Cv 5,12-16; Kh 1,9-11a.12-13.17-19; Ga 20,19-31
Lm. Jude Siciliano, OP.
Anh Em Nhà Học Đa Minh Gò Vấp chuyển ngữ.
Bài Tin mừng hôm nay là khung cảnh thứ ba trong trình thuật Phục sinh đầu tiên của Gioan. Câu chuyện này khởi đi bằng việc Maria phát hiện ra ngôi mộ trống, chạy đi báo cho các môn đệ. Phêrô và “người môn đệ khác” chạy tới mộ và cũng thấy như vậy. Hôm nay, Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ khi các ông đang ở trong phòng đóng kín cửa. Đây là khởi điểm cho những lần hiện ra sau đó. Nhưng trước đó là sự trống rỗng và im lặng. Barbara Brown Taylor (trong “Bài giảng Phục sinh” đăng trên tạp chí dành cho các nhà giảng thuyết năm 1995) hướng sự chú ý của chúng ta đến sự trống rỗng và nói rằng:“Đây là cách mà lễ Phục sinh bắt đầu hé rạng trong lòng nhân loại. Người không ở đây. Chúng ta không biết Người ở đâu. Ngôi mộ trống như ngai của nơi cực thánh và âm thanh của danh Thiên Chúa chính là âm thanh hơi thở đứt quãng của chúng ta” (tr.13)
Vào lễ Phục sinh, Giáo hội đề nghị một sự thinh lặng và lòng sùng kính mãnh liệt hơn nữa trước quyền lực vô biên và “ riêng biệt của Thiên Chúa”. Ngay cả những ngôn từ hay nhất của chúng ta cũng không thể diễn tả hết được sự phục sinh; tuy nhiên chúng ta cố gắng diễn tả những gì Thiên Chúa đã thực hiện. Chúng ta, những nhà giảng thuyết và tín hữu sẽ cầu nguyện và gắng sức để diễn tả những mầu nhiệm này. Nhưng khi chúng ta nỗ lực, chúng ta sẽ làm tốt, hầu giữ lời khuyên của Brown:“chúng ta đến gần Đấng toàn năng như những phóng viên điều tra, nghiên cứu về những điều chúng ta có thể không bao giờ biết… Như phía trên Thiên Chúa ngự và khi thế gian kết thúc và tại sao những điều xấu xảy đến với những người tin. Chúng ta đặt sai ý nghĩa của đau khổ, của sự khiếp sợ, vào một Thiên Chúa vô biên”.
Ý nghĩa của sự kính sợ và tôn sùng trước Đấng toàn năng trong bài đọc thứ hai trích từ sách Khải huyền đã đụng chạm đến tôi. Sách này có lẽ do một ngôn sứ Kitô hữu gốc Dothái tên là Gioan viết. Ông nói rằng mình nhận được những thị kiến đang khi bị đày ở đảo Patmo vì giảng về Đức Giêsu (1-9). Sách này là một sưu tập những thị kiến và những phát biểu của Gioan, thường do một thiên sứ. Gọi là sách khải huyền vì chứa đựng những thị kiến và lời tiên báo về các biến cố trong tương lai. Người thị kiến được phép dự vào những cuộc phán xét trên trời và vì thế chúng ta cùng đăng trình với Gioan. Việc đọc Khải huyền có thể khiến chúng ta khiếp sợ.
Những độc giả ban đầu của sách này không hiểu nó như một sự mô tả về thời cánh chung. Như các ngôn sứ trước, tác giả muốn sách của mình được hiểu như một sứ điệp ông đón nhận từ Thiên Chúa và trao cho dân Thiên Chúa. Sách Khải huyền khuyến khích những cộng đoàn bị thất bại cố giữ giao ước và mang lại niềm an ủi, lúc đầu dành cho những tín hữu đau khổ trong các hội thánh thuộc vùng tiểu Á – và bây giờ dành cho chúng ta.
Bài hôm nay trích từ sách Khải huyền là một thị kiến đầu tiên trong số những thị kiến đầu tiên (1,9-11,19). Gioan mở đầu bằng cách mô tả về những gì ông biết và chia sẻ với những độc giả với tư cách là một thành viên của đời sống Kitô giáo – “sự đau khổ” (bách hại và khổ nhục) và “sự bảo đảm” chúng ta co được nhờ tin vào Đức Kitô.
Thị kiến khởi với việc ông đã “xuất thần” vào ngày của Chúa. Ông xuất thần và nghe thấy một tiếng lớn như thể tiếng kèn. Ông đã nhận được sự chỉ dẫn để viết ra những điều ông thấy và trao sứ điệp ấy cho bảy hội thánh. Thị kiến mang những đặc nét gợi nhớ những bài viết Khải huyền của Kinh thánh Cựu Ước. Hình ảnh “Con Người” liên tưởng đến thị kiến của Đaniel về khuôn mặt người trình diện Thiên Chúa, Đấng ngự trên ngai, trao cho Người quyền thống trị trên mọi dân tộc (Dn 7,13-14). Khuôn mặt siêu phàm này mang dáng dấp của những tư tế Đền thờ ở Giêrusalem.
Cảm nhận được nỗi kinh khiếp của cảnh tượng này, chúng ta cũng phản ứng như Gioan nếu chúng ta cũng được gặp thị kiến như thế: ngã vật xuống “dưới chân Người, như chết vậy”. Nhưng nhân vật này đã an ủi Gioan và mặc khải chính Người là Đức Kitô phục sinh.
Đâu là sự an ủi chúng ta có thể nhận được từ thị kiến Đức Kitô phục sinh này? Khi Người hiện ra với các môn đệ trong căn phòng đóng kín, Người chào họ bằng lời trao ban bình an. Những vết thương của Người biểu thị tính liên tục giữa Đức Giêsu trần gian, Đấng đã hy sinh mạng sống và Đấng đã phục sinh nói lời bình an và hoà giải: “Bình an cho anh em”. Tiếp đến, Người sai các môn đệ vào sứ vụ của tình thương và tha thứ.
Các môn đệ ra đi loan báo sứ điệp tình thương mà họ đã nhận được từ Đức Kitô phục sinh và, sau đó, một trong những môn đệ của họ, Gioan, bị đày ở Patmo vì ông đã “loan báo Lời Chúa” và làm chứng cho Đức Giêsu. Trong thị kiến của mình, Gioan không thấy Đức Kitô có những vết thương, nhưng đã sống lại, với tiếng kèn và việc loan báo sự thống trị trên tất cả. “Ta là Đầu và là Cuối, Đấng Hằng sống. Ta đã chết và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời. Ta giữ chìa khoá của Tử Thần và Âm phủ”. Đức Kitô là chủ của sự sống và sự chết.
Trong lối nói hiện nay, nếu chúng ta có được thị kiến của Gioan, có lẽ chúng ta sẽ mô tả như sau: “thật hoành tráng”.Nó thật kinh hoàng. Ông đang ngỏ lời với những Giáo hội địa phương đang sống trong những thời điểm khó khăn. Thị kiến của ông nhắc nhớ họ và cả chúng ta – có thể đang trải nghiệm những giới hạn, tổn thương và loại trừ vì niềm tin của mình – Đấng chúng ta tin, hiện đang nắm giữ quyền lực vô biên. Trong những thời điểm khó khăn chúng ta có thể làm những điều Gioan đã thực hiện bằng cầu nguyện và “ngã vật xuống dưới chân Người”. Đức Kitô trao cho chúng ta lời sức mạnh quyền năng và an ủi: “Đừng sợ!”
Có thể chúng ta không phải đối diện với một đế quốc Rôma thù địch và bách hại các độc giả của sách Khải huyền. Nhưng nỗi đau của chúng ta đến từ nhiều con đường khác nhau. Ngày càng nhiều người lìa bỏ giáo hội, nhiều người tuyên bố họ cảm thấy thất vọng với những vụ bê bối gần đây và cho rằng Giáo hội không hy vọng gì theo kịp thời đại chúng ta.
Khi những tín hữu nhiệt thành không phải chịu đau đớn của sự tra tấn vì niềm tin, chúng ta chắc hẳn sẽ cảm thấy căng thẳng. Chúng ta hãy đặt lòng mình vào sứ điệp của Đức Kitô trao cho Gioan, Đấng thấu suốt, là “đầu và cuối”. Người luôn trung kiên, từ khởi sự cho đến hoàn tất bằng sự hiện diện mà không bỏ rơi chúng ta. Chúng ta nghe lời an ủi của Đức Kitô để đứng vững và không sợ hãi. Người ở cùng chúng ta và sẽ hoàn tất lời mà Người đã hứa: Người sẽ đánh bại tử thần.
Phúc cho ai không thấy mà tin.
Nhiều người nghĩ họ chỉ tin khi nào thấy tận mắt hay có thể hiểu được; nếu không, họ kết luận tin mà không thấy, không hiểu là mê tín, dị đoan. Họ quên đi họ cũng đã tin rất nhiều thứ không thấy và không hiểu được; chẳng hạn như: tin lịch sử, giòng điện, gió hay hơi thở. Khi tin những điều này, họ dựa vào thế giá của các nhân chứng hay hiệu quả của những gì họ không thấy được. Trong lãnh vực niềm tin cũng thế, con người tin không phải vì đã thấy Chúa; nhưng vì đã nhìn thấy hiệu quả của uy quyền và tình yêu của Ngài trong vũ trụ, qua đời sống của các chứng nhân, hay cảm nghiệm của chính cá nhân họ trong cuộc đời.
Các bài đọc hôm nay nêu bật những sự kiện con người phải dựa vào để tin Thiên Chúa và Đức Kitô. Trong bài đọc I, tác giả Sách Công Vụ Tông Đồ nhấn mạnh đến việc tuy không thấy việc Chúa Giêsu Phục Sinh từ ngôi mộ hay nhìn thấy Ngài cách nhãn tiền; nhưng qua lời làm chứng của các tông đồ và những phép lạ các ông làm, rất nhiều người đã tin vào Ngài. Trong bài đọc II, tác giả Sách Khải Huyền ghi chép lại những gì ông đã thấy về những gì sắp xảy ra cho bảy giáo đoàn tại Tiểu Á. Mục đích là để các tín hữu của giáo đoàn xét mình, nhận ra những ưu và khuyết điểm để kịp thời sửa chữa. Trong Phúc Âm, tông đồ Thomas từ chối không tin vào lời chứng của 10 tông đồ và ông xác tín ông chỉ tin khi nhìn thấy Chúa Giêsu tận mắt. Chúa Giêsu hiện ra cho ông thấy tận mắt; nhưng khuyến cáo ông: chỉ tin khi thấy là điều tầm thường, nhưng phúc cho những ai không thấy mà tin.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Nhiều dấu lạ điềm thiêng được thực hiện trong dân, nhờ bàn tay các tông đồ.
1.1/ Phêrô và các tông đồ làm cho nhiều người tin vào Đức Kitô: Bằng chứng rõ ràng nhất của sự Phục Sinh là sự thay đổi hầu như hoàn toàn nơi các tông đồ, từ những con người yếu đuối, nhát đảm, sợ sệt, chạy trốn trong Cuộc Thương Khó; nay các ông thành những người can đảm, mạnh dạn, và sẵn sàng làm chứng cho Chúa Giêsu, đến nỗi Thượng Hội Đồng cũng phải sợ các ông. Chứng kiến sự thay đổi và nghe những lời làm chứng của các ông, “càng ngày càng có thêm nhiều người tin theo Chúa, cả đàn ông đàn bà rất đông.”
Chúa Giêsu đã thấy trước những hiệu quả này khi Ngài chọn, huấn luyện và sai các ông đi rao giảng và chữa lành ngay cả trước biến cố Phục Sinh (x/c Mt 10:7-9; Mk 3:13-15, 6:12-13, 16:17-18; Lk 9:1-2). Các môn đệ đã vâng lời ra đi và trở về tường thuật cho Ngài những kết quả họ thu nhận được. Sau biến cố Phục Sinh, họ ra đi với niềm tin được xác tín mạnh mẽ hơn, và hậu quả họ thu nhận được nhiều hơn.
1.2/ Phêrô và các tông đồ được Đức Kitô ban quyền chữa bệnh: Trừ quỉ và chữa lành là những gì Đức Kitô đã làm để khơi dậy niềm tin nơi khán giả, các tông đồ của Người cũng được trao quyền làm những phép lạ như vậy để khơi dậy niềm tin trong con người vào Đức Kitô.
Giống như Tin Mừng Nhất Lãm tường thuật sự kiện mọi người chen lấn nhau để mong chạm được gấu áo của Chúa Giêsu, tác giả Sách CVTĐ cũng tường thuật: “Người ta còn khiêng cả những kẻ đau ốm ra tận đường phố đặt trên giường trên chõng, để khi ông Phêrô đi qua, ít ra cái bóng của ông cũng phủ lên được một bệnh nhân nào đó. Nhiều người từ các thành chung quanh Jerusalem cũng lũ lượt kéo đến, đem theo những kẻ ốm đau cùng những người bị thần ô uế ám, và tất cả đều được chữa lành.”
2/ Bài đọc II: Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời.
2.1/ Các giáo đoàn cần trung thành với đức tin và những lời dạy dỗ của Đức Kitô.
Tục ngữ Việt Nam có câu để mô tả sự yếu đuối của con người: “Chầu lâu gối mỏi.” Sau thời gian nhiệt thành của giây phút ban đầu, nồng độ của đức tin và đức mến của các tín hữu sẽ từ từ suy giảm với thời gian; nhất là khi con người phải đương đầu thường xuyên với các cám dỗ của ba thù. Tác giả của Sách Khải Huyền được lệnh của Thiên Chúa trong thị kiến đầu tiên viết những lời cảnh giác cho bảy giáo đòan tại Tiểu Á. Mục đích là để giúp họ biết xét mình, nhận ra những tội lỗi và sửa chữa kịp thời; nếu không, họ sẽ phải chịu những kết quả của tội đem lại khi Đức Kitô đến lần thứ hai.
Đọc chi tiết những gì ông Gioan viết bảy Hội Thánh tại Tiểu Á: Êphêsô, Myrna, Pergamô, Thyatira, Sardis, Philadelphia và Laodicea; chúng ta có thể nhận ra những cám dỗ của ba thù nơi chính chúng ta. Mọi người cần phải thường xuyên xét mình để nhận ra mức độ tin yêu họ dành cho Đức Kitô.
2.2/ Các danh xưng trong trình thuật muốnnói lên uy quyền của Đức Kitô:
- Ta là Đầu và là Cuối: Đức Kitô là khởi nguyên và là chung cuộc; không có gì có thể thay đổi được Ngài hay thay đổi những gì Ngài dạy dỗ. Người tín hữu cần trung thành với đức tin và những giáo huấn của Đức Kitô; chứ đừng chạy theo những hệ thống tư tưởng và trào lưu nhất thời của thế gian, kẻo phải lãnh nhận những thiệt hại cho bản thân, gia đình, và cộng đoàn.
- Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời: Đức Kitô vẫn đang sống trong các tín hữu và trong Giáo Hội qua sự hiện diện của Chúa Thánh Thần. Các tín hữu cần lắng nghe và tuân theo những gì Ngài hướng dẫn và dạy bảo.
- Ta giữ chìa khoá của Tử thần và Âm phủ: Đức Kitô có quyền trên cả sự chết ở đời này và sự chết đời đời. Người tín hữu không được sợ hãi và lùi bước trước bất cứ quyền lực nào của thế gian hay của quỉ thần. Họ chỉ cần vững tin vào Ngài là sẽ thắng vượt được tất cả các quyền lực này.
3/ Phúc Âm: "Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!"
3.1/ Chúa Giêsu hiện ra với các Tông đồ không có ông Thomas: Theo Tin Mừng Gioan, các tông đồ đã được chuẩn bị để đón nhận Tin Mừng Phục Sinh bởi lời của các phụ nữ ra thăm mộ, và nhất là lời chứng của Mary Magdala về sự hiện ra của Chúa Giêsu với bà; nhưng các ông vẫn còn hồ nghi về những lời chứng của các phụ nữ.
Trong trình thuật hôm nay, Chúa Giêsu thân hành hiện đến với các tông đồ để kiện toàn niềm tin của các ông. Có ba sự kiện của lần hiện ra này chúng ta cần để ý:
(1) Chúa Giêsu Phục Sinh có thể đi qua cửa đang đóng kín: Trình thuật nói rõ: “Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: "Bình an cho anh em!"”
(2) Ngài mang một thân xác thật, chứ không phải là hồn người chết hay ảo ảnh: “Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa.” Mười môn đệ đều chứng kiến biến cố này một lúc; nên không ai có thể chối cãi lời chứng của họ được.
(3) Chúa Giêsu thổi hơi và ban Thánh Thần cho các tông đồ: “Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần.” Trước khi chịu Thương Khó, Chúa Giêsu đã hứa sẽ không để các ông mồ côi, Người sẽ ban cho các ông một Đấng Bảo Trợ khác là Chúa Thánh Thần. Chúa Giêsu cũng đã mặc khải cho các ông về Thánh Thần như sau: “Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn. Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến. Người sẽ tôn vinh Thầy, vì Người sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em” Jn (16:13-14). Với sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong các tông đồ, các ông sẽ không còn chút nghi ngờ nào về sự phục sinh của Chúa Giêsu.
3.2/ Chúa Giêsu hiện ra với các Tông đồ có cả ông Thomas: Vì tông đồ Thomas không có mặt trong lần hiện ra trước, nên các tông đồ nói với ông: “Chúng tôi đã xem thấy Chúa.” Tác giả dùng động từ của câu này ở thời “hoàn hảo” để chứng minh niềm tin hoàn hảo của các tông đồ.
Nhưng ông Thomas từ chối không tin lời của 10 nhân chứng; ông đòi niềm tin đặt căn bản trên thực nghiệm: "Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin."
“Tám ngày sau, các môn đệ Đức Giêsu lại có mặt trong nhà, có cả ông Thomas ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: "Bình an cho anh em." Rồi Người bảo ông Thomas: "Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin."
Chúa Giêsu vẫn đi qua các cửa đóng kín như lần trước. Ông Thomas chắc phải lạnh người vì không ngờ tất cả những gì mình nói giờ đây được lặp lại từng chữ trên môi miệng của Chúa Giêsu. Vì thế, ông Thomas sụp xuống thưa Người: "Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!" Nhiều tác giả đã phân tích câu tuyên xưng này và nêu bật niềm tin của Thomas: ông không những tuyên xưng Chúa Giêsu là Chúa, mà còn là Thiên Chúa của ông nữa.
3.3/ Niềm tin không dựa trên những gì trông thấy còn tốt hơn: Con người tin vì nhiều cách khác nhau như nhìn thấy tận mắt, hay cảm thấy hiệu quả, hay vì lời của một, hai, ba, hay nhiều nhân chứng. Chúa Giêsu xếp loại chỉ tin khi nhìn thấy tận mắt xuống dưới hàng tin khi không thấy qua lời Ngài tuyên bố với Thomas: "Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!"
Con người cần tin vào lời của Kinh Thánh hay lời của các chứng nhân, như tác giả của Tin Mừng thứ bốn viết: “Đức Giêsu đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ; nhưng những dấu lạ đó không được ghi chép trong sách này. Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Đức Kitô Phục Sinh là căn bản của niềm tin chúng ta; vì thế, chúng ta cần học hỏi và làm mọi các để hiểu rõ niềm tin này.
- Chúng ta cần giữ vững niềm tin Phục Sinh trong cuộc đời, nhất là những khi bị cám dỗ và chịu bách hại bởi ba thù.
- Thấy và tin là mức độ thấp nhất trong tiến trình đức tin. Chúng ta cần lắng nghe tiếng của Chúa Thánh Thần và tin vào lời các nhân chứng.
Bài đọc: Acts 5:12-16; Rev 1:9-11a, 12-13, 17-19; Jn 20:19-31.
1/ Bài đọc I:
Nhiều dấu lạ điềm thiêng được thực hiện trong dân nhờ bàn tay các Tông Đồ. Và tất cả tập họp tại hành lang Solomon. 13 Không một ai khác dám nhập đoàn với họ, nhưng dân chúng ca tụng họ.14 Càng ngày càng có thêm nhiều người tin theo Chúa: cả đàn ông đàn bà rất đông. 15 Người ta còn khiêng cả những kẻ đau ốm ra tận đường phố đặt trên giường trên chõng, để khi ông Phê-rô đi qua, ít ra cái bóng của ông cũng phủ lên được một bệnh nhân nào đó.16 Nhiều người từ các thành chung quanh Giê-ru-sa-lem cũng lũ lượt kéo đến, đem theo những kẻ ốm đau cùng những người bị thần ô uế ám, và tất cả đều được chữa lành.
.
2/ Bài đọc II:
9 Tôi là Gio-an, một người anh em của anh em, tôi cùng chia sẻ nỗi gian truân, cùng hưởng vương quốc và cùng kiên trì chịu đựng với anh em trong Đức Giê-su. Lúc ấy, tôi đang ở đảo gọi là Pát-mô, vì đã rao giảng Lời Thiên Chúa và lời chứng của Đức Giê-su.
10 Tôi đã xuất thần vào ngày của Chúa và nghe đằng sau tôi có một tiếng lớn như thể tiếng kèn11 nói rằng: "Điều ngươi thấy, hãy ghi vào sách và gửi cho bảy Hội Thánh: Ê-phê-xô, Xi-miếc-na, Péc-ga-mô, Thy-a-ti-ra, Xác-đê, Phi-la-đen-phi-a và Lao-đi-ki-a."12 Tôi quay lại để xem tiếng ai nói với tôi. Khi quay lại, tôi thấy bảy cây đèn vàng. 13 Ở giữa các cây đèn, có ai giống như Con Người mình mặc áo chùng và ngang ngực có thắt đai bằng vàng.17 Lúc thấy Người, tôi ngã vật xuống dưới chân Người, như chết vậy. Người đặt tay hữu lên tôi và nói: "Đừng sợ! Ta là Đầu và là Cuối. 18 Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời; Ta giữ chìa khoá của Tử thần và Âm phủ.19 Vậy ngươi hãy viết những gì đã thấy, những gì đang diễn ra và những gì sẽ xảy ra sau này.
3/ Phúc Âm:
19 Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: "Bình an cho anh em! " 20 Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. 21 Người lại nói với các ông: "Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em." 22 Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. 23 Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ." 24 Một người trong Nhóm Mười Hai, tên là Tô-ma, cũng gọi là Đi-đy-mô, không ở với các ông khi Đức Giê-su đến. 25 Các môn đệ khác nói với ông: "Chúng tôi đã được thấy Chúa!" Ông Tô-ma đáp: "Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin."
26 Tám ngày sau, các môn đệ Đức Giê-su lại có mặt trong nhà, có cả ông Tô-ma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: "Bình an cho anh em."27 Rồi Người bảo ông Tô-ma: "Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin." 28 Ông Tô-ma thưa Người: "Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!"29 Đức Giê-su bảo: "Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin! "30 Đức Giê-su đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ; nhưng những dấu lạ đó không được ghi chép trong sách này.31 Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người.