NHỮNG NĂM THÌN CÓ LIÊN QUAN ĐẾN
LỊCH SỬ GIÁO HỘI VÀ DÒNG ĐA MINH
Con Rồng là con vật hùng mạnh và được kính trọng nhất trong số mười hai con giáp, và đứng đầu trong bộ tứ linh (long, lân, qui, phụng). Nó tượng trưng cho ước vọng và chinh phục, là con vật tượng trưng cho sự linh thiêng và mang tính thần thánh.
Với dáng vẻ to lớn, oai hùng của rồng trong thần thoại khiến tư tưởng của con người mặc sức bay bổng. Bởi vậy, dù có hư cấu hay không, phẩm chất thần kỳ của rồng chắc chắn tiềm ẩn ở những sự kiện có liên quan đến năm Thìn.
Mời bạn đọc thử xem có đúng không nhé!
Năm 44 (Giáp Thìn): Vua Herode Agrippa I băng hà, sau khi ban lệnh cấm cách các Kitô hữu và các thánh tông đồ bị tản mác.
Năm 80 (Canh Thìn): Thánh sử Mátthêu viết sách Tin Mừng.
Năm 236 (Bính Thìn): Giám mục Fabiano đắc cử ngôi giáo hoàng (236 – 250). Ngài là người cổ võ việc thiết lập nghĩa trang Công giáo.
Năm 356: Thánh Hilariô bị hoàng đế Constantin II lưu đày sang miền đông Đế quốc La mã, thuộc miền Phrygia (Tiểu Á).
Năm 380: Giáo hội đồng nhất danh xưng: Thiên Chúa chỉ có một bản thể là Bản thể Thiên Chúa (natruedivine) nhưng có ba Ngôi vị (personnes).
Năm 404: Thánh Augustin, Gm. Canterbury cùng 40 vị thừa sai Dòng Biển Đức lên đường truyền giáo cho người Saxon ở Anh quốc.
Năm 440: Đức Lêô Cả, Tsht. lên ngôi Giáo hoàng. Ngài đã nói: “Chúa đã đặt gánh nặng cho con, xin Chúa gánh với con, xin Chúa hãy là người hướng dẫn và nâng đỡ con.”
Năm 560: Thánh Isidorô,Gm Tsht, giáo phụ cuối cùng của Giáo hội Tây phương chào đời tại Cartagena (Tây Ban Nha). Ngài đã cảm nghiệm và dạy: “Ai muốn luôn luôn ở với Thiên Chúa thì phải năng cầu nguyện và năng đọc kinh thánh”. Ngài là người đã viết bộ Bách khoa Toàn thư (Encyclopédie) và đã thành công.
Cũng trong năm này, ĐGH Pelagius I di dời thi hài của thánh Philipphê tông đồ từ Hiêrapoli về Constatinople, và sau này cải táng về Rôma.
Năm 1220: Ngày 12-02, Chân phước Jordano Saxonia lãnh tu phục Dòng Đa Minh từ tay của Chân phước Reginaldo. Và đây cũng là năm Thánh Gia Thịnh (Giaxintô) gia nhập Dòng Đa Minh tại Rôma, khi đang là Kinh sĩ nhà thờ Cracôvia,.
Năm 1256: Thánh Gm. Albertô Cả, OP làm Bề trên Giám Tỉnh tỉnh dòng Đức.
Năm 1268 (Mậu Thìn): Thánh trinh nữ Agnes Montepulciano, Đan sĩ OP. Sinh tại thị trấn Graciano (Ý). Thánh nữ rất sốt sắng tôn sùng Chúa Giêsu Hài Đồng và Đức Trinh nữ Maria.
Năm 1280: Thánh Albertô Cả, OP. Gm Tsht, qua đời tại Cologne ngày 15/11.
Năm 1328: ĐGH Gioan XII tôn phong Lm. Tôma Aquinô, OP lên bậc hiển thánh vào ngày 18-07.
Năm 1340: Di dời thi hài của thánh linh mục Phêrô Vêrôna, OP vào ngày 04-06.
Năm 1376: Thánh nữ Catarina Siena thuyết phục được ĐGH Grêgôriô XI trở về Tòa thánh Rôma, và dẫn đưa nhiều thanh niên thiếu nữ thuộc mọi hoàn cảnh xã hội về con đường thánh đức và bình an.
Năm 1436: Thánh Gm. Antonio, OP. được bầu làm Bề trên tu viện thánh Marco ở Frirence (Ý).
Năm 1532: ĐGH Clêmentê VII đã cho phép Dòng Phanxicô đọc kinh thần vụ Kính Danh Cực Thánh Chúa Giêsu.
Năm 1544: Thánh Lm. Louis Betran, OP nhận lãnh tu phục Dòng Đa Minh.
Năm 1556: Lm. Antonio Ghislieri, OP. Được ĐGH Piô IV đặt làm Giám mục Nepi và Sutri. Mười năm sau (1566) Đức cha được bầu làm Giáo Hoàng, lấy danh hiệu là Piô V.
Năm 1568: Kinh Kính Mừng hình thành như ngày nay và ĐGH Piô V dạy phải đọc đầu các Giờ Kinh Nhật Tụng.
Năm 1628: Tháng 10, tại Công đồng Hội An – Đức cha Bá Đa Lộc (Pigneau de Behaine) hay còn gọi là Cha Cả, có quan niệm rộng rãi cho giáo dân Việt Nam lập bàn thờ gia tiên theo chữ hiếu.
Năm 1712: Ngày 22-05, ĐGH Clêmentê XI sắc phong ĐGH Piô V lên bậc hiển thánh. Đến ngày 27-08, cũng chính ĐGH Clêmentê XI nâng Lm. Xétlao, OP (người Ba Lan) – một trong những tu sĩ đầu tiên của Dòng Đa Minh – lên bậc Chân phước.
Năm 1748: Gm. Francisco Sorano, OP và hai linh mục Jean Jacque Joachim Roio, OP và Francisco Dia, OP tử đạo tại Trung Hoa. ĐGH Lêô XIII đã phong chân phước cho các ngài vào năm 1893 (Quý Tỵ).
Năm 1796: Thánh tử đạo Lm. Phêrô Nguyễn Văn Tự, OP chào đời tại Ninh Cường, huyện Nam Chân, tỉnh Nam Định. Với lời tuyên xưng đức tin sắt thép khi bị buộc phải chối đạo: “Thưa quan, ... tôi không vì vua mà phạm đến Thượng Phụ là Thiên Chúa được”.
Năm 1832: Thánh tử đạo thầy giảng Giuse Nguyễn Duy Khang, Dòng Ba Đa Minh, chào đời tại Cao Mại, xã Trà Vi, huyện Vũ Tiên, phủ Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Ngài trợ tá của Đức cha Hiermosila Vọng (Liêm), Gp. Đông Đàng ngoài. Thầy được phúc tử đạo lúc mới 29 xuân xanh.
Năm 1832: ĐGH Grêgôriô XVI nâng Gm. Gioan Đa Minh, OP lên hàng Chân phước.
Tại Việt Nam, Vua Minh Mạng ra Chỉ thị kê khai người Công giáo trong Đội Cấm binh của triều đình lúc bấy giờ.
Năm 1844: Đức cha Hiermosila Vọng (Liêm), OP mở lễ kính trọng thể thánh phụ Đa Minh suốt 8 ngày liền. Thánh lễ đại trào duy nhất của Đức cha, sau này trở thành tập tục “Lễ Đầu Dòng” trong giáo phận và cả Tỉnh dòng Việt Nam cho tới tận bây giờ.
Năm 1964: Lm. Carôlô Loanga và 18 người bạn tử đạo tiên khởi của châu Phi được ĐGH Phaolô VI nâng lên bậc Hiển thánh.
Ngày 20/10/1964, Tòa thánh chính thức Ban Sắc dụ cho phép Việt Nam áp dụng phụng tự gia tiên và nghi lễ dân tộc, như Trung Hoa đã được từ ngày 08-12-1939.
Năm 1988: Ngày 19-06, ĐGH Gioan Phaolô II sắc phong 117 Chân phước tử đạo Việt Nam lên bậc Hiển thánh. Nếu gọi:
- Tử châu (ngọc tím): là Giám mục.
- Huyền châu (ngọc đen): là linh mục.
- Hồng châu (ngọc đỏ): là Dòng Ba (hiện nay là Huynh đoàn giáo dân).
- Hoàng châu (ngọc vàng): là thầy giảng.
- Thanh châu (ngọc màu lam): là giáo dân.
Thì Dòng Đa Minh đã vinh phúc đóng góp 38 viên ngọc quý cho vòng triều thiên tử đạo tại Giáo hội Việt Nam, được đính kết từ 6 viên tử châu, 16 viên huyền châu (11 viên đen tuyền VN) và 16 viên hồng châu (3 viên huyền châu, 6 viên hoàng châu, và 7 viên thanh châu).
Cát Biển
(CSTMHĐGD ĐM thang 02.2012)