25/04/2012 -

Chia sẻ tin mừng

446

 


 


 


























4th Sunday of Easter


Acts 4:8-12 ; 1 John 3:1-2



Chúa Nhật 4 Phục Sinh


Cv 4:8-12 ; 1Ga 3:1-2



Gospel John 10:11-18


11 I am the good shepherd. The good shepherd lays down his life for the sheep.


12 He who is a hireling and not a shepherd, whose own the sheep are not, sees the wolf coming and leaves the sheep and flees; and the wolf snatches them and scatters them.


13 He flees because he is a hireling and cares nothing for the sheep.


14 I am the good shepherd; I know my own and my own know me,


15 as the Father knows me and I know the Father; and I lay down my life for the sheep.


16 And I have other sheep, that are not of this fold; I must bring them also, and they will heed my voice. So there shall be one flock, one shepherd.


17 For this reason the Father loves me, because I lay down my life, that I may take it again.


18 No one takes it from me, but I lay it down of my own accord. I have power to lay it down, and I have power to take it again; this charge I have received from my Father."



Phúc Âm Gioan 10:11-18


11 Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho chiên.


12 Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạỷ Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn,


13 vì anh là kẻ làm thuê và không biết gì đến chiên.


14 Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Tôi biết chiên cuả tôi và chiên cuả tôi biết tôi,


15 Như Chúa Cha biết tôi và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho chiên.


16 Tôi còn có những chie+n khác không thuộc ràn nàỷ Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng cũng phải nghe tiếng tôi, và sẽchỉ có một đoàn chiên và một mục tử


17 Sở dĩ Chúa Cha yêu mến tôi, là vì tôi hy sinh mạng sống mình để rồi lấy lạị


18 Mạng sống của tôi không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sốg mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấỷ Đó là mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi đã nhận được.



Interesting Details



  • (v.11) In Greek, there are two words for "good":


-      agathos: the moral quality of a thing;


-      kalos: the quality of winsomeness that makes the goodness lovely.



  • Jesus' description of a "good shepherd" goes beyond efficiency and fidelity; the word "good" means kalos in "the good shepherd". There is loveliness as well as strength and power.

  • (v.11) The image of "good shepherd" is well known in the Old Testament Scriptures: Amos (3:12), Exodus (22:13), I Samuel (17:34-36), Isaiah (31:4). However, " laying down of the shepherd's life" from Jesus is something new. He is a good shepherd especially because of His willing and loving self-sacrifice for His sheep.

  • (v.14) A good shepherd knows each of his sheep and calls them by name. The sheep are used to their shepherd's voice, and they recognize him by his voice. Every day at dawn, the shepherd would open the sheepfold and call out his sheep. Drawn by the familiar voice of their shepherd, they would gather round and follow him out of the pen to the pasture.

  • (v.12-13) There is a contrast between the good and the bad shepherds, between the faithful and the unfaithful shepherds. The man who works only for reward thinks chiefly of money. The man who works for love thinks chiefly of the people he is trying to serve.

  • (v.14-15) For the Hebrews, to know a person means to experience him through knowledge and love. This mutual "knowing" is the communion of life between Jesus and disciples through which they come to share what Jesus receives from the Father.

  • (v.16-18) There are 3 great truths


-      only in Jesus Christ that the world can become one;


-      the unity comes from the fact that they all hear, answer and obey one shepherd, not that they are forced into one fold. It is the unity of loyalty to Jesus Christ.


-      the dream of Jesus depends on us. It is we who can help him making the world one flock under His shepherding.



Chi Tiết Hay



  • (c.11) Trong tiếng Hy-lạp, có hai từ có nghĩa là "tốt":


-      agathos: nói về phẩm chất luân lý;


-      kalos: nói về tính cách hấp dẫn làm cho phẩm chất tốt kia trở thành dễ thương.



  • Vậy khi Chúa Giê-su nói "mục tử nhân lành" thì Người không chỉ nói đến một người chăn chiên cần mẫn và trung tín, nhưng Người muốn sử dụng từ "nhân lành" theo ý nghĩa kalos. Theo ý nghĩa ấy, vị mục tử này dễ thương, mạnh mẽ và uy quyền.

  • (c.11) Hình ảnh "mục tử nhân lành" là hình ảnh rất quen thuộc trong Cựu Ước: A-mốt (3:12), Xuất Hành (22:13), 1 Sa-mu-en (17:34-36), I-sai-a (31:4). Tuy nhiên, Chúa Giê-su nói "mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình vì chiên" thì lại là một điều hoàn toàn mới mẻ. Người là mục tử nhân lành, đặc biệt vì Người tự nguyện và rất sẵn sàng hy sinh mình cho con chiên.

  • (c.14) Mục tử nhân lành biết từng con chiên và gọi tên từng con chiên bằng một tên riêng. Còn chiên thì quen tiếng chủ nên nhận ra chủ qua tiếng nói của ông. Mỗi ngày vào lúc bình minh, người chăn chiên sẽ mở cửa chuồng và gọi chiên ra. Quen tiếng nói của chủ, chiên sẽ quây quần chung quanh rồi theo chủ ra khỏi chuồng và đến đồng cỏ.

  • (c.12-13) Có sự tương phản giữa người chăn chiên tốt và người chăn chiên xấu, giữa người chăn chiên trung tín và bất trung. Kẻ làm việc vì tiền công thì chỉ nghĩ đến tiền. Còn kẻ làm việc vì tình yêu thì chỉ nghĩ đến những người họ đang phục vụ.

  • (c.14-15) Đối với người Do-thái, biết một người có nghĩa là biết qua sự hiểu biết và lòng yêu mến . Việc "quen biết nhau" này là một quan hệ đời sống giữa Chúa Giê-su và các môn đệ Người, nhờ đó họ được chia sẻ với những gì Chúa Giê-su lãnh nhận được từ Chúa Cha.

  • (c.16-18) Có ba chân lý qua những câu này:


-      Chỉ trong Chúa Giê-su Ki-tô thế giới mới có thể hiệp nhất trở nên một;


-      Sự hiệp nhất thể hiện qua sự kiện người ta hết thảy lắng nghe, đáp lại và tuân phục một đấng chăn chiên, chứ không phải là bị ép buộc nhập vào một đàn chiên. Đó là sự hiệp nhất do trung thành với Chúa Giê-su Ki-tô.


-      Giấc mơ của Chúa Giê-su còn tùy thuộc vào chúng ta. Chính chúng ta mới là những người giúp Người làm cho thế giới trở thành một đàn chiên dưới sự dẫn dắt của Người.



One Main Point


Safe in God's Hands


As a good shepherd, Jesus did more for His sheep by dying for them. The two images of Jesus as the good shepherd, and Jesus as the crucified, say essentially the same thing: he gave up His life for us. The door to salvation was thrown open to welcome everyone. Salvation is for all who hear and faithfully follow the voice of the Good Shepherd. Jesus promises in return to care for and protect His flock. Therefore, the safest place to be is in the hands of God.



Một Điểm Chính


An lành trong tay Chúa.


Là mục tử nhân lành, Chúa Giê-su đã chết cho con chiên của Người. Hình ảnh Chúa Giê-su là mục tử nhân lành và hình ảnh Chúa chịu đóng đinh trên thập giá đều nói lên cùng một chân lý: Người đã hy sinh mạng sống mình cho chúng ta. Cánh cửa cứu rỗi đã mở rộng đón mời mọi người. Ơn cứu chuộc là dành cho tất cả những ai nghe và trung thành theo tiếng gọi của vị Mục tử nhân lành. Đáp lại, Chúa Giê-su hứa sẽ chăm sóc và bảo vệ đàn chiên của Người. Do đó, nơi an toàn nhất của chúng ta chính là trong tay Chúa.



Reflections



  1. The sheep recognize their shepherd by his voice. Can you hear Jesus' voice? In your daily life, how can you recognize and follow Jesus' voice among different voices around you? Do you think that you are safe in God's hands?

  2. Jesus called us for the unity of the world. It is a dream which every one of us can help Jesus to realize. Think of your family, relatives, friends and people around you. Do you willingly want to help them to hear, answer and obey only one "shepherd?" Do you consider this calling as "a means for service" or as "a career?"

  3. The image of the good shepherd remind us of the Church. Vatican II teaches "the Church is a shepherd, the sole and necessary gateway to which is Christ." Think of the many challenges the Church has to face in today's life and ask yourself what you can do to respond to the Church's call.

  4. Contemplate Saint Paul's saying:


"The more clearly we see him,


the more deeply we know him,


the more we become like him."




Suy Niệm



  1. Chiên nhận ra chủ nhờ tiếng nói của ông. Vậy bạn có thể nghe tiếng Chúa Giê-su không? Trong đời sống hằng ngày, làm sao bạn có thể nhận ra và nghe theo tiếng Chúa giữa những tiếng nói chung quanh bạn? Bạn có nghĩ là bạn đang an toàn trong bàn tay Chúa không?

  2. Chúa Giê-su kêu gọi chúng ta giúp thế giới hiệp nhất. Đó là giấc mơ mỗi người có thể giúp Người thực hiện. Bạn hãy nghĩ tới gia đình, người thân, bạn bè và những người chung quanh. Bạn có thực sự muốn giúp họ nghe, đáp lại và tuân phục một "một chủ chiên duy nhất" không? Bạn coi lời kêu gọi này như "một phương thế để phục vụ" hay như một "kế sinh sống"?

  3. Hình ảnh mục tử nhân lành còn gợi cho chúng ta hình ảnh về Hội Thánh. Vatican II dạy "Hội Thánh là một chuồng chiên với cửa độc nhất và thiết yếu là Đức Ki-tô." Bạn hãy nghĩ về những thách đố Hội Thánh đang phải đương đầu hôm nay và hãy tự hỏi bạn có thể làm gì để đáp lại lời gọi của Hội Thánh.

  4. Hãy chiêm niệm lời thánh Phao-lô:


"Càng thấy Người rõ hơn,


chúng ta càng biết Người sâu xa hơn,


và càng trở nên giống như Người hơn."




xem slide shows

114.864864865135.135135135250