa Minh với Đức Maria, tr. 240-256.
[22] Những phép lạ thánh Đa Minh thực hiện ở Rôma được chị Cecilia Cesarini (1203-1290) thu thập và kể lại trong tập hồi ký Miracula s. Dominici quae fecit apud Urbem Romam, viết khoảng năm 1288.
[23] Đó là chưa kể những sự tích mang tính “hộ giáo” để so sánh với Dòng Anh em Hèn mọn.
[24] Augustine Thompson, Francis of Assisi. A new biography, Cornell University Press, New York 2012. Part II: Sources and debates, p.153-170.
[25] Guy-Thomas Bedouelle, Saint Francois et saint Dominique, Conférence 4 Octobre 2010, đăng trên mạng: http://www.freres-capucins.fr/Notre-pere-saint-Francois-et-notre.html.
[26] Phan Tấn Thành, Thánh Phanxicô và thánh Đominicô, https://daminhtamhiep.net/2013/10/thanh-Phanxicô-va-thanh-dominico/.
[27] Giulia Barone. “L’agiografia domenicana alla metà del XIII secolo ». In: Aux origines de la liturgie dominicaine: le manuscrit Santa Sabina XIV L I. Institut de Recherche et d'Histoire des Textes (IRHT), 2004. p. 365-377.
[28] Barbara Beaumont, In our keeping, Dominican University, River Forest Illinois, June 2008. https://www.dom.edu/sites/default/files/pdfs/about/McGreal/IOK_Fanjeaux_France.pdf.
[29] André Vauchez, La sainteté en Occident aux derniers siècles du Moyen Âge d’après les procès de canonisation et les documents hagiographiques, Rôma, 1982.
[30] Raymond Creytens, Le testament de Saint Dominique, in AFP 43 (1973) 29-72.
[31] Maria Humbert Vicaire, Saint Dominique, la vie apostolique, Cerf, Paris, 1965;
[32] Đây là một thứ chơi chữ: trong tiếng Latinh, Dominicus có nghĩa là “thuộc về Thiên Chúa” (Dominus).
[33] Câu xướng đáp vẫn còn được Dòng duy trì sau khi hát kinh Lạy Nữ Vương: “Dignare me laudare te, virgo sacrata. Da mhi virtutem contra hostes tuos”