CHÂN LÝ TRONG KINH THÁNH
Lm Giuse Nguyễn Tất Trung, op
Hiệu quả của ơn linh hứng là làm cho lời của người phàm trở thành Lời của Thiên Chúa, tác phẩm của con người cũng là tác phẩm của Thiên Chúa. Chính vì Kinh Thánh là Lời Thiên Chúa, là tác phẩm của Thiên Chúa nên Kinh Thánh không vướng mắc và cũng không thể vướng mắc một sai lầm nào.
Nhưng nói “Kinh Thánh không sai lầm”, “Kinh Thánh vô ngộ” hàm ý minh giáo và tiêu cực. Do đó người ta thích dùng cách nói ”chân lý trong Kinh Thánh”, mang ý nghĩa tích cực hơn.
Đây cũng là một vấn đề mới mẻ, được đặt ra hồi hậu bán thế kỷ XIX, lúc bắt đầu có cái gọi là ”vấn đề Kinh Thánh” (question biblique) : làm thế nào để dung hòa những kiến thức tân thời về khoa học tự nhiên và lịch sử với những điều Kinh Thánh nói có liên quan đến những vấn đề đó.
Có thể trưng dẫn vô số các bản văn của các Giáo phụ bênh vực tính vô ngộ của Sách Thánh, nhưng các Giáo phụ chỉ nói đến tính vô ngộ để làm điểm tựa vững chắc cho một số những lý lẽ chứng minh tín lý nhân có tranh luận về một điểm nào đó.
I. TỪ ĐẦU ĐẾN THẾ KỶ XIX
1. Thế kỷ thứ III và thứ IV
Ngay từ những thế kỷ đầu, vấn đề chân lý trong Kinh Thánh cũng đã được đặt ra vài lần, vd. Celsus hay Porphyrius tìm những mâu thuẫn trong Kinh Thánh để kết luận Kinh Thánh không có giá trị.
Các vị Giáo phụ đã nỗ lực chứng minh ngược lại, vd. cuốn “contra Celsum”. Nhưng dù sao vấn đề cũng chỉ là thoáng qua và chưa có hệ thống, và do những người ngoài Giáo Hội, muốn chống đối Giáo Hội, đặt ra.
2. Thế kỷ XVI và XVII
Không có gì đáng kể ngoài vụ Galilê. Nguyên tắc của thánh Augustinô được nhắc lại : Kinh Thánh không dạy một chân lý nào mà không có ích lợi cho ơn cứu độ của ta”.
3. Thế kỷ thứ XVIII và XIX
Bắt đầu có “vấn đề Kinh Thánh”. Thế kỷ XVIII và nhất là thế kỷ XIX, khoa học tiến nhanh, nhiều bộ môn mới xuất hiện như kỹ thuật, sử học, khảo cổ. Sự tiến bộ này đã đặt ra nhiều vấn đề về cách nhìn của Kinh Thánh đối với vật lý, thiên văn, sử học... Người ta thấy giữa đức tin và khoa học không có sự ăn khớp với nhau. Do đó có vấn nạn : có đúng là Kinh Thánh không sai lầm ? Đó là “vấn đề Kinh Thánh”
Phản ứng đầu tiên của các nhà thần học là tự vệ, và vì đó đưa ra những giải đáp dễ dãi :
- E. Holden (và F. Lenormant, J. Diderot) quả quyết Kinh Thánh không sai lầm vì Kinh Thánh đã được linh hứng. Tuy thế cũng có một vài sai lầm trong Kinh Thánh, vì thế phải giới hạn ơn linh hứng : Kinh Thánh chỉ được linh hứng và không sai lầm trong những gì liên quan đến đức tin và luân lý.
- Đức Hồng y J. E. Newman cho những chỗ Kinh Thánh quả quyết thì không sai lầm, còn những chỗ nói phớt qua (obiter dicta) thì có thể sai lầm vì không thuộc phạm vi ơn linh hứng.
- A. Loisy cho rằng chân lý chỉ tương đối, tùy theo từng giai đoạn của lịch sử, cho nên không thể đặt vấn đế Kinh Thánh không sai lầm.
- Đức Hồng y Maurice d’Hulst, viện trưởng Institut Catholique de Paris, bạn thân của A. Loisy, chịu ảnh hưởng của A. Loisy, đã quả quyết : Cựu Ước có nhiều sai lầm nên không thể đặt ngang hàng với Tân Ước. Kinh Thánh chỉ vô ngộ đối với các vấn đề thuộc đức tin và luân lý (giống như quyền vô ngộ của Đức giáo hoàng). Còn về phương diện khác, nhất là lịch sử, thì có thể sai lầm.
II. THÔNG ĐIỆP PROVIDENTISSIMUS DEUS (Đức giáo hoàng Lêô XIII, 18.11.1893)
Các Giáo phụ nếu có nói về đặc tính vô ngộ của Kinh Thánh thì cũng chỉ để bênh vực một số vấn đề thuộc tín lý, hoặc nhân một cuộc tranh luận về vấn đề nào đó. Nhưng với thông điệp Providentissimus Deus, vấn đề đã đi theo một hướng hoàn toàn khác và cách chung người ta vẫn cho thông điệp này là câu trả lời cho bài viết của Mgr d’Hulst trong bài “La question biblique”, giới hạn tính vô ngộ của Kinh Thánh vào những gì thuộc về đức tin và phong hóa.
Ngoài hai nguyên tắc :
1. Toàn thể Kinh Thánh được linh hứng, và
2. Không thể có sai lầm trong Kinh Thánh,
thông điệp còn đưa ra những vấn đề liên quan đến chân lý của Kinh Thánh như :
- Kinh Thánh không nhằm dạy về khoa học. Các soạn giả thánh nếu có đưa ra những quan niệm khoa học của thời các ngài thì mục đích là để trình bày mặc khải, để dạy một tư tưởng giáo lý, thần học.
- Giữa thần học và khoa học không có mâu thuẫn thật sự.
III. THÔNG ĐIỆP SPIRITUS PARACLITUS (Đức giáo hoàng Bênêđictô XV, 15.9.1920).
Thông điệp này đã giải quyết là không được chủ trương trong Kinh Thánh có “apparences historiques”.
Tuy dứt khoát với một số vấn đề, thông điệp này vẫn chưa đưa ra một nguyên tắc chỉ đạo để khai thông cho vấn đề nghiên cứu Kinh Thánh. Thông điệp vẫn còn dè dặt với vấn đề văn loại, vì vẫn dựa trên quan điểm lịch sử thế kỷ XIX (x. EB 457).
IV. THÔNG ĐIỆP DIVINO AFFLANTE SPIRITU (Đức giáo hoàng Piô XII, 30-9-1943)
Thông điệp Providentissimus Deus vẫn còn nặng tính cách minh giáo, chưa đủ để giải quyết một số khó khăn. Thông điệp Spiritus Paraclitus vẫn còn dè dặt về vấn đề văn thể, đang khi đó người ta bắt đầu chú ý nhiều đến thể văn, thời đại và môi trường sống của soạn giả thánh. Vì đó cần phải có một quan niệm mềm dẻo hơn về vấn đề chân lý trong Kinh Thánh. Thông điệp Divino afflante Spiritu đã đáp ứng yêu cầu khi một lần nữa xác quyết tính vô ngộ của Kinh Thánh và đề cao tự do của các soạn giả thánh.
Thông điệp này đem lại một luồng sinh khí cho Giáo Hội, mở đường cho việc nghiên cứu Kinh Thánh. Thông điệp đưa ra những nguyên tắc chỉ đạo rõ rệt cho phương diện nghiên cứu, chấp nhận trong Kinh Thánh có nhiều thể văn và cần phải nghiên cứu thể văn. Thông điệp cũng đổi hướng vấn đề, thay vì biện hộ cho tính cách vô ngộ của Kinh Thánh thì tìm hiểu xem Kinh Thánh muốn dạy điều gì.
Đáng chú ý là thông điệp Divino afflante Spiritu đã đi xa hơn hai thông điệp Providentissimus Deus và Spiritus Paraclitus. Đang khi hai thông điệp sau này quả quyết rằng cách các soạn giả thánh trình bày các biến cố trong thiên nhiên không đi ngược với tính vô ngộ, thì thông điệp Divino afflante Spiritu mở rộng đến cả những cách trình bày về lịch sử nữa.
V. CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II (Hiến chế tín lý về Mặc khải, DV)
- “Phải xem mọi lời các tác giả được linh hứng viết ra, tức các soạn giả thánh, là những Lời của Chúa Thánh Thần, nên phải công nhận rằng Kinh Thánh dạy ta cách chắc chắn, trung thành và không sai lầm, những chân lý mà Thiên Chúa đã muốn Kinh Thánh ghi lại vì ơn cứu độ của chúng ta...” (số 11)
- “... Để tìm ra chủ ý của soạn giả thánh, giữa những phương pháp khác, cũng cần xét đến văn loại. Vì chân lý được trình bày và diễn tả qua nhiều thể văn khác nhau, như thể văn lịch sử, ngôn sứ, thi phú hoặc những thể văn diễn tả khác. Hơn nữa, nhà chú giải còn có bổn phận tìm hiểu ý nghĩa mà trong những trường hợp nhất định, soạn giả thánh đã muốn diễn tả và thực sự đã diễn tả trong hoàn cảnh thời đại và văn hóa của họ qua các lối văn được dùng trong thời đó. Thực vậy, để hiểu đúng ý nghĩa Kinh Thánh muốn quả quyết trong bản văn, chúng ta phải chú tâm đúng mức đến các cách thức cảm nghĩ, diễn tả, tường thuật do bẩm sinh, được thịnh hành trong thời của họ, cũng như phải để ý đến các hình thức mà người thời ấy thường dùng khi giao tế với nhau” (số 12).
1. Tiêu chuẩn chỉ đạo
Thiên Chúa là Đấng Sáng Tạo và điều lãnh muôn loài, Người cũng là tác giả của Kinh Thánh. Như thế thì không thể có điều gì trong thiên nhiên, trong lịch sử, khoa học thực sự ngược với Kinh Thánh, vì chân lý không thể tự mâu thuẫn. Nếu có một chỗ nào đó xem ra có mâu thuẫn thì có thể do giải thích Kinh Thánh không đúng hay một phía tranh luận đã sai lầm (x. Tđ. Provid. Deus). Thông điệp Providentissimus Deus lập lại một lời thánh Giêrônimô quả quyết rằng : nếu có một câu Kinh Thánh xem chừng mâu thuẫn với chân lý (khách quan) thì chỉ có thể có ba cách cắt nghĩa : một là do việc sai sót khi lưu truyền bản văn, hai là dịch sai, ba là người cắt nghĩa giải thích sai. Vì không có mâu thuẫn giữa đức tin với lý trí, nên
a. khi Kinh Thánh rõ rệt chỉ có thể hiểu theo một nghĩa duy nhất nào đó thôi, thì mọi kết luận của khoa học ngược lại với nghĩa đó đều phải coi là sai.
b. ngược lại, khi phải đề cập đến những kết luận của các khoa học tự nhiên đã được lý trí hay kinh nghiệm cho là chắc chắn hoàn toàn thì phải hết sức thận trọng, đừng trưng Kinh Thánh như là đối nghịch với các kết luận trên.
c. phải dè dặt khi gặp ý kiến, dù là ý kiến giải thích Kinh Thánh ngược với khoa học hay ý kiến cho khoa học ngược với Kinh Thánh. Ý kiến thì chưa có gì là chắc, còn có thể xét lại và thay đổi.
d. Nếu có lời giải thích nào trước được coi là nghĩa thật của Kinh Thánh, sau này nhờ nghiên cứu thêm thì thấy là sai, lúc đó nên theo lời thánh Augustinô : “Điều đó không do Kinh Thánh, mà chỉ tại ta tối dạ nên nghĩ như thế đấy thôi” (PL 34, 260).
2. Nguyên tắc căn bản
Nguyên tắc căn bản là tất cả những gì soạn giả thánh viết ra dưới tác động của ơn linh hứng đều không sai lầm. Nhưng cần phải hiểu đúng như soạn giả thánh đã hiểu.
Vì đó trở về với bản văn là điều quan trọng và cần thiết. Duy chỉ có bản văn được viết dưới ơn linh hứng là không sai lầm, nên cần ý tứ xem bản văn sao chép có thiếu sót gì không, hoặc bản dịch có trung thành với nguyên bản hay không.
Rồi muốn hiểu đúng ý nghĩa mà soạn giả đã hiểu (đó chính là ý Thiên Chúa muốn), cần chú ý đến một số điều sau :
a. Từ và ý
Một từ có thể có nhiều ý nghĩa. Nên phải tìm xem soạn giả thánh thực sự có ý sử dụng theo nghĩa nào. Ví dụ, cũng là các tinh tú, nhưng nhà thiên văn thì tìm hiểu về những định luật của nó. Nhà thơ thì ca tụng vẻ đẹp. Còn nhà tư tưởng tôn giáo thì cũng ngắm nhìn trăng sao tinh tú, nhưng lại thấy đó là công trình của Đấng Sáng Tạo, lại thấy ở đó bàn tay của Đấng Sáng Tạo. Cả ba đều không sai lầm, nếu được nhìn theo đường hướng của riêng họ.
b. Câu văn
Phải xét từ trong một câu văn, nhưng một câu văn cũng có thể có nhiều nghĩa tùy theo nó ở trong những mạch văn khác nhau. Thánh vịnh 53,2 có một câu xác quyết : “Làm chi có Chúa Trời !” Nhưng phải đọc trong văn mạch để xem soạn giả thánh cho đó là xác quyết của ai. Của “kẻ ngu si” !
Trên đây là trường hợp soạn giả thánh dẫn lời người khác cách rõ ràng, khiến không thể coi lời quả quyết là của tác giả được. Còn trường hợp dẫn lời người khác không rõ ràng (implicite), lúc đó phải có đủ lý lẽ để chứng minh soạn giả thánh dẫn lời mà không coi đó là lời của mình. Trường hợp này phải dùng tới văn mạch.
c. Thể văn
Các câu văn, các kiểu nói của soạn giả lại được lồng vào một thể cách trình bày. Đó là văn loại, văn thể. Các soạn giả thánh là những con người sống ở một thời đại nhất định, nên tác phẩm của các vị cũng phải theo các qui ước văn chương thuộc thời đại của các vị. Sứ điệp của Kinh Thánh được lồng vào trong những tư tưởng thuộc về nền văn hóa của các soạn giả thánh và các độc giả thời đó, về cái nhìn của họ đối với thế giới.
Thể văn gồm có văn xuôi và văn vần. Nhưng thực tế ít khi có bài văn nào thuần túy theo một thể văn, mà có chăng là một hình thức đặc biệt của thể văn này, thể văn kia. Các thể văn có mục đích diễn đạt đề tài cho sâu sắc, lôi cuốn và làm nổi bật những khía cạnh khác nhau của chân lý.
d. Xác quyết của soạn giả thánh
Không phải bất cứ chỗ nào, bất cứ chi tiết nào trong Kinh Thánh cũng đều có ý dạy ta một điều gì đó. Một tác phẩm của một soạn giả thánh có thể có nhiều tính chất : lôi cuốn, thuyết phục, ... trong đó chân lý đứng hàng đầu. Nhưng chân lý đứng hàng đầu không có nghĩa chân lý là cái duy nhất, ở mọi nơi mọi chỗ và bất cứ cách nào.
Cũng không nên coi xác quyết của soạn giả thánh tất cả đều tuyệt đối như nhau. Ủy Ban Kinh Thánh đã tuyên bố : “Omne id quod hagiographus aserit, enuntiat, insinuat, retineri debet assertum, enuntiatum, insinuatum a Spiritu Sancto” (UBKT 18.6.1915). Có khi soạn giả thánh chỉ trình bày như một ý kiến, đôi khi tỏ ý do dự, thậm chí nghi ngờ. Chính Thiên Chúa cũng chấp nhận những tính cách đó, khi Người quyết định nói qua trung gian là soạn giả thánh.
Có trường hợp soạn giả thánh xác quyết một điều nào đó, nhưng không cho đó là điều ông tin hay muốn độc giả tin như vậy. Ví dụ, thể văn ngụ ngôn. (x. dụ ngôn người con phung phá : Lc 15,11-32 ; người quản lý bất lương : Lc 16,1-13). Vậy yếu tố giả tưởng chỉ là phương tiện chuyển đạt một chân lý nào đó.
e. Cuối cùng
Tất cả đều tùy thuộc vào phán đoán của tác giả. Khái niệm triết học về sai lầm là : “Error in judicio est”. Sai lầm ở trong phán đoán. Do đó,
- những mâu thuẫn giữa hai trình thuật song song không chấp nhận trình bày hai câu chuyện trái ngược, vẫn giữ được phán đoán của mình về chân lý khách quan của sự vật.
- đừng quên là ngôn ngữ của ta không hoàn toàn giống ngôn ngữ của triết lý kinh viện. Ta quen cho những điểm nói không chính xác là những sai lầm, thậm chí đó không phải là một giáo huấn chính thức (enseignement formel). Vd. Sách Giuđitha rõ ràng không chủ ý dạy rằng Nabucodonosor là vua của Assyrie và đóng đô ở Ninivê. Nhưng người ngày nay lại coi phát biểu như thế là một điều sai lầm.
- như thế là phải đặt vấn đề vô ngộ của Kinh Thánh trong tương quan với những phát biểu trong Kinh Thánh, ở đó soạn giả thánh có một phán đoán minh bạch (jugement formel). Đó là khi soạn giả thánh muốn cho độc giả biết một giáo huấn về Thiên Chúa và hoạt động của Người trong lịch sử, về con người, về những quan hệ của con người đối với Thiên Chúa. Tóm lại, đó là giáo huấn về ơn cứu đoä. Vậy quan niệm đúng về vô ngộ của Kinh Thánh là phân biệt những phát biểu thuần túy (énoncés purs et simples) tức là phán đoán về trạng thái thực sự của sự vật với giáo huấn đúng nghĩa (enseignement proprement dit) bao giờ cũng mang một phán đoán minh bạch (jugement formel).
- sứ điệp Kinh Thánh (cả Cựu Ước lẫn Tân Ước) được lồng vào trong những tư tưởng thuộc về nền văn hóa của soạn giả thánh và các độc giả thời ông, thuộc về vũ trụ quan mà họ có lúc bấy giờ. Kinh Thánh không cung cấp cho ta một giáo huấn trừu tượng, nhưng cụ thể và có tính cách lịch sử. Chân lý măïc khải, có giá trị đối với mọi người mọi thời, lại gắn liền với tư tưởng của một thời đại, những tư tưởng mà ngày nay chúng ta không còn - và cũng không buộc - theo. Khó nhưng là việc phải làm. Đó là phân biệt đối tượng riêng của những phát biểu của Kinh Thánh với những tư tưởng chịu ảnh hưởng của một thời đại nhất định. Chỉ có loại thứ nhất là không bị vướng sai lầm (x. Mysterium Salutis 2, tr. 145, note 190).
- nhưng dường như không thể giải quyết hoàn toàn vấn đề vô ngộ của Kinh Thánh chỉ nhờ việc phân biệt văn thể, phân biệt những phát biểu với những giáo lý, nội dung riêng và ý tưởng trong hoàn cảnh, cho dẫu đó là việc quan trọng và cần thiết. Bởi vì có nhiều chỗ soạn giả thánh hoàn toàn có ý (có những phán đoán) nói về trạng thái của sự vật nhưng lại nhằm để cho độc giả một giáo lý tôn giáo. Vd. trường hợp của St 1 và Gs 6 – 8. Vấn đề sẽ được trả lời dưới đây khi nói về cách nhìn Kinh Thánh của N. Lohfink.
(Còn tiếp)