(hát hoặc đọc: xin ơn Chúa Thánh Thần)
1. Hát: Cầu xin Chúa Thánh Thần
Cầu xin Chúa Thánh Thần, Người thương thăm viếng hồn con. Ban xuống cho con hồng ân chan chứa, trau dồi cho đáng ngôi thánh đường.
ÐK. Nguyện xin Chúa Ngôi Ba, đoái nghe lời con thiết tha. Tình thương mến ấp ủ con ngày đêm, nhuần thấm xác hồn tràn lan ơn thiêng.
2. Đọc: Kinh Đức Chúa Thánh Thần
Chúng con lạy ơn Đức Chúa Thánh Thần thiêng liêng sáng láng vô cùng, chúng con xin Đức Chúa Thánh Thần xuống đầy lòng chúng con, là kẻ tin cậy Đức Chúa Trời, và đốt lửa kính mến Đức Chúa Trời trong lòng chúng con; chúng con xin Đức Chúa Trời cho Đức Chúa Thánh Thần xuống.
Sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con.
Chúng con cầu cùng Đức Chúa Trời, xưa đã cho Đức Chúa Thánh Thần xuống soi lòng dạy dỗ các Thánh Tông Đồ, thì rày chúng con cũng xin Đức Chúa Trời cho Đức Chúa Thánh Thần lại xuống an ủi dạy dỗ chúng con làm những việc lành, vì công nghiệp vô cùng Đức Chúa Giêsu Kitô là Chúa chúng con. Amen.
2. TIN MỪNG
(theo lịch phụng vụ mỗi ngày)
Tin Mừng: Ga 6,52-59
52 Người Do-thái liền tranh luận sôi nổi với nhau. Họ nói: "Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được? "53 Đức Giê-su nói với họ: "Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình.54 Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết,55 vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống.56 Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy.57 Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy.58 Đây là bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời."59 Đó là những điều Đức Giê-su đã nói khi giảng dạy trong hội đường, ở Ca-phác-na-um.
3. SUY NIỆM
“Đây là bánh từ trời xuống” (Ga 6,58).
Như Mẹ: “Đây là bánh từ trời xuống”- lời khẳng định của Chúa Giêsu cho ta một niềm xác tín mạnh mẽ rằng Người quả thật là Đấng Cứu Độ, là thứ lương thực thánh thiêng mang lại sự sống vĩnh cửu. Chúng ta có dám tuyên xưng mạnh mẽ rằng bí tích Thánh Thể là Mình và Máu Thánh của chính Con Thiên Chúa?
Với Mẹ: Lạy Chúa, cuộc sống có quá nhiều thử thách cám dỗ, và vì con cứ mải mê lo đi tìm thứ lương thực tạm bợ trần gian để nuôi sống thân xác, nên con đã quá thờ ơ và nguội lạnh với bí tích Thánh Thể. Xin Chúa tha thứ cho con, và xin làm cho con tha thiết kết hợp với Chúa.
Nhờ Mẹ: Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ giúp con mỗi khi tham dự thánh lễ, thì biết ý thức rằng con đang được tham dự bữa tiệc thiên quốc với Ba Ngôi Thiên Chúa.
4. LẦN HẠT MÂN CÔI
(tuỳ điều kiện: lần hạt 1 chục, 2 chục… 5 chục Kinh Mân Côi)
5. KẾT THÚC
(hát hoặc đọc)
1. Hát: Linh hồn tôi tung hô Chúa
ĐK. Linh hồn tôi tung hô Chúa, tung hô Chúa (í, a) thần trí tôi mừng vui vời vợi trong Đấng Cứu Chuộc tôi. Chúa đã dủ thương đoái nhìn phận hèn tôi tớ. Vì vậy đến muôn đời, sẽ khen tôi đầy ơn, sẽ khen tôi đầy phúc, sẽ khen tôi muôn đời, đến muôn đời, đến muôn đời.
1. Đấng toàn năng đã làm cho tôi những việc cao trọng Danh Người là Thánh. Lượng từ ái trải qua từ đời nọ đến đời kia, hằng bao bọc những ai kính sợ Người.
2. Chúa biểu dương sức mạnh oai phong tiêu diệt tơi bời những phường tự đắc, bọn quyền quý tự kiêu, Ngài triệt hạ khỏi tòa cao và nâng dậy những ai ở khiêm nhường.
3. Lũ giàu sang đuổi về tay không, những người thanh bần ban đầy hồng phúc. Người đã nhớ lời hứa mà độ trì Ít-ra-en cùng tổ phụ Áp-ra-ham với miêu duệ.
2. Đọc: Thánh ca Tin Mừng
“Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa” (Magnificat)
Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa
Thần trí tôi hớn hở vui mừng
Vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.
Phận nữ tỳ hèn mọn,
Người đoái thương nhìn tới ;
Từ nay hết mọi đời
Sẽ khen tôi diễm phúc.
Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi
Biết bao điều cao cả.
Danh Người thật chí thánh chí tôn !
Đời nọ tới đời kia,
Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.
Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh
Dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.
Chúa hạ bệ những ai quyền thế,
Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.
Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư,
Người giàu có, lại đuổi về tay trắng.
Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người,
Như đã hứa cùng cha ông chúng ta.
Vì Người nhớ lại lòng thương xót
Dành cho tổ phụ Áp-ra-ham
Và cho con cháu đến muôn đời.
Vinh danh Chúa Cha và Chúa Con,
cùng vinh danh Thánh Thần Thiên Chúa,
tự muôn đời và chính hiện nay
luôn mãi đến thiên thu vạn đại. A-men.
THIẾU NỮ SION
Theo các nhà chú giải, Tân ước đã áp dụng cho Đức Maria nhiều tư tưởng mà các ngôn sứ dành cho “thiếu nữ Sion”. Đây là một biểu tượng của dân Israel được phục hưng, trông chờ Đấng Mêsia để tái lập giao ước tình yêu vĩnh cửu. Trong bài hôm nay, Đức Thánh Cha trình bày ý nghĩa của từ ngữ “thiếu nữ Sion”. Trong bài tới, ngài sẽ giải thích việc áp dụng vào Đức Maria.
1.- Kinh thánh thường dùng từ ngữ “thiếu nữ Sion”[1], để ám chỉ dân cư thành phố Giêrusalem, nơi mà núi Sion là địa điểm quan trọng hơn cả xét về lịch sử và tôn giáo (xc. Mk 4, 10-13; Xp 3,14-18; Gr 2,14; 9, 9-10).
Sự diễn tả một thành phố bằng hình ảnh một thiếu nữ làm cho dễ hiểu việc giải thích mối tình Thiên Chúa và Israel qua những quan hệ hôn nhân, thường được mô tả qua các hạn từ: “kẻ đính hôn” hay “hiền thê”.
Lịch sử cứu rỗi là lịch sử tình yêu về phía Thiên Chúa, nhưng thường cũng là lịch sử bất trung về phía loài người. Lời Chúa thường khiển trách dân-hiền thê đã bẻ gãy hôn ước mà Chúa đã thiết lập: “Ví như một người vợ đã bât trung với chồng mình, thì các ngươi, hỡi nhà Israel, các ngươi đã bất trung với Ta cũng thế”(Gr 3, 20); và Lời Chúa mời con cái Israel hãy tố giác bà mẹ của mình: “Hãy tố giác bà mẹ các ngươi, hãy tố cáo bà ta đi, bởi vì bà không còn là vợ của Ta nữa và Ta không còn là chồng của nó nữa!”(Hs 2,4).
Tội bất trung của Israel, “hiền thê” của Gia-vê, nằm ở chỗ nào? Tội nặng nhất ở chỗ thờ lạy tà thần ngẫu tượng: theo Sách thánh, đối với Chúa việc dân ưu tuyển đi thờ tà thần ngẫu tượng thì giống như tội ngoại tình.
2.- Ngôn sứ Hôsê là người đã khai triển, bằng những hình ảnh rất là mạnh mẽ và bi thảm, đề tài về giao ước hôn nhân giữa Thiên Chúa với dân Người và sự phản bội của họ: cuộc đời bản thân của ông trở thành biểu tượng hùng hồn của sự phản bội đó. Thực vậy, khi đứa con được sinh ra, ông ta đã nhận được lệnh như sau: “Hãy gọi nó là đứa-không-được-yêu, bởi vì Ta không còn yêu thương nhà Israel nữa, Ta không còn thương xót nó nữa”, và Chúa còn thêm: “Hãy kêu nó Không-phải-Dân-Ta bởi vì các ngươi không phải là Dân Ta và Ta không còn đoái hoài đến các ngươi nữa”(Hs 1,6.9).
Lời khiển trách của Chúa và kinh nghiệm chua chát của việc chạy theo ngẫu tượng đã làm cho người vợ bất trung phải hối hận và bà đã thốt lên: “Tôi sẽ trở về với chồng cũ, bởi vì hồi đó tôi được hạnh phúc hơn bây giờ” (Hs 2,9). Nhưng chính Thiên Chúa đã ước ao tái lập lại giao ước, và lúc ấy Lời Chúa nhắc nhớ lại lòng lân tuất và âu yếm: “vì thế này đây Ta sẽ lôi kéo nó lại, Ta sẽ mang nó vào sa mạc và thỏ thẻ vào tim nó”(Hs 2,16). Thực vậy sa mạc là nơi mà Thiên Chúa, sau khi đã giải thoát dân tộc khỏi cảnh nô lệ, đã thiết lập giao ước vĩnh viễn với Dân của mình.
Qua những hình ảnh yêu đương vừa nói, diễn tả mối quan hệ trắc trở giữa Thiên Chúa và Israel, ngôn sứ cho thấy cảnh bi đát của tội lỗi, sự bất hạnh của con đường bất trung, và những nỗ lực của tình yêu Chúa để thủ thỉ vào trái tim con người và đưa nó trở về với giao ước.
3.- Bất chấp những khó khăn trong hiện tại, Thiên Chúa, qua miệng ngôn sứ, loan báo một giao ước hoàn hảo hơn trong tương lai: “Vào ngày ấy - sấm ngôn của Chúa - ngươi sẽ kêu Ta: Chồng tôi chứ không còn gọi: Ông chủ tôi nữa... Ta sẽ đặt ngươi làm vợ của Ta mãi mãi, Ta sẽ đặt ngươi thành vợ của Ta trong công chính và luật pháp, trong tình yêu lân tuất, Ta sẽ đính ước với ngươi trong tình chung thủy và ngươi sẽ nhận biết Chúa của ngươi” (Hs 2,18.21-21).
Thiên Chúa đã không nản lòng trước những yếu đuối của con người, nhưng Người đã đáp lại những bất trung của con người bằng cách đề nghị một cuộc kết hợp bền chặt hơn: “Ta sẽ gieo hạt giống mới và Ta sẽ yêu kẻ-không-đượcyêu: và với đứa đã mang tên là Không-phải-Dân-Ta, Ta sẽ gọi nó là Dân-Ta, và nó sẽ thưa lên: Chúa của tôi” (Hs 2,25).
Viễn tượng một giao ước mới cũng được ngôn sứ Giêrêmia trình bày cho dân chúng đang bị lưu đày: “Vào ngày ấy - sấm ngôn của Chúa - Ta sẽ là Thiên Chúa của hết mọi chi tộc Israel và chúng sẽ là dân của Ta”. Đây là Lời Chúa: “Ta đã tỏ lòng ưu ái trong sa mạc đối với một dân được thoát lưỡi gươm; Israel hướng tới một nơi an cư lạc nghiệp”. Chúa đã hiện ra từ xa xa với họ: “Ta đã yêu ngươi với tình yêu muôn thuở, chính vì thế mà Ta luôn tỏ lòng thương xót ngươi. Ta sẽ tạo dựng ngươi một lần nữa và ngươi sẽ được tái dựng, hỡi người trinh nữ Israel” (Gr 31,1-4).
Bất chấp những bất trung của dân, tình yêu muôn thưở của Thiên Chúa luôn luôn sẵn sàng tái lập giao ước tình yêu và ban ơn cứu thoát vượt lên trên mọi sự mong đợi.
4.- Ngôn sứ Ezekiel và Isaia cũng nói tới hình ảnh của một người vợ bất trung được tha thứ.
Qua miệng ông Ezekiel, Chúa đã nói với người vợ như sau: “Ta sẽ nhớ tới giao ước đã ký kết với ngươi lúc thanh xuân và Ta sẽ lập với ngươi một giao ước vĩnh viễn” (Ez 16,60).
Sách Isaia đã ghi lại một sấm ngôn rất là tình tứ: “Hôn phu của ngươi là Đấng Tạo thành ngươi... Ta đã bỏ rơi ngươi trong giây lát, nhưng Ta đã lấy lại ngươi trong tình yêu vô bờ bến. Trong cơn nóng giận Ta đã ẩn mặt đi một lát: nhưng với tình yêu vĩnh viễn Ta lại thương xót ngươi, đó là Đức Chúa, Đấng cứu chuộc ngươi, nói như vậy”(Is 54,5.7-8).
Lời hứa với thiếu nữ Sion là một tình yêu mới và chung thủy, một niềm hy vọng bao la vượt xa việc bỏ rơi bà vợ bất trung: “Hãy nói với thiếu nữ Sion: này đây, Đấng cứu thoát ngươi đang tới, Người mang theo phần thưởng với mình, và thành tích đi ngay trước mặt. Người ta sẽ kêu họ là dân thánh được Thiên Chúa cứu chuộc. Ngươi sẽ được gọi là Kẻ được tìm kiếm, Thành không bị bỏ rơi” (Is 62,11-12).
Ngôn sứ xác định thêm :” Không ai còn kêu ngươi là Kẻ bị bỏ rơi, không ai gọi đất của ngươi là Đất hoang tàn, nhưng ngươi sẽ được gọi là Đấng Ta yêu dấu. và đất của ngươi được gọi là Hiền thê, bởi vì Thiên Chúa thương xót ngươi và đất của ngươi sẽ có một vị hôn phu. Thực vậy, cũng như một thanh niên kết hôn với một trinh nữ, thì ngươi cũng sẽ kết hôn với chủ tể của ngươi; cũng như hôn phu vui mừng vì hôn thê, thì Thiên Chúa của ngươi cũng vui mừng vì ngươi” (Is. 62,4-5).
Những hình ảnh và những cử chỉ âu yếm đó được sách Diễm ca đã tóm kết qua lời như sau: “Ta thuộc về người yêu của Ta và người yêu thuộc về Ta” (Dc 6,3). Và như thế, mối tương quan giữa Giavê và dân Người đã được trình bày lại một cách hết sức lý tưởng.
Khi nghe đọc những sấm ngôn của các ngôn sứ, chắc hẳn Đức Maria đã nhìn tới viễn tượng đó và đã nuôi dưỡng trong tâm hồn niềm hy vọng vào thời Mêsia.
Những lời than trách dân tộc bất trung chắc hẳn đã gợi lên trong Người sự cam kết nồng nhiệt sẽ trung thành với giao ước, mở rộng tinh thần của Người tới đề nghị thông hiệp bền bỉ với Chúa mình trong ân sủng và tình yêu. Chính qua giao ước đó mà ơn cứu rỗi đã được ban cho toàn thể thế giới.
[1] Cũng có người dịch là: “cô gái Sion” hoặc “con gái Sion”.
THIẾU NỮ SION MỚI
Từ bài hôm nay, Đức Thánh Cha bước sang phần chú giải những đoạn văn Kinh thánh Tân ước bàn về Đức Maria. Đoạn văn súc tích hơn cả là cảnh thiên sứ truyền tin (Lc 1,26-38). Chúng ta sẽ hiểu được ý nghĩa thâm thúy của những lời mở đầu của thiên sứ nếu đối chiếu với các sấm ngôn Cựu ước mời gọi thiếu nữ Sion hãy vui mừng vì Vua Mêsia đến. Đức Maria là hiện thân của “thiếu nữ Sion”, tức là dân Israel, đón tiếp tin vui mừng. Hơn thế nữa, Người đại diện cho cả nhân loại để đón nhận Thiên Chúa đến với chúng ta.
1.- Vào lúc Truyền tin, Đức Maria, “thiếu nữ Sion tuyệt vời” (xc. HT 55), đã được thiên sứ chào mừng như là đại diện nhân loại, được yêu cầu bày tỏ sự ưng thuận việc Nhập thể của Con Thiên Chúa.
Lời đầu tiên của sứ thần hướng tới Đức Maria là một lời mời gọi hoan hỉ: Khairê, có nghĩa là: hãy vui lên. Danh từ Hy lạp được dịch sang tiếng Latinh là “Ave”, một lời chào thông thường, nhưng xem ra không tương xứng hoàn toàn với dụng ý của thiên sứ và với mạch văn của cuộc hội ngộ.
Thực ra, khairê cũng là một lời chào hỏi, thường được người Hy lạp sử dụng. Tuy nhiên, hoàn cảnh khác thường cho thấy những lời này vượt quá không khí một cuộc gặp gỡ thường lệ. Thực vậy, chúng ta đừng nên quên rằng thiên sứ ý thức là mình đang mang một lời loan báo độc nhất vô nhị trong lịch sử nhân loại: vì thế mà một lời chào hỏi thông thường thì không hợp cảnh. Ngược lại, xem ra dịch khairê là “hãy vui lên” thì thích hợp hơn với hoàn cảnh đặc biệt này. Như các giáo phụ Hy lạp thường chú giải khi trích dẫn sấm ngôn của các ngôn sứ, lời mời gọi “vui lên” vốn đi kèm theo việc loan báo Đấng Mêsia đến.
2.- Trước hết, chúng ta có thể trưng dẫn ngôn sứ Sophonia. So với sấm ngôn của ông, những lời của thiên sứ lúc truyền tin cho thấy sự tương đồng đầy ý nghĩa: “Hãy vui lên, hỡi thiếu nữ Sion, hãy rộn ràng lên, hỡi Israel, hãy nhảy mừng với tất cả con tim của mình, hỡi thiếu nữ Giêrusalem!” (Xp 3,14).
Chúng ta thấy một lời mời hãy vui mừng: “Hãy nhảy mừng với tất cả con tim của mình” (14). Chúng ta thấy nói tới sự hiện diện của Thiên Chúa: ”Vua Israel là Thiên Chúa ở giữa ngươi” (15). Chúng ta thấy có lời khuyến khích đừng sợ hãi: “Này Sion, đừng sợ, đừng để tay buông xuôi” (16). Sau cùng có lời hứa Thiên Chúa sẽ can thiệp để cứu độ: “Thiên Chúa ở giữa ngươi là một Đấng Cứu Tinh quyền năng” (17). Những điểm trùng hợp vừa nhiều vừa sát nghĩa đưa chúng ta nhìn nhận nơi Đức Maria quả thực là “thiếu nữ Sion” mới, có đủ lý do để vui mừng bởi vì Thiên Chúa đã quyết định thực hiện chương trình cứu độ.
Một lời mời hãy vui mừng tương tự, tuy trong một mạch văn khác, cũng gặp thấy nơi ngôn sứ Gioel: “Đừng sợ, hỡi địa cầu, nhưng hãy vui lên bởi vì Thiên Chúa đã làm nên những việc lạ lùng... các ngươi sẽ nhận ra rằng Ta ở giữa dân tộc Israel...” (Ge 2,21.27).
3.- Ngoài ra sấm ngôn của ông Zacaria, được trưng dẫn vào lúc Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem (xc. Mt 21,5; Ga 12,15) cũng có ý nghĩa. Trong đoạn văn này, lý do của sự vui mừng là Vua Mêsia ngự đến: “Hãy vui lên, hỡi thiếu nữ Sion, hãy nhảy mừng, hỡi thiếu nữ Giêrusalem! này đây, Vua của ngươi đang đến. Người là Đấng công chính và chiến thắng, khiêm tốn, … Người sẽ loan báo bình an cho các dân tộc” (Dcr 9,9-10).
Sau cùng, sách Isaia đã bộc lên lời loan báo vui mừng cho Sion mới, trước một đàn con đông đảo, dấu chỉ của sự chúc lành của Thiên Chúa: “Hãy vui lên, hỡi người son sẻ không sinh con, hãy nhảy mừng, kẻ đã không cảm thấy đau đớn, bởi vì con cái của kẻ bị bỏ rơi thì đông hơn đàn con của phụ nữ có chồng, Chúa đã phán như vậy” (Is 54,1).
Có ba lý do trong lời mời hãy vui mừng: sự hiện diện của Thiên Chúa cứu độ giữa Dân người, Vua Mêsia đang ngự đến, và sự phong nhiêu dồi dào; cả ba động lực này được thể hiện đầy đủ nơi Đức Maria. Chúng cho thấy ý nghĩa mà truyền thống đã gán cho lời chào của sứ thần mang. Khi mời Đức Maria hãy ưng nhận việc thực hiện lời hứa về Đấng Mêsia và loan báo cho Người chức phận cao vời của Thân mẫu Thiên Chúa, những lý do ấy đương nhiên mời Người hãy vui mừng. Thực vậy, như công đồng Vatican II đã nói “với Người là thiếu nữ Sion tuyệt vời, sau khi đã chờ đợi lời hứa từ lâu năm, thì thời gian đã hoàn tất và khai trương một nhiệm cục mới, khi mà Con Thiên Chúa đã mặc lấy nơi người bản tính nhân loại, để giải thoát con người ra khỏi tội lỗi bằng những huyền nhiệm của thân xác Người” (HT 55).
4.- Trình thuật của cuộc Truyền tin cho phép chúng ta nhìn nhận nơi Đức Maria “thiếu nữ Sion” mới, được Thiên Chúa mời gọi hãy vui mừng khôn xiết. Nó nói lên vai trò phi thường của Thân mẫu Đấng Mêsia, và hơn thế nữa, vai trò của Thân mẫu Con Thiên Chúa. Đức Maria đã đón nhận sứ điệp nhân danh toàn dân Đavit; nhưng cũng có thể nói rằng Người đã đón nhận sứ điệp nhân danh toàn thể nhân loại, bởi vì Cựu ước đã mở rộng vai trò của Đấng Mêsia tới hết muôn dân (xc. Tv 2,8; 71,8). Trong ý định của Thiên Chúa, lời truyền tin cho Đức Maria nhằm tới sự cứu độ toàn thế giới.
Để xác định cho viễn tượng phổ quát của chương trình cứu rỗi, chúng ta có thể nhắc lại một vài bản văn của Cựu ước và của Tân ước, khi so sánh ơn cứu rỗi với một bữa tiệc của hết muôn dân ở trên núi Sion (Is 25,6) và loan báo bữa tiệc cánh chung ở trong nước Thiên Chúa (xc. Mt 22,1-10).
Với tư cách là “thiếu nữ Sion”, Đức Maria là Trinh nữ của giao ước được Thiên Chúa thiết lập với toàn thể nhân loại. Vai trò đại diện của Đức Maria trong hoàn cảnh này thật là rõ rệt. Và thật là việc đầy ý nghĩa khi một người phụ nữ được mời chu toàn chức vụ đó.
5.- Thực vậy, với tư cách là “thiếu nữ Sion” mới, Đức Maria là kẻ xứng hợp để ký kết một giao ước hôn nhân với Thiên Chúa. Người xứng đáng hơn hết mọi phần tử của Dân được tuyển chọn, Người đã có thể dâng hiến cho Chúa con tim của Hiền thê.
Với Đức Maria, “thiếu nữ Sion” không còn phải là một chủ thể tập đoàn nữa, nhưng là một cá nhân thay mặt cho nhânloại và, vào lúc Truyền tin, đã đáp trả cho lời đề nghị tình yêu của Thiên Chúa bằng chính tình yêu hôn thê của mình.
Như thế, Đức Maria đã tiếp đón một cách đặc biệt niềm vui mà các ngôn sứ đã loan báo, niềm vui đạt tới tột đỉnh, vào lúc chương trình của Thiên Chúa được hoàn thành.
52. Đoạn văn trong sách Khải huyền, chương 20, nói Đức Kitô sẽ cai trị 1000 năm nghĩa là gì?
Bạn sẽ rơi vào mơ hồ vô vọng với sách Khải huyền nếu bạn quên rằng đó là cuốn sách về các thị kiến và những biểu tượng kỳ bí, phức tạp. Trong lịch sử Kitô