Bài đọc: Gr 23,1-6; Ep 2,13-18; Mc 6,30-34
Lm. Jude Siciliano, O.P.
(Anh Em Nhà Học Đa Minh Gò Vấp chuyển ngữ.)
Thưa quý vị,
Mới đây tôi nói với một người bạn rằng tôi có thể đi đâu đó vài ngày để tĩnh tâm. Bạn tôi là người đã có gia đình với ba đứa con, nói rằng: “tôi có thể đánh đổi tất cả mọi sự chỉ để được vài ngày trong thanh vắng!” Anh đã khiêm tốn nhắc tôi nhớ về những ưu mà tôi có trong một vài khía cạnh của đời sống mình. Điều đó cũng còn cho thấy đối với hầu hết mọi người cuộc sống hiện đại tất bật và cuồng nhiệt làm sao.
Cách đây vài tuần tôi có nghe trên rađiô một buổi phỏng tác giả quyển sách viết về việc làm thế nào để tạo ra những khoảng không mang tính nhân bản hơn và yên lặng hơn trong đời sống của chúng ta. Ông ấy nói, vợ của ông và hai con nhỏ cũng giống như hầu hết các gia đình ở Mỹ, lúc nào cũng “lo lắng, bận rộn”. Thậm chí khi cả gia đình cùng sum họp trong một căn phòng, thì vẫn có người đánh máy hoặc ra khỏi phòng để nghe và gọi điện thoại. Người cha nói: “chúng ta ở cùng nhau, nhưng chỉ hiện diện về mặt thể lý, chứ không phải như một gia đình. Chúng ta bị sao nhãng vì những thiết bị công nghệ, chúng giúp chúng ta giữ liên lạc với thế giới bên ngoài, nhưng lại khiến chúng ta không còn gắn bó với nhau nữa”.
Vì thế, ông và vợ quyết định tắt wifi trong nhà vào dịp cuối tuần. Thêm nữa, mỗi người trong nhà sẽ cất điện thoại di động vào tủ cho đến tối Chúa Nhật. Họ chỉ dùng điện thoại bàn để nhận những cuộc gọi quan trọng, nhưng không ai được phép dùng di động. Họ cũng không xem truyền hình. Lúc đầu họ không biết phải làm gì vì đã bị “ngắt” kết mọi nối. Nhưng không lâu sau họ bắt đầu biết kết nối với nhau. Họ nói với nhau nhiều hơn, cùng đi bộ với nhau, im lặng đọc sách trong cùng một căn phòng và, người cha cho biết: “chúng tôi quen với bầu khí yên lặng và thậm chí còn thích nó nữa!”
Tôi không biết có bao nhiêu gia đình dám thực hiện những bước đi quyết liệt như thế. Nhưng như anh bạn kia của tôi nói về niềm khát khao được sống thinh lặng, thì có vẻ như chúng ta cũng hiểu được phần nào lý do Đức Giêsu khuyến khích các môn đệ của mình: “Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”.
Điều khiến tôi thích thú trong câu truyện hôm nay là nó giúp chúng ta tránh huyễn hoặc về hoàn cảnh của Đức Giêsu và các môn đệ của Người. Hãy nhớ lại bài Tin mừng tuần trước, khi nào thì Đức Giêsu sai các môn đệ đi thi hành sứ vụ? Máccô cho ta biết, “Các ông trừ được nhiều quỷ, xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh” (6,13). “Nhiều”. Có vẻ như một công việc hết sức vất vả, nên chẳng lạ gì Đức Giêsu muốn họ lánh ra một chỗ và nghỉ ngơi!
Đức Giêsu và các môn đệ đã mệt rã rời cũng chẳng được nghỉ. Dân chúng tuyệt vọng, họ đến nơi trước và chờ Đức Giêsu cũng như các môn đệ của Người tới. (Tin mừng Máccô là một chuỗi những cảnh tượng vội vàng, bận rộn nối tiếp nhau). Đức Giêsu thấy họ thiếu thốn và chăm sóc họ như người mục tử, vì “họ như bầy chiên không người chăn dắt”.
Người mục tử là hình ảnh lặp đi lặp lại trong cả Tân Ước và Cựu Ước. Trong sách thánh bản Hippri, mục tử và vua có liên quan đến nhau. Israel khao khát mong chờ một vì vua mục tử như Đavít – nhưng họ luôn thất vọng. Giêrêmia phê phán Vua Giêđêkia và các vua khác giống như thế. “Khốn thay các mục tử…” Họ đáng lẽ ra phải quy tụ và dẫn dắt dân của Chúa, thì chính sự thờ ơ của họ làm cho đàn chiên phải thất lạc và tan tác. Hậu quả của sự lãnh đạo kém cỏi và sai lạc quả là khủng khiếp: Giêrusalem bị tàn phá và dân phải đi lưu đày.
Giêrêmia đưa ra lời hứa. Đức Chúa sẽ quy tụ đàn chiên và chăn dắt chúng. Đức Chúa sẽ giải cứu họ bằng cách gửi đến một người lãnh đạo công chính có tâm trí của Chúa. Những người đọc Tin mừng Máccô, nhất là bài đọc hôm nay, sẽ nhận ra một lần nữa rằng Thiên Chúa hoàn tất lời mà Ngài đã hứa với dân. Có nhiều việc phải làm – xưa cũng vậy và nay cũng thế. Đức Giêsu muốn nghỉ ngơi để tiếp tục sứ vụ, nhưng thực tế của cuộc sống lại không buông tha các ngài. Vì thế, các ngài chẳng có giờ mà nghỉ ngơi, suy nghĩ về sứ vụ của mình và những chỉ dẫn khác từ Đức Giêsu.
Nhưng tôi nghĩ, điều này vẫn đúng, tất cả chúng ta tìm cách làm thế nào để đi vào “sa mạc” của chính mình. Có thể là vài phút lặng lẽ trong xe hơi trước khi bước vào công sở; vài giây lặng lẽ trong sân mỗi khi ta đi bỏ rác vào buổi tối; khi đi bộ trong công viên; tắt truyền hình và ngồi lặng lẽ một chút; lắng nghe bản nhạc nào có thể giúp ta đi vào trong khoảnh khắc này,… Không phải tất cả những cố gắng đi vào nơi thanh vắng của Đức Giêsu đều thất bại, như chúng ta đọc thấy trong 1,35.45
Giêrêmia hứa một vị vua giống như Đavít sẽ “trị vì cách khôn ngoan”, người sẽ “thi hành điều chính trực công minh trong xứ sở”. Với Phép Rửa, mỗi chúng ta cũng được mời gọi tiếp tục sứ vụ mục tử của Đức Giêsu – và nhiệm vụ đó sẽ rất khó khăn! Chúng ta thực thi điều đó mỗi ngày, bằng những cách thế thông thường trong việc dạy dỗ và làm gương cho con cháu. Quý vị có để ý Đức Giêsu Mục Tử đã làm gì ngay khi các ngài bước lên bờ và thấy đám đông đói khổ hay không? Người dạy dỗ họ.
Chúng ta không muốn con em mình có ý niệm sai lầm về Thiên Chúa, hay quan niệm chẳng ra gì trước mặt Chúa. Vì thế chúng ta phải dạy chúng. Nhưng chúng ta cũng cần thời gian suy gẫm để sống với Lời Chúa, để lời dạy của chúng ta không chỉ theo những suy nghĩ của mình cho bằng nói về chính Đức Giêsu Mục Tử.
Một số trong chúng ta tham gia một phần hay hoàn toàn vào trong cộng đồng giáo xứ của chúng ta. Những gì nói đến trên đây đúng cho tất cả chúng ta; chúng ta cần tìm cách để “chính anh em hãy lánh riêng ra” một lát hay một khoảng thời gian lâu hơn một chút, để nghe Lời Chúa muốn nói với mình, cũng như cho những người chúng ta được mời gọi để dẫn dắt bằng lời dạy của chúng ta. Với dòng cuối cùng: tất cả chúng ta đều được sai đi để chia sẻ những hiểu biết của mình về Đức Giêsu, những hiểu biết không phải chủ yếu tìm được trong sách hay giáo lý, nhưng là những kinh nghiệm cá nhân của chúng ta với Đức Giêsu.
Trong Thánh Lễ này, chúng ta cũng như đàn chiên tan tác. Đức Giêsu, vị mục tử, quy tụ chúng ta từ khắp mọi nơi chúng ta sinh sống, làm việc mỗi ngày. Điều chúng ta cùng chia sẻ với nhau và kéo chúng ta về đồng cỏ này chính là đức tin, chúng ta được vị mục tử của mình chăm sóc chu đáo, được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa và Mình Máu hằng sống của Đức Giêsu.
Vị Mục Tử thực hiện lại những gì xưa kia Người đã làm: Người sai chúng ta đi sau khi đã cho ăn no nê để quay lại chính những nơi chúng ta được mời gọi trở thành mục tử. Chúng ta không lên đường một mình, nhưng được tiếp đầy sinh lực của Thánh Thần – cùng một Thần Khí đã đưa Đức Giêsu vào hoang địa trong đọan đầu của Tin mừng này (1,12-13), giúp Người chống trả cám dỗ và không bao giờ bỏ rơi Người khi Người đi ra chăn dắt đoàn dân đang ngóng chờ của Thiên Chúa.
Hy vọng trong thất vọng
Trong cuộc đời, có những lúc con người cảm thấy lo âu, sợ hãi, chán nản đến tuyệt vọng, vì phải đương đầu với quá nhiều vấn đề: căng thẳng, chia rẽ, hận thù, bất an ... Thiên Chúa muốn con người phải tuyệt đối tin tưởng và hy vọng nơi Ngài, và Đức Kitô là nguồn hy vọng của mọi người, là giải pháp của mọi vấn nạn của cuộc đời.
Các Bài Đọc hôm nay dẫn chứng sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa: chỗ nào có lo âu, thất vọng, chỗ đó có hy vọng và giải quyết tuyệt vời của Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, tiên tri Jeremiah tường thuật nguy hiểm của các chủ chăn vô trách nhiệm làm chiên lạc bầy và niềm hy vọng có được Người Mục Tử Nhân Lành sẽ đến chăm sóc và quy tụ chiên về. Trong Bài Đọc II, tác giả Thư Ephesô tường thuật sự thù địch giữa con người với Thiên Chúa, giữa Do-thái và Dân Ngoại; và niềm hy vọng Thánh Giá sẽ hòa giải những mối xa cách thù địch này. Trong Phúc Âm, các tông đồ làm việc quá tải mà vẫn không đáp ứng nổi nhu cầu săn sóc đoàn chiên. Chúa Giêsu bảo các ông hãy lui vào trong nghỉ ngơi để chính Ngài dạy dỗ và săn sóc dân chúng.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Chính Ta sẽ quy tụ đoàn chiên Ta còn sót lại từ khắp mọi miền.
1.1/ Nguy hiểm của các mục tử không làm tròn bổn phận: Xưa cũng như nay, chúng ta luôn có những mục tử không làm tròn bổn phận của mình như tiên tri Jeremiah cảnh cáo: "Khốn thay những mục tử làm cho đoàn chiên Ta chăn dắt phải thất lạc và tan tác - sấm ngôn của Đức Chúa - Vì thế, Đức Chúa, Thiên Chúa Israel, phán như sau để lên án các mục tử, những người chăn dắt dân Ta: chính các ngươi đã làm cho đoàn chiên của Ta phải tan tác; các ngươi đã xua đuổi và chẳng lưu tâm gì đến chúng. Này Ta sẽ để ý đến các hành vi gian ác của các ngươi mà trừng phạt các ngươi - sấm ngôn của Đức Chúa."
Những dấu hiệu cho thấy người chăn chiên không chu toàn nhiệm vụ người mục tử:
- không chịu lưu tâm chăm sóc chiên: Họ không dạy dỗ cho chiên của mình biết về Thiên Chúa và các Lề Luật của Ngài. Họ không làm gương sáng cho chiên noi theo; ngược lại còn làm gương mù. Họ không quan tâm đến các nhu cầu phần hồn cũng như phần xác của chiên.
- không yêu thương chiên cách vô vị lợi: Họ chỉ quan tâm đến lông chiên và thịt chiên của những con béo tốt, những con chiên có thể làm lợi cho họ mà thôi (Eze 34:7).
- không bảo vệ chiên khỏi những nguy hiểm: Họ xua đuổi chiên đi cách trực tiếp hay gián tiếp, hay làm chiên lạc bầy bằng những học thuyết sai lạc hay lối sống vô luân.
1.2/ Hy vọng: Những dấu hiệu của người Mục Tử Nhân Lành:
- chăm sóc chiên cẩn thận: Họ dạy dỗ chiên biết kính sợ Thiên Chúa và tuân hành các Lề Luật của Ngài.
- yêu mến và lo lắng cho chiên: Họ băng bó chiên bị thương, vỗ béo chiên gầy còm, đi tìm con chiên lạc và quy tụ tất cả chiên lạc về một đàn.
- bảo vệ chiên và sẵn sàng hy sinh tính mạng vì chiên: Họ bảo vệ chiên khỏi thú dữ giết hại, khỏi tay của những phường trộm cướp, khỏi những vùng nguy hiểm đe dọa tính mạng chiên.
Hai cách Thiên Chúa có thể làm để chăm sóc chiên:
(1) Hoặc Chính Chúa Thượng sẽ chăn dắt chiên như lời sấm của Jeremiah: "Chính Ta sẽ quy tụ đoàn chiên Ta còn sót lại từ khắp mọi miền Ta đã xua chúng đến. Ta sẽ đưa chúng về đồng cỏ của chúng; chúng sẽ sinh sôi nảy nở thật nhiều. Này, sẽ tới những ngày - sấm ngôn của Đức Chúa - Ta sẽ làm nẩy sinh cho nhà David một chồi non chính trực. Vị vua lên ngôi trị vì sẽ là người khôn ngoan tài giỏi trong xứ sở, vua sẽ thi hành điều chính trực công minh. Thời bấy giờ, Judah sẽ được cứu thoát, Israel được sống yên hàn. Danh hiệu người ta tặng vua ấy sẽ là: "Đức Chúa, sự công chính của chúng ta."" Thánh sử Gioan đồng nhất vị Mục Tử này với Đức Kitô (Jn 10).
(2) Hoặc Chúa sẽ huấn luyện và gởi tới các mục tử tốt lành: "Ta sẽ cho xuất hiện các mục tử để lãnh đạo chúng; họ sẽ chăn dắt chúng. Chúng sẽ không còn phải hãi hùng, kinh khiếp và bị bỏ rơi nữa. Sấm ngôn của Đức Chúa."
2/ Bài đọc II: Người đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét.
Hận thù xa cách xảy ra là do sự không hiểu biết, ghen ghét, thiếu cảm thông, hay tính kiêu hãnh coi mình hay giòng giống mình trổi vượt hơn người khác. Thánh Phaolô nêu lên hai mối hận thù xa cách chính:
2.1/ Giữa con người với Thiên Chúa: "Trước kia anh em là những người ở xa, nhưng nay, trong Đức Giêsu Kitô, nhờ máu Đức Kitô đổ ra, anh em đã trở nên những người ở gần." Khi con người phạm tội, họ xa cách Thiên Chúa, và không xứng đáng làm con cái của Ngài. Nhưng nhờ máu của Đức Kitô, Con Thiên Chúa, đổ ra, con người được sạch mọi tội lỗi và giao hòa với Thiên Chúa. Nhờ vậy, họ lại được hưởng quyền làm con cái Thiên Chúa.
2.2/ Giữa Do-thái và Dân Ngoại: Khi con người được hòa giải với Thiên Chúa, họ cũng được đòi phải hòa giải với nhau, như lời thánh Phaolô: "Nhờ thập giá, Người đã làm cho đôi bên được hoà giải với Thiên Chúa trong một thân thể duy nhất; trên Thập Giá, Người đã tiêu diệt sự thù ghét." Có tác giả giúp chúng ta nhớ tư tưởng này bằng cách cắt nghĩa Thập Giá gồm 2 mảnh: mảnh đứng tượng trưng cho sự hòa giải giữa con người với Thiên Chúa, mảnh ngang tượng trưng cho sự hòa giải giữa con người với nhau.
Thánh Phaolô cắt nghĩa tiến trình hòa giải giữa Do-thái và Dân Ngoại như sau: "Người đã huỷ bỏ Luật cũ gồm các điều răn và giới luật. Như vậy, khi thiết lập hoà bình, Người đã tác tạo đôi bên thành một người mới duy nhất nơi chính bản thân Người." Trước khi Đức Kitô đến, có một sự phân cách rõ ràng giữa người Do-thái và tất cả các sắc dân khác. Người Do-thái coi chỉ có họ mới xứng đáng là "Dân Riêng" của Thiên Chúa, vì Ngài đã chọn, bảo vệ, và ban Lề Luật cho họ; tất cả dân tộc khác được xếp hạng Dân Ngoại, không thanh sạch, và không được hưởng những đặc quyền như họ. Vì thế, người Do-thái sống cách biệt với các dân tộc khác, và không muốn có sự chung đụng gì với các dân tộc khác. Khi Đức Kitô đến, kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa được mở rộng và bao trùm tất cả mọi dân tộc. Điều kiện được cứu độ là niềm tin vào Ngài, chứ không dựa trên việc giữ Lề Luật nữa. Dĩ nhiên, Đức Kitô không hủy bỏ tất cả Lề Luật, nhưng các tín hữu vẫn phải giữ các Luật căn bản để chứng tỏ đức tin của họ.
Để hiểu những gì thánh Phaolô nói về sự xa cách giữa người Do-thái và Dân Ngoại, chúng ta cần hiểu cách cấu trúc của Đền Thờ Jerusalem thời đó: Có 3 bức tường ngăn cách các hạng người khác nhau. Bức tường thứ nhất ngăn cách giữa người Do-thái và Dân Ngoại; người dân ngoại nào vượt bức tường này là động chạm đến người Do-thái và sẽ bị tử hình. Bức tường thứ hai ngăn cách giữa phái nam và phái nữ của người Do-thái; người nữ không được phép bước vào chỗ của người nam. Bức tường thứ ba ngăn cách giữa người giáo dân và hàng tư tế; chỉ có tư tế mới được vào trong để dâng của lễ hy sinh lên Thiên Chúa. Ngoài ra, còn có một bức màn đóng kín từ trên xuống dưới để ngăn cách giữa nơi thánh của các tư tế và nơi Cực Thánh, nơi Thiên Chúa hiện diện; chỉ có các Thượng Tế mới được vào nơi Cực Thánh trong Ngày Xá Tội, mỗi năm một lần mà thôi.
- Khi Đức Kitô đến, Ngài đập tan các bức tường ngăn cản giữa con người với con người, như lời thánh Phaolô diễn tả: "Thật vậy, chính Người là bình an của chúng ta: Người đã liên kết đôi bên, dân Do-thái và Dân Ngoại, thành một; Người đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét." Không chỉ đập tan bức tường thứ nhất mà mọi bức tường ngăn cản giữa con người với con người: không còn Do-thái hay Hy-lạp, không còn nô lệ hay tự do, nhưng tất cả được rửa để tháp trong một Nhiệm Thể duy nhất là Đức Kitô (I Cor 12:13).
- Hơn nữa, Đức Kitô cũng xé đi bức màn ngăn cách giữa con người với Thiên Chúa, như lời Tin Mừng diễn tả: Màn trong Đền Thờ xé ra làm hai khi Chúa Giêsu gục đầu xuống và trút hơi thở cuối cùng (Mt 27:51, Mk 15:39, Lk 23:45). Kể từ giờ ấy, con người không còn xa lạ với Thiên Chúa nữa; họ có thể trực tiếp đến với Ngài bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, chứ không cần phải qua trung gian thầy Thượng Tế, và cũng không cần đợi đến Ngày Xá Tội một năm một lần. Thánh Phaolô diễn tả tư tưởng này như sau: "Người đã đến loan Tin Mừng bình an: bình an cho anh em là những kẻ ở xa, và bình an cho những kẻ ở gần. Thật vậy, nhờ Người, cả đôi bên, chúng ta được liên kết trong một Thánh Thần duy nhất mà đến cùng Chúa Cha."
3/ Phúc Âm: Anh em hãy lánh riêng ra, đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút.
3.1/ Căng thẳng nguy hiểm giữa chủ chăn và đòan chiên
(1) Quá tải của sứ vụ tông đồ: "Các Tông Đồ tụ họp chung quanh Đức Giêsu, và kể lại cho Người biết mọi việc các ông đã làm, và mọi điều các ông đã dạy... Quả thế, kẻ lui người tới quá đông, nên các ông cũng chẳng có thì giờ ăn uống nữa."
Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít, làm sao các tông-đồ có thể đáp ứng mọi nhu cầu của dân chúng? Làm sao các ông có thể thăng bằng giữa đời sống cá nhân với mục vụ tông đồ?
(2) Chiên vất vưởng không người chăn: "Thấy các ngài ra đi, nhiều người hiểu ý, nên từ khắp các thành, họ cùng nhau theo đường bộ chạy đến nơi, trước cả các ngài." Làm sao để có đủ mục tử chăm sóc cho dân khi càng ngày càng ít người đi tu? Xã hội càng tiến bộ, đời sống luân lý và gia đình càng sa sút. Làm sao kiếm được các thợ rành nghề để săn sóc dân chúng?
3.2/ Hy vọng: Chúa Giêsu là giải quyết cho cả hai bên, các mục tử và đoàn chiên.
(1) Người tông-đồ phải có thời giờ nghỉ ngơi với Đức Kitô: Chúa Giêsu nhận ra sự bận rộn trong công tác mục vụ của các tông-đồ. Để tránh cho các ông nguy cơ bị "làm việc quá độ," Ngài bảo các ông: 'Các con hãy vào trong để nghỉ ngơi một chút." Chính Ngài đi tìm chỗ nghỉ cho các ông. Đây phải là một kinh nghiệm sống cho chúng ta: Chúa không đòi chúng ta làm việc quá độ, cũng không khuyến khích sự lười biếng. Chúng ta phải giữ sao cho cân bằng, khi nào quá mệt mỏi, chúng ta phải kiếm giờ để nghỉ ngơi dưỡng sức trong Chúa; chứ không phải phí sức vào những cuộc vui chơi làm chúng ta càng mệt mỏi hơn.
(2) Người dạy dỗ họ nhiều điều: Không phải chỉ có các mục tử là người chủ chăn, Đức Kitô là Mục Tử Tốt Lành và trên hết. Chính Ngài sẽ dạy dỗ, săn sóc, và bảo vệ dân chúng, như trình thuật hôm nay: " Ra khỏi thuyền, Đức Giê-su thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúa Giêsu là Mục Tử Nhân Lành: Tất cả chúng ta hãy học hỏi, đặt trọn niềm tin tưởng, và niềm hy vọng nơi Ngài.
- Cha mẹ hay cha xứ đều là các mục tử chăm sóc những chiên của Thiên Chúa. Trên hết mọi sự, người mục tử phải dạy cho dân biết và quí mến Đức Kitô.
- Mỗi người chúng ta đều là các chiên của Thiên Chúa. Chúng ta phải học biết về Đức Kitô và cầu nguyện cho các mục tử của mình. Khi cầu nguyện cho họ, chúng ta đang cầu nguyện cho chính chúng ta.