Am 7,12-15; Ep 1,3-14; Mc 6,7-13
Lm. Jude Siciliano, OP.
Anh Em Nhà Học Đa Minh Gò Vấp chuyển ngữ.
Thưa quý vị,
Có một nghệ thuật viết lý lịch để xin được việc hay để lên một vị trí cao hơn trong sự nghiệp. Có những quyển sách, trang web và cả những chuyên viên quý vị có thể mướn họ để giúp đánh bóng trình độ học vấn và kinh nghiệm làm việc cho quý vị. “Hãy để chúng tôi đưa bạn bước lên phía trước một cách tốt nhất” – có lẽ là một cách quảng cáo thích hợp cho những tư vấn viên, những người hứa giúp chúng ta sắp xếp lý lịch của mình. Sau cùng, những ông chủ tương lai hầu như chọn ngay khi lướt qua lá đơn xin việc và lý lịch của chúng ta.
Vậy, sao Thiên Chúa lại không kiểu cách khi Người kêu gọi một người trở thành ngôn sứ? Thiên Chúa tìm những nơi ra như bình thường để chọn những ứng viên “thích hợp” cho vai trò quan trọng, nói lời Thiên Chúa cho thính giả luôn chống đối. Chính những ngôn sứ cũng tự nhận mình chỉ là thường dân – ít là cho đến khi họ được Thiên Chúa kêu gọi.
Ngôn sứ Amốt rao giảng ở vương quốc phía bắc tại đền riêng của Vua ở Bethel. Vương quốc phía bắc đang trong thời thịnh vượng, vậy tại sao Thiên Chúa lại cần chọn và sai một sứ giả đến với họ? Vì, trong khi một số người giàu có, thì những người thiếu thốn lại bị lãng quên và các việc thực hành tôn giáo lại giản lược thành những nghi lễ rỗng tuếch – nặng tính hình thức phô trương hơn là thờ phượng chân thành.
Ngôn sứ Amốt phản đối lối sống vô độ và những thực hành tôn giáo trống rỗng. Thượng tế tại đền Bethel là Amátgia và hôm nay chúng ta nghe ông chống lại lời giảng của Amốt: “Này thầy chiêm ơi, mau chạy về đất Giuđa”. Hay nói cách khác “Hãy về phía nam và cố mà tuyên sấm ở đó, hãy rời khỏi đây!” Amátgia là thượng tế, ông có uy thế và quyền lực chính trị. Amốt có lẽ ít uy thế và không được hưởng nền giáo dục chu đáo đủ để chống lại ông ta – ít là người ta có thể nghĩ thế.
Hay Thiên Chúa đã chọn nhầm lý lịch của Amốt, vì chính vị ngôn sứ đã thú nhận: “Tôi không phải là ngôn sứ,… Tôi chỉ là người chăn nuôi súc vật và chăm sóc cây sung”. Thiên Chúa chọn một người làm vườn để đến một trung tâm tôn giáo mà rao giảng một thông điệp cải chính dân chúng, những nhà lãnh đạo tôn giáo lỗi lạc và vua của nó.
Nếu Thiên Chúa đã chọn một người gần như không chắc chắn để hoàn thành mục đích của Thiên Chúa và để nói lời của Chúa, thì chắc hẳn Thiên Chúa phải bổ túc cho họ khi họ chu toàn bổn phận của mình. Thiên Chúa phải nhúng tay làm việc, chứ tự con người không thể làm thế.
Có những ngôn sứ quyền năng trong thời đại chúng ta, những người xuất thân từ giới bình dân, nhưng rõ ràng được Thiên Chúa chọn để hoàn tất ý định của Người: Nelson Mandela, Mẹ Têrêsa, Martin Luther King,… bên cạnh đó còn có những người lãnh đạo vĩ đại của Giáo hội, các họa sỹ và chính trị gia.
Nhưng tại sao những ngôn sứ lại ít thấy xuất hiện trên hàng đầu? Hãy nhớ lại những lời ngôn sứ trong cuộc sống chúng ta: cha mẹ, ông bà, thân nhân, bạn hữu, thầy cô và thậm chí cả những kẻ hay phê phán ta, những người đã nói cho ta một lời vào giây phút quyết định và đã làm thay đổi con đường hiện tại cũng như tương lai của ta. Những con người có vẻ không được đào tạo đức tin chính thức, chẳng hạn như một đứa trẻ hay một em sinh viên. Nhưng họ mở đôi mắt ta để nhìn thấy những hời hợt trên con đường chúng ta đang đi, hay sự thờ ơ của xã hội chúng ta đối với những người thiếu thốn.
Hằng ngày những người này, như ngôn sứ Amốt và rất nhiều ngôn sứ khác, nhắc nhớ chúng ta rằng Thiên Chúa thường kêu gọi những con người bình thường để nói lên lời thách đố và lời ân sủng. Đừng quên liệt chúng ta vào danh sách những “người bình thường” – người ta được kêu gọi để nói và hành động như sứ giả của Thiên Chúa trong thế giới này. E rằng chúng ta không nằm trong số những công việc mà Amốt mô tả về chính ông “Đức Chúa đã bắt lấy tôi…và đã truyền cho tôi : ‘Hãy đi tuyên sấm cho Ít-ra-en dân Ta”. Thiên Chúa chọn những người như chúng ta để mà hoàn thành những công việc đặc biệt. Mỗi người trong chúng ta qua bí tích Rửa Tội, đã được mời gọi ttrở thành một ngôn sứ.
Bài trích thư Êphêsô hôm nay cũng là một bản văn tương tự thế. Không phải Thiên Chúa đã mặc định cho chúng ta từ thuở đời đời, và chẳng cho chúng ta quyền chọn lựa nào. Nhưng chúng ta được Thiên Chúa mời gọi để biết Đức Giêsu Kitô và mầu nhiệm cứu độ sẵn đó cho chúng ta qua Người. Thánh Phaolô nói rằng, chúng ta được chọn để sống thánh thiện và cảm nghiệm sự tròn đầy của tình yêu mà Thiên Chúa ban cho chúng ta qua Đức Kitô. Biết được ân sủng Thiên Chúa ban cho chúng ta và mời gọi chúng ta đón nhận ân sủng ấy cũng như biểu hiện ra trong cuộc sống qua lời nói và việc làm – hay nói cách khác là trở nên ngôn sứ nói lời Thiên Chúa cho mọi người.
Trong bài Tin mừng tuần trước, thánh Maccô nói về việc Đức Giêsu bị khước từ ở quê hương của mình. Đáp lại sự chống đối của họ, Đức Giêsu nói: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi”. Còn tuần này Đức Giêsu sai Nhóm Mười Hai đi thi hành những hành động và nói lời ngôn sứ.
Bài Tin mừng hôm nay là đoạn tiếp theo của bài Tin mừng tuần trước. Thánh Máccô nhấn mạnh rằng: như Đức Giêsu đã bị khước từ, thì cũng vậy, những người được sai đi nhân danh Người cũng sẽ bị đối xử như vậy. Đức Giêsu muốn rằng, nếu bị từ chối, họ nên “…ra khỏi đó, hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ”. Nói cách khác, chúng ta không nên ngạc nhiên khi lời nói và hành động nhân danh Đức Giêsu và bị khước từ - Đức Giêsu biết điều đó sẽ xảy ra.
Việc sai các môn đệ đi không kết thúc ở việc Người sai Nhóm Mười Hai ra đi, hay ở cuối mỗi sách Tin mừng. Chúng ta cũng được mời gọi để tiến đến vương quốc của Thiên Chúa, để nói và hành động trong Thánh Thần của Đức Giêsu. Lời Đức Giêsu đề nghị các Tông đồ ra đi “không được mang gì đi đường, chỉ trừ cây gậy ; không được mang lương thực, bao bị, tiền đồng để giắt lưng”, chắc chắn loại tôi khỏi bức tranh ấy – vì tôi gói gém lương thực và tờ báo để lên máy bay có cái mà đọc và mà ăn, cũng như tôi nhét chật vali với nào là sách vở, vớ tất, áo khoác, …. Nhưng tôi nghĩ tôi hiểu phần nào lời yêu cầu của Người.
Tôi băn khoan vì vẫn còn quá nhiều vật sở hữu và cái laptop mới nhất khiến tôi không tập trung vào sứ vụ khi được sai đi vào thế gian thì sao? Làm thế nào tôi kể câu chuyện của Đức Giêsu cho thế giới bằng chính lời nói và gương mẫu của tôi? Tôi phải bỏ lại những gì, hay phải thay đổi gì trong cuộc sống hằng ngày, để tôi có thể làm chứng cách hữu hiệu hơn cho Đức Giêsu? Hay cụ thể hơn, liệu cách sống của tôi có mâu thuẫn với danh xưng “Kitô hữu” của tôi hay không?
Đó là những câ hỏi riêng tư, nhưng cò có những câu hỏi quen thuộc hơn mà người ta cần nghĩ đến. Còn đó đầy dẫy những “ma quỷ” chúng ta cần trục xuất ra khỏi xã hội của chúng ta. Hãy nghĩ về sự nghiện ngập, tiền tài, tình dục, ma túy, chủ nghĩa duy vật, buôn lâu, tàn phá môi trường,… những thứ ám ảnh và cám dỗ chúng ta mỗi ngày. Chúng ta nói mình đang chống lại chúng, nhưng chính phủ đã cắt giảm trợ cấp cho người nghèo, người bệnh, nghiện ngập, cắt giảm chi phí dành cho giáo dục và các hoạt động bảo vệ môi trường.
Lịch sử Giáo hội cho thấy rằng Giáo hội cũng không loại trừ bị “cám dỗ” – tham lam, lạm dụng tính dục, lạm quyền, đồng minh với các chính quyền hủ bại, đàn áp các nhà trí thức, bỏ quên người nghèo,…
Đức Giêsu sai chúng ta đi như những ngôn sứ, kêu gọi thế giới hoán cải; thế giới mà chúng ta đang hiện cư ngụ hay thế giới rộng hơn mà chúng ta là một phần trong đó. Người muốn chúng ta thay đổi lối hành xử của mình cũng như xua đuổi những thứ ma quỷ có thể hủy hoại hay cản trở chúng ta sống như một con người. Hôm nay chúng ta cùng quy tụ nơi đây để được nuôi dưỡng bằng Lời và Thánh Thể để chúng ta có thể lên đường cách mạnh mẽ làm ngôn sứ cho thế giới như Đức Giêsu đã tin tưởng nơi chúng ta.
Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Bài đọc: Amo 7:12-15; Eph 1:2-14; Mk 6:7-13.
Con người thiển cận thường cho tất cả những gì mình có được là do sức cố gắng và tài năng của mình; nhưng nếu họ chịu suy nghĩ và có cái nhìn bao quát hơn, họ sẽ nhận ra tất cả đều là hồng ân của Thiên Chúa. Khi con người nhìn ra điều đó, con người sẽ biết ơn Thiên Chúa, và sẽ cố gắng làm mọi cách để rao truyền tình yêu của Thiên Chúa, để mọi người đều tin Ngài.
Các Bài Đọc hôm nay giúp con người nhận ra tất cả những gì họ sở hữu đều là hồng ân của Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, khi bị Amaziah ngăn cản và không cho nói tiên tri tại vương quốc Israel, Amos đã thẳng thắn trả lời: Ông không lựa chọn để trở thành ngôn sứ; nhưng Thiên Chúa đã chọn và sai ông đi để nói những gì Ngài muốn nói. Trong Bài Đọc II, tác giả Thư Ephesô nêu lên tất cả những hồng ân mà Thiên Chúa đã ban cho con người qua Đức Giêsu Kitô. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu lựa chọn Nhóm Mười Hai để huấn luyện, ban quyền, và sai các ông đi để rao giảng Tin Mừng và chữa lành mọi vết thương hồn xác.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thiên Chúa chọn lựa ông Amos và sai đi tuyên sấm.
1.1/ Phản ứng của Amaziah: Tiên-tri Amos sinh ở Tekoa, một làng thuộc vương quốc Judah ở miền Nam; nhưng Thiên Chúa lại sai ông đi thi hành sứ vụ tiên tri tại vương quốc Israel, miền Bắc. Ông sống trong một giai đoạn rất khó khăn của lịch sử Israel (721 BC), vì dân chúng quay lưng lại với Thiên Chúa, để chạy theo các thần ngoại bang; thêm vào đó, các vua quan toa rập nhau để ức hiếp dân nghèo, và tiếng kêu cứu của họ đã vang lên tới Thiên Chúa. Amos không sợ bất cứ một thế lực nào của vua quan, ông can đảm tố cáo những điều họ đã xúc phạm tới Ngài, và tuyên sấm mất nước và lưu đày sẽ xảy ra nếu họ không biết ăn năn trở lại. Đó là lý do tại sao Amaziah khinh thường và xua đuổi ông Amos trong trình thuật hôm nay: "Này thầy ngôn sứ ơi, mau chạy về đất Judah, về đó mà kiếm ăn, về đó mà tuyên sấm! Nhưng ở Bethel này, đừng có hòng nói tiên tri nữa, vì đây là thánh điện của quân vương, đây là đền thờ của vương triều."
1.2/ Phản ứng của Amos: Ông Amos trả lời ông Amaziah: "Tôi không phải là ngôn sứ, cũng chẳng phải là người thuộc nhóm ngôn sứ. Tôi chỉ là người chăn nuôi súc vật và chăm sóc cây sung. Chính Đức Chúa đã bắt lấy tôi khi tôi đi theo sau đàn vật, và Đức Chúa đã truyền cho tôi: "Hãy đi tuyên sấm cho Israel dân Ta."" Hai điều nổi bật Amos muốn đề cập tới ở đây:
(1) Ông được Thiên Chúa bắt đi khi ông đang làm việc, chứ chính ông không tình nguyện để đi tuyên sấm.
(2) Ông không lợi dụng danh nghĩa ngôn sứ để kiếm lợi nhuận vật chất như Amaziah buộc tội, vì ông đang có việc làm để sinh sống.
2/ Bài đọc II: Trong Đức Kitô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ.
2.1/ Nhận ra hồng ân của Thiên Chúa: Trong phần đầu của trình thuật hôm nay, thánh Phaolô muốn các tín hữu Ephesô nhận ra tất cả những ơn lành Thiên Chúa đã ban cho họ qua Đức Kitô: "Trong Đức Kitô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan Người, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người. Theo ý muốn và lòng nhân ái của Người, Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức Giêsu Kitô, để ta hằng ngợi khen ân sủng rạng ngời, ân sủng Người ban tặng cho ta trong Thánh Tử yêu dấu." Đây là một đoạn văn chứa nhiều tư tưởng mặc khải, chúng ta cần suy tư từng chi tiết để hiểu những gì Thiên Chúa đã làm cho con người:
(1) Cho chúng ta có mặt trong cuộc đời: "Trong Đức Kitô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ." Thánh Gioan nói rõ hơn: "Tất cả đều nhờ Người mà được tạo thành; không có Người, chẳng có chi được tạo thành" (Jn 1:3).
(2) Cho chúng ta biết Đức Kitô: Thiên Chúa quan phòng cho con người được gặp gỡ Đức Kitô, cách trực tiếp khi Ngài xuống trần hay cách thiêng liêng qua việc rao giảng Tin Mừng; không những thế, Ngài còn gởi Thánh Thần vào tâm hồn con người để soi sáng cho con người hiểu những gì Đức Kitô nói và thúc đẩy con người tin vào Đức Kitô. Thánh Phaolô xác quyết: "Không ai có thể tin Đức Kitô nếu không do Thánh Thần của Thiên Chúa tác động" (I Cor 12:3).
(3) Cho chúng ta trở thành nghĩa tử nhờ niềm tin vào Đức Kitô: "Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa" (Jn 1:12).
(4) Cho chúng ta nhận ra hồng ân và ngợi khen Thiên Chúa: "Để ta hằng ngợi khen ân sủng rạng ngời, ân sủng Người ban tặng cho ta trong Thánh Tử yêu dấu."
(5) Cho chúng ta trở nên tinh tuyền thánh thiện: Với sự rửa sạch của Đức Kitô và sự thánh hóa của Chúa Thánh Thần, con người có thể trở nên tinh tuyền thánh thiện, xứng đáng là những nghĩa tử của Thiên Chúa, những môn đệ giống như Đức Kitô.
(6) Cho chúng ta sạch khỏi mọi tội lỗi: "Trong Thánh Tử, nhờ máu Thánh Tử đổ ra chúng ta được cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi theo lượng ân sủng rất phong phú của Người."
(7) Cho chúng ta thấu hiểu sự khôn ngoan của Thiên Chúa: "Ân sủng này, Thiên Chúa đã rộng ban cho ta cùng với tất cả sự khôn ngoan thông hiểu." Nếu con người chịu học hỏi Kinh Thánh, họ sẽ không thiếu bất kỳ sự khôn ngoan nào cần thiết cho cuộc đời.
(8) Cho chúng ta thấu hiểu Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa được thực hiện qua Đức Kitô: "Người cho ta được biết thiên ý nhiệm mầu: thiên ý này là kế hoạch yêu thương Người đã định từ trước trong Đức Kitô. Đó là đưa thời gian tới hồi viên mãn là quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Kitô."
Hiểu như thế, tất cả những gì chúng ta có được, đều là hồng ân của Thiên Chúa. Chúng ta không được kiêu hãnh coi những điều tốt lành chúng ta đang sở hữu là của mình, nhưng phải biết sấp mình xuống và cám ơn tình yêu bao la Thiên Chúa đã dành cho chúng ta.
2.2/ Ơn gọi làm ngôn sứ để rao giảng Tin Mừng: Sau khi đã nhận ra tình yêu Thiên Chúa, con người có bổn phận loan truyền tình yêu này cho mọi người. Phaolô không những ý thức được ơn gọi rao giảng Tin Mừng mà Đức Kitô đã trao cho ông, nhưng còn là của mọi tín hữu.
(1) Của Phaolô: "Cũng trong Đức Kitô, Thiên Chúa là Đấng làm nên mọi sự theo quyết định và ý muốn của Người, đã tiền định cho chúng tôi đây làm cơ nghiệp riêng theo kế hoạch của Người, để chúng tôi là những người đầu tiên đặt hy vọng vào Đức Kitô, chúng tôi ngợi khen vinh quang Người." Khi Phaolô đã thấu hiểu những điều Thiên Chúa đã làm cho ông qua Đức Kitô, ông dùng cả cuộc đời để ngợi khen Thiên Chúa. Ngay cả việc sai Phaolô đi để rao giảng Tin Mừng cũng bắt nguồn từ Đức Kitô. Ngài sai ông đi để rao giảng Tin Mừng, làm cho mọi người hiểu biết và tin vào Đức Kitô để nhận được những hông ân Thiên Chúa ban qua Đức Kitô.
(2) Của mọi tín hữu: "Trong Đức Kitô, cả anh em nữa anh em đã được nghe lời chân lý là Tin Mừng cứu độ anh em; vẫn trong Đức Kitô, một khi đã tin, anh em được đóng ấn Thánh Thần, Đấng Thiên Chúa đã hứa. Thánh Thần là bảo chứng phần gia nghiệp của chúng ta, chờ ngày dân riêng của Thiên Chúa được cứu chuộc, để ngợi khen vinh quang Thiên Chúa." Các tín hữu sau khi đã chịu Phép Rửa cũng có bổn phận phải ra đi rao giảng Tin Mừng, làm cho mọi người nhận biết và tin vào Đức Kitô.
3/ Phúc Âm: Chúa Giêsu gọi Nhóm Mười Hai lại và bắt đầu sai đi từng hai người một.
3.1/ Chúa Giêsu sai các Tông-đồ đi rao giảng Tin Mừng: "Người gọi Nhóm Mười Hai lại và bắt đầu sai đi từng hai người một. Người ban cho các ông quyền trừ quỷ. Người chỉ thị cho các ông không được mang gì đi đường, chỉ trừ cây gậy; không được mang lương thực, bao bị, tiền đồng để giắt lưng; được đi dép, nhưng không được mặc hai áo." Hai tư tưởng nổi bật trong đoạn văn này:
(1) Chúa Giêsu gọi, dạy dỗ, ban quyền, và sai các tông-đồ đi rao giảng Tin Mừng, chứ các ông không tình nguyện theo Ngài trước. Khi các môn đệ rao giảng, các ông rao giảng Tin Mừng các ông đã nghe được nơi Đức Kitô, chứ không phải những gì của các ông. Sức mạnh chữa lành và sự khôn ngoan đến từ Thiên Chúa, chứ không phải đến từ các ông.
(2) Rao giảng Tin Mừng là bổn phận chính yếu các môn đệ phải thi hành, chứ không phải là bất kỳ bổn phận nào khác. Để chu toàn bổn phận này, Chúa Giêsu biết người môn đệ phải sống một cuộc đời đơn giản: càng ít lệ thuộc vào vật chất bao nhiêu càng tốt; vì Ngài biết khi người môn đệ bắt đầu lệ thuộc quá nhiều vào vật chất, người môn đệ sẽ xao lãng bổn phận rao giảng Tin Mừng
3.2/ Ơn gọi rao giảng Tin Mừng: Hai điều quan trọng các môn đệ cần biết khi rao giảng:
(1) Khán giả có thể tiếp nhận hay từ chối các sứ giả loan báo Tin Mừng: Chúa Giêsu báo trước cho các môn đệ chuẩn bị điều này, khi Người dặn các ông: "Bất cứ ở đâu, khi anh em đã vào nhà nào, thì cứ ở lại đó cho đến lúc ra đi. Còn nơi nào người ta không đón tiếp và nghe lời anh em, thì khi ra khỏi đó, hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ."
Con người được Thiên Chúa ban cho có tự do để nhận ra và tin vào sự thật, Ngài không ép buộc con người phải tin những gì họ không muốn. Các môn đệ cũng thế, họ không thể ép buộc khán giả tin những gì họ không muốn tin. Điều các môn đệ có thể làm được là trình bày sự thật và những lợi ích do việc sống theo sự thật mang lại, với hy vọng con người sẽ nhận ra và tin theo. Nếu họ từ chối không chấp nhận sự thật, các môn đệ cũng đừng buồn, vì có nhiều lý do khiến con người từ chối chấp nhận sự thật, như đã từng xảy ra với khán giả của Chúa Giêsu.
(2) Mục tiêu của việc rao giảng là "kêu gọi người ta ăn năn sám hối." Khi người môn đệ rao giảng Tin Mừng, người môn đệ phải giúp khán giả nhận ra tình yêu Thiên Chúa và những lầm lỗi của họ đã quay lưng lại với tình yêu này, để họ ăn năn trở lại với tình thương Thiên Chúa; chứ không phải là lúc giải trí, làm cho con người thư giãn sau những giờ phút làm ăn mệt nhọc, cũng không phải là lúc để người môn đệ quảng cáo sự khôn ngoan hiểu rộng của mình.
Các quyền trừ được nhiều quỷ, xức dầu cho nhiều người đau ốm, và chữa họ khỏi bệnh là từ Đức Kitô ban cho các môn đệ để khán giả tin vào những lời các ông rao giảng. Hiểu như thế, các việc này chỉ là phương tiện; chứ không bao giờ có thể thay thế việc rao giảng Tin Mừng.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Tất cả những gì chúng ta đang có được là do bởi tình yêu Thiên Chúa. Chúng ta đừng bao giờ kiêu hãnh để khinh thường người khác; nhưng phải biết cảm tạ Thiên Chúa, sống cuộc đời tốt lành thánh thiện, và biết loan truyền Tin Mừng đến mọi người.
- Rao giảng Tin Mừng là bổn phận quan trọng hàng đầu Đức Kitô trao cho chúng ta là những môn đệ của Ngài. Khi rao giảng Tin Mừng chúng ta loan báo những gì Ngài dạy dỗ chúng ta, và làm sao để muôn dân tin yêu Ngài.