22/10/2012 -

Chia sẻ tin mừng

691


 


 


Bài đọc: Jer 31:7-9; Heb 5:1-6; Mk 10:46-52.


 


Lm. Jude Siciliano, OP.


Kính thưa quý vị!


Vào đầu năm nay, một thay đổi lớn đã xảy ra, tôi chuyển đến sống ở bang Texas. Người dân rất dễ mến, địa thếcũng đáng yêu, nhưng đường xá thì ôi thôi! Một số người bạn chu đáo đã tặng tôi thiết bị “GPS” (hệ thống định vị toàn cầu) đặt trong xe, vì biết rằng tôi sẽ phải chật vật với những con đường xa lạ và bối rối trên những đường cao tốc ở Texas. Nếu không quen, thì đây là cách sử dụng nó. Bạn nhấn vào nơi bạn đang ở và nơi bạn muốn đến, hệ thống sẽ kích hoạt. Một bản đồ xuất hiện trên màn hình và dò tìm lộ trình khi quý vị lái xe đến nơi muốn đến. Trước khi khởi động, quý vị có thể chọn một “lộ trình có cảnh đẹp”, hay “lộ trình ngắn nhất”. Và, một chút bất ngờ… có một giọng nói cho biết phải làm gì ở mỗi bước tiếp theo trên đường. Quý vị có thể chọn trực tiếp giọng nói mà mình muốn nghe. Tôi đã chọn giọng của “Julie”, vì cô nói giọng Anh. Ngay cả khi tôi đi xe một mình, “Julie” cũng ở đó, sẵn sàng hướng dẫn tôi: “Rẽ phải ở ngã tư kế tiếp”. Ngạc nhiên hơn nữa là khi tôi quên rẽ “Julie” nhắc nhở và “Tính toán lại”. Cô chỉ cách làm sao quay lại. Tiếp đến, cố ấy lại chỉ cho tôi những hướng mới. Cho dù tôi đã làm rối tung lên, nhưng giọng nói vẫn cứ dịu dàng và điềm tĩnh, tự tin và không phiền trách chút nào về lỗi của tôi. Thật là một người bạn đồng hành hoàn hảo! “Tính toán lại”.


Không phải quý vị mong cuộc sống được trang bị với hệ thống hướng dẫn sao? Quý vị có thể nhấn vào nơi đang ở lúc này và đích điểm đời mình. Thế nên, ví dụ, đầu tiên đánh vào hàng chữ “Về nhà Chúa” và rồi lắng nghe những hướng dẫn – khi nào phải rẽ phải, khi nào phải rẽ trái và đi thẳng. Giọng nói sẽ luôn phát ra ở đó, hướng dẫn ta từng bước một – hôm nay, ngày mai và ngày sau – “Về nhà Chúa”. Khi quý vị phạm sai lầm và đi sai hướng, trong một chuyến đi dù ngắn hay dài (như thỉnh thoảng chúng ta có nguy cơ), thì giọng nói vang lên và rõ ràng, “Tính toán lại”. Kế đó quý vị sẽ có những hướng dẫn mới, hầu có thể quay lại đúng đường – “Về nhà Chúa”.


Trải nghiệm khó khăn hẳn đã dạy chúng ta rằng chẳng có thiết bị nào như thế, chẳng có con đường nào dễ dàng, chẳng có thiết bị cài đặt hướng dẫn từng bước một sẵn sàng xuất hiện theo yêu cầu của chúng ta. Ngay cả người giàu nhất thế giới cũng không thể mua được nó; nó không tồn tại. Chúng ta phải tiếp tục lên đường với tầm nhìn và sự hiểu biết hiện có. Chúng ta về “Nhà” bằng việc lần bước trên đường Đức Giêsu đã đi qua – và bây giờ đang đi cùng chúng ta. Nếu bị lạc, Người giúp chúng ta “Tính toán lại”.


Vâng, chúng ta kết bạn trên đường, chào đón anh Batimê vào cuộc sống chúng ta. Anh không thể nhìn bằng mắt, nhưng chúng ta có nhiều điểm chung với anh ấy lúc này, hay trong quá khứ, bởi vì chúng ta hiểu bị thế nào là mù lòa hay mờ mắt. Bao lần chúng ta đã thừa nhận mình không thấy rõ? Thực vậy, rất nhiều lần chúng ta đã phải thừa nhận: “Chắc hẳn tôi đã mù! Làm sao tôi lại làm hay nghĩ như thế!


Chúng ta tìm thấy anh Batimê ở chỗ nào trong câu chuyện Tin mừng hôm nay? Anh đang ngồi bên vệ đường, mù lòa và xin ăn. Như chúng ta, anh Batimê là một gã lang thang và là một kẻ hành khất. Vào thời Đức Giêsu, nếu một người không giàu có, không may mắn, hay có thể là bất lương, thì họ sẽ phải vật lộn với nghèo đói, như hàng tỉ người nghèo trong thế giới hôm nay vậy. Một người mù, tàn tật hay đau bệnh có cơ hội nào trong hoàn cảnh khốc liệt như vậy? Không nhiều! Anh Batimê, người chẳng thể thấy đường để đi - quay lại làng, về nhà, hay thậm chí theo Đức Giêsu – đã làm tất cả những gì có thể trong điều kiện của mình. Anh đã dừng bên vệ đường và xin người qua kẻ lại.


Ra như anh Batimê không làm được gì cả. Không phải thế - Anh ta có thính giác. (Người ta nói rằng người mù có thính giác rất nhạy bén). Người ăn xin mù cần thính giác tốt, hầu có thể nghe được tiếng dép hay tiếng chân trần của khách bộ hành, và kịp thời kêu xin và chìa tay ra. Thính giác tốt có thể giúp cho người ăn xin mù lòa cơ hội kiếm sống.


Vào chính ngày đặc biệt này, quả thực anh Batimê chắc chắn đã nghe rất rõ. Hôm ấy, anh đã nghe thấy Đức đang đi ngang qua. Vì thế, anh sử dụng “chiêu thức” hữu dụng khác của giới ăn mày – Anh đã kêu lên rằng: “Lạy ông Giêsu, Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi”. Chúng ta ấn tượng rằng anh Batimê biết Đức Giêsu có nhiều thứ cho anh ta hơn là một vài xu. Thính giác đã giúp anh rất nhiều. Phải chăng anh ta đã nghe nói về Đức Giêsu rồi? Đức Giêsu đã chữa bệnh cho dân chúng như thế nào? Đức Giêsu giúp cho dân chúng thấy đường đưa họ về Nhà ra sao? Người mang sự nghỉ ngơi đến cho những tâm hồn mỏi mệt ra sao? Mang bình an cho họ, láng giềng họ vàđưa họ đến với Chúa?


Cho dù anh Batimê vẫn còn bị mù đi chăng nữa, nhưng anh có thể thấy, vì anh đã biết Đức Giêsu là: “Con vua Đavít”. Anh gọi Đức Giêsu là Đấng Mêsia và, khi có cơ hội, anh đã xin Đức Giêsu một ân huệ lớn, được nhìn thấy. Đức Giêsu đòi hỏi chúng ta như đã hỏi anh Batimê: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?” Anh Batimê  mà chúng ta chào đón vào cộng đoàn niềm tin, cho chúng ta lời đáp đơn giản và trực tiếp. Đó chính là “Lời nguyện xin của Batimê” – “Thưa Thầy, tôi muốn được thấy”. Cái nhìn của chúng ta được khởi đi bằng phép rửa, khi mắt chúng ta mở ra và bắt đầu tin. Tuy nhiên, hành trình đức tin của chúng ta vẫn chưa kết thúc.


Gần đây, có một thanh niên nói với tôi: “Con được nhiều phúc lành lắm”. Và quý vị biết anh ta đã kể ra những gì không? “Cha mẹ, anh chị, vợ và hai con gái tôi”. Để ý, anh ấy đã không gọi nhà lầu hay xe hơi mới là “phúc lành”. Anh ta đã mở mắt để thấy sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời, trong các mối tương quan. Anh ta thấy!


Vì vậy, chúng ta tự hỏi: chúng ta cần được sáng hơn ở chỗ nào? Làm sao để mở mắt thấy những sai lỗi của mình? Những lời chúc lành?...những thất bại?... Những nhu cầu của tha nhân?... Làm sao cái nhìn của chúng ta lại bị lu mờ bởi một thành kiến này khác?


Hãy điền vào chỗ trống.


“Tôi muốn thấy…”



  • °         Khi tôi chọn lựa điều ảnh hưởng đến tôi và gia đình tôi.

  • °         Những dấu chỉ tình yêu Thiên Chúa dành cho tôi trong mỗi ngày đời.

  • °         Tôi nên chọn lối đi nào cho thời gian tới, khi tôi quyết định lập gia đình… Công việc mới… Trường học… Bạn bè… Giải trí, vv.

  • °         Chúa ở cùng tôi, khi tôi phải điều trị bệnh, dẫu cho đó là tin xấu.

  • °         Chúa ở cùng tôi, khi tôi ngày càng già đi và những thứ trước đây tôi đã làm dễ dàng, nay lại quá khó khăn.


°         Những người bị gạt ra bên lề, những kẻ nghèo khó và những người bị đối xử như “không như con người”.


°         Lời cầu xin của anh Batimê – cách nào đó cũng là lời cầu nguyện của chúng ta: “Thưa Thầy, tôi muốn được thấy”.



Anh Em Nhà Học Đaminh Gò Vấp chuyển ngữ








 


Học viện Đa Minh


Trong bài Tin Mừng này, tôi chỉ tập trung vào một câu hỏi của Đức Giêsu: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?” và câu trả lời của anh mù ăn xin: “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được.” Tai sao Đức Giêsu lại hỏi anh ta câu hỏi này?


Có lẽ câu hỏi này làm cho những người đang vây quanh Đức Giêsu không khỏi thắc mắc, thậm chí hoài nghi. Bởi vì, nếu Đức Giêsu là Thiên Chúa thì lẽ nào Người lại không biết anh mù này xin gì. Chắc chắn điều anh ta cần bây giờ là được nhìn thấy. Vì thế, không cần hỏi thì cũng biết anh ta muốn xin gì. Thế nhưng, chính câu hỏi của Đức Giêsu không chỉ tác động lên anh mù nhưng còn đánh động cả đám người đang vây quanh Người. Trước tiên, về phía đám đông. Câu hỏi của Đức Giêsu có lẽ không đánh động đám đông cho bằng câu trả lời của anh mù. Mở đầu câu trả lời của anh mù bằng từ “Lạy Thầy”. Đức Giêsu đã dùng câu trả lời của anh mù để trả lời, để tự giới thiệu trong đám đông, mà có lẽ trong số đó có nhiều kẻ theo người không phải vì tin nhưng vì hiếu kỳ, có khi để rình mò, bắt bẻ. Từ câu trả lời của anh mù, Đức Giêsu cho thấy chính Người là Thiên Chúa. Hạn từ gốc của từ “Lạy Thầy” có nghĩa là lạy Chúa hay Đức Chúa. Anh mù nhưng lại nhận ra người anh đang nài xin đây là Thiên Chúa, vậy chỉ có đức tin, chỉ có Chúa mặc khải, anh mới biết được.


Điều thứ hai, cũng chính là ý chính của bài Tin Mừng hôm nay mà tôi muốn chia sẻ, đó là việc tuyên xưng của anh mù. Câu trả lời của anh mù ngắn gọn, nhưng chứa đựng tất cả niềm tin và lòng tín thác. Anh tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa, là Đức Chúa. Đức Giêsu thừa biết anh đang cần gì và muốn xin Người điều gì. Và chắc chắn, dù anh không xin, thì Đức Giêsu cũng không thể làm ngơ được. Nhưng một câu hỏi là cần thiết để trước tiên anh xác tín lại niềm tin của mình, và loan báo niềm tin ấy cho người khác; mặt khác Người cũng muốn anh bày tỏ ước nguyện của mình, đó là anh xin lòng thương xót của Thiên Chúa “Lạy Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi.”


Câu hỏi của Đức Giêsu làm phát triển đức tin cho anh mù. Anh xác tín rằng, Đức Giêsu chính là Đấng Cứu Độ muôn dân đang mong chờ, và anh biết rõ sứ vụ của Người. Người đến để qui tụ những “kẻ đui, người què, kẻ mang thai, người ở cữ.”, điều đã được loan báo trong Cựu Ước, mà bài đọc I đã nói đến. Vì thế, anh  tin Đức Giêsu có khả năng chữa cho anh ta khỏi mù.


Đức Giêsu đã không để anh mù phải thất vọng. Một khi niềm tin của anh đã chắc chắn, Người liền làm thoả mãn ước vọng của anh mù “lòng tin của anh đã cứu anh!” Đức Giêsu đã chữa lành cho anh mù. Người không chỉ chữa lành mắt cho anh, nhưng hơn thế nữa người còn chữa lành tâm linh cho anh. Anh vừa được chữa khỏi mù, lại vừa được cứu chữa phần linh hồn, vì anh đã tin rằng Đức Giêsu là Đấng Mêsia, là Đấng Cứu Độ.


Thiết tưởng, hình ảnh anh mù hôm nay cho chúng ta hai bài học này. Thứ nhất, giữa đám đông dân chúng ngăn cấm, quát nạt, doạ dẫm, anh mù vẫn tưyên xưng lòng tin của mình một cách mạnh mẽ và công khai. Càng quát nạt bắt anh im đi, anh mù càng la lớn. Đức tin của anh mù đã tra vấn đức tin của mỗi người chúng ta. Liệu chúng ta có dám bày tỏ đức tin một cách mạnh mẽ và công khai, khi mà đâu đó trên quê hương chúng ta vẫn còn những hình thức ngăn cấm người tín hữu sống và thực hành tôn giáo, đâu đó vẫn còn những bách hại nhắm vào người công giáo? Bài học thứ hai, Thiên Chúa luôn dư tràn ân phúc để ban cho con người. Nhưng đàng khác Người cũng cần con người phải cộng tác. Con người không thể cứ ngồi chờ sung rụng. Không thể cứ ngồi cầu nguyện để phép mầu xảy ra mà không chịu lao động. Lười biếng lao động nhưng lại cứ hy vọng một tấm vé số để đổi đời. Lười biếng lai lưng làm việc, nhưng lại cứ thích thu tiền của người khác bằng việc suốt ngày bài bạc. Rốt cuộc, túng nghèo vẫn hoàn túng nghèo. Tán gia bại sản, nhà cửa tan hoang, túng nghèo, nhưng phép mầu xổ số vẫn chưa thấy đâu; con cái đói khát, thất học, nhưng có bao nhiêu tiền của đổ vào bài bạc hết. Thắng thì đi ăn nhậu cũng hết, thua thì ve bán tài sản. Không chịu làm ăn, lấy đâu ra tiền của!


Gợi ý suy niệm: cha Đa Minh  có thói quen trước khi đi ngủ, người xét mình xem ngày hôm nay mình đã làm gì. Vì thế, mỗi anh chị em trong gia đinh Đa Minh , cũng xét mình lại xem mình đã sống hai bài học trên như thế nào?




 





Thiên Chúa yêu thương và chữa lành những yếu đuối của con người.


 


Anthony Đinh Minh Tiên, OP



Thiên Chúa yêu thương con người và mong muốn con người được sống hạnh phúc bên Ngài mãi mãi; nhưng nhiều người lại mù quáng chạy theo những tình yêu ảo ảnh của thế gian. Để đưa con người về, Thiên Chúa phải dùng đau khổ. Khi con người phải đương đầu với đau khổ, họ nhận ra họ không thể sống mà không có Thiên Chúa.


Các Bài Đọc hôm nay biểu lộ tình yêu Thiên Chúa dành cho con người qua những trường hợp khác nhau. Trong Bài Đọc I, khi con cái Israel không chịu nghe lời các ngôn sứ để quay trở về với Thiên Chúa, Ngài để mặc họ cho ngoại bang giày xéo. Kết quả là con cái Israel bị mất nước và bị mang đi lưu đày. Nhưng tình yêu Thiên Chúa không bao giờ cạn cho con cái Israel, Ngài sai các ngôn sứ tới để khuyên bảo dân hãy giữ vững niềm trông cậy, vì Ngài sẽ giải thoát và đưa họ về quê hương làm lại cuộc đời. Trong Bài Đọc II, tình yêu Thiên Chúa được biểu lộ qua việc Ngài chọn và gởi các thượng tế đến để làm trung gian giữa Thiên Chúa và con người; vị Thượng Tế cao cả nhất là chính Người Con Một của Ngài. Các thượng tế thay Thiên Chúa lo lắng và chăm sóc phần hồn cho dân qua mọi thời đại. Trong Phúc Âm, Đức Kitô đã chữa lành cho một người mù thành Jericho, khi anh mạnh dạn vượt qua mọi trở ngại để xin Ngài cho anh được thấy.


 


KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:


 


1/ Bài đọc I: Ta sẽ đưa chúng từ đất Bắc trở về, quy tụ chúng lại từ tận cùng cõi đất.


 


1.1/ Thiên Chúa thương xót sau khi sửa phạt Israel: Như một người cha yêu thương con cái, nhưng phải sửa phạt khi chúng lầm lỗi, Thiên Chúa cũng phải sửa phạt vì sự cứng lòng của con cái Israel. Thiên Chúa để họ bị rơi vào tay vua Assyria và bị lưu đày vào khoảng năm 721 BC. Tuy nhiên, Ngài luôn hứa với dân qua các tiên-tri là Ngài sẽ cứu số còn sót lại của Israel sau thời kỳ lưu đày. Lời hứa của Thiên Chúa được hiện thực khi vua Ba-tư là Cyrus phóng thích cho dân chúng trở về Jerusalem vào năm 538 BC, để xây dựng lại quê hương và tái thiết Đền Thờ.


Trình thuật của ngôn sứ Jeremiah hôm nay là một ví dụ điển hình cho lời hứa của Thiên Chúa với dân: "Vì Đức Chúa phán thế này: Reo vui lên mừng Jacob, hãy hoan hô dân đứng đầu chư dân! Nào loan tin, ca ngợi và công bố: "Đức Chúa đã cứu dân Người, số còn sót lại của Israel!" Này Ta sẽ đưa chúng từ đất Bắc trở về, quy tụ chúng lại từ tận cùng cõi đất. Trong chúng, có kẻ đui, người què, kẻ mang thai, người ở cữ: tất cả cùng nhau trở về, cả một đại hội đông đảo."


 


1.2/ Thiên Chúa luôn yêu thương Israel với tình yêu của người cha: Con cái Israel có thể dùng tự do để xa lìa Thiên Chúa; nhưng Ngài luôn trung thành yêu thương và bảo vệ họ. Để giúp con cái Israel nhận ra tình thương Thiên Chúa và quay trở về, đau khổ là phương thuốc cần thiết cho họ. Chính tư tế Ezra sau khi đã nhận ra kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện qua vua dân ngoại Cyrus đã phải đau đớn và xấu hổ thốt lên: tất cả chúng con đều đã xúc phạn đến Ngài, tổ tiên của chúng con cũng như tất cả những người đương thời; và đau khổ chúng con phải chịu là xứng đáng với tội lỗi của chúng con.


Một khi con người nhận ra và quay trở về với tình yêu đích thực, Thiên Chúa lại tiếp tục săn sóc và bảo vệ họ, như lời sấm của tiên-tri Jeremiah: "Chúng trở về, nước mắt tuôn rơi, Ta sẽ an ủi và dẫn đưa chúng, dẫn đưa tới dòng nước, qua con đường thẳng băng, trên đó chúng không còn vấp ngã. Vì đối với Israel, Ta là một người Cha, còn đối với Ta, Ephraim chính là con trưởng."


 


2/ Bài đọc II: Thượng tế được đặt lên để làm trung gian giữa Thiên Chúa và con người.


 


2.1/ Vị thượng tế loài người: Tác giả Thư Do-thái nhấn mạnh đến ba đặc tính của thượng tế trong Cựu Ước, để dẫn đến Vị Thượng Tế cao cả nhất của Tân Ước.


(1) Thượng tế được chọn trong số người phàm: 'Quả vậy, thượng tế nào cũng là người được chọn trong số người phàm, và được đặt lên làm đại diện cho loài người, trong các mối tương quan với Thiên Chúa, để dâng lễ phẩm cũng như tế vật đền tội." Vai trò của vị thượng tế là để đại diện cho loài người trong các mối tương quan với Thiên Chúa; chẳng hạn, vị thượng tế vào trong cung Cực Thánh mỗi năm một lần vào ngày "Xá Tội" để dâng hy lễ toàn thiêu đền tội cho mình và cho mọi người.


(2) Thượng tế cũng là con người yếu đuối: Thượng tế không phải là thiên thần hay là thánh, họ cũng mang trong mình những khuyết điểm như dân chúng. Khi dâng của lễ đền tội, họ cũng phải dâng của lễ đền tội cho mình trước khi dâng của lễ đền tội cho dân. Vị thượng tế phải biết cảm thông với những kẻ ngu muội và những kẻ lầm lạc, bởi vì chính người của họ cũng đầy yếu đuối. Họ không được kiêu hãnh vì chức vụ của mình để khinh thị hay nóng nảy với dân chúng.


(3) Thượng tế được chọn bởi chính Thiên Chúa: Tác giả Thư Do-thái rất rõ ràng về điều này: "Không ai tự gán cho mình vinh dự ấy, nhưng phải được Thiên Chúa gọi, như ông Aaron đã được gọi."


 


2.2/ Chức vụ Thượng tế của Đức Kitô: Tác giả Thư Do-thái cũng dùng 3 đặc tính này để áp dụng vào chức vụ tư tế của Đức Kitô.


(1) Ngài được chọn và thánh hiến bởi Thiên Chúa: "Cũng vậy, không phải Đức Kitô đã tự tôn mình làm Thượng Tế, nhưng là Đấng đã nói với Người: Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con, như lời Đấng ấy đã nói ở một chỗ khác: Muôn thuở, Con là Thượng Tế theo phẩm trật Melchizedek." Để hiểu "Thượng Tế theo phẩm trật Melchizedek," chúng ta phải trở về với trình thuật trong Sách Sáng Thế Ký, khi tư tế Melchizedek ra đón và chúc lành cho Abram khi ông thắng trận trở về (Gen 14:18-20), và Abram đã trao lại cho tư tế này một phần mười các chiến lợi phẩm.


(2) Đức Kitô đồng cảm với con người vì Ngài cũng đã trải qua những đau khổ như con người; nên Ngài có thể giúp họ vượt qua các đau khổ trong cuộc sống. Tác giả Thư Do-thái nói rõ về Đức Kitô: "Bởi thế, Người đã phải nên giống anh em mình về mọi phương diện, để trở thành một vị Thượng Tế nhân từ và trung tín trong việc thờ phượng Thiên Chúa, hầu đền tội cho dân.


Vì bản thân Người đã trải qua thử thách và đau khổ, nên Người có thể cứu giúp những ai bị thử thách" (Heb 2:17-18).


(3) Đức Kitô là trung gian giữa Thiên Chúa và loài người: Ngài hòa giải con người với Thiên Chúa bằng cách thanh tẩy con người khỏi mọi tội lỗi.


Sau khi hoàn tất nhiệm vụ trên trần gian, Đức Kitô đã thiết lập thiên chức linh mục để họ tiếp tục sứ vụ của Ngài trên trần gian. Một người đã quảng diễn vai trò trung gian của linh mục như sau: Linh mục là người cầu nguyện và kết hợp với Thiên Chúa trong tuần, để rồi chuyển thông cho dân những gì Thiên Chúa muốn họ làm trong những thánh lễ cuối tuần; vì dân chúng quá bận rộn để mưu kế sinh nhai. Sự hiện diện của linh mục giúp con người nhận ra tình yêu vô biên của Thiên Chúa dành cho con người.


 


3/ Phúc Âm: "Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh!"


 


3.1/ Niềm tin vững mạnh của anh mù: Đức Giêsu và các môn đệ đến thành Jericho. Khi Đức Giêsu cùng với các môn đệ và một đám người khá đông ra khỏi thành Jericho, thì có một người mù đang ngồi ăn xin bên vệ đường, tên anh ta là Bartimê, con ông Timê.


(1) Anh mù chứ không điếc: Anh đã được nghe người ta nói về Đức Giêsu Nazareth. Anh tin vào Ngài. Anh không chút e ngại và biết nắm lấy cơ hội để cầu xin với Ngài: "Lạy ông Giêsu, Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!"


(2) Anh vượt qua sự ngăn cấm của con người: Nhiều người quát nạt bảo anh ta im đi, nhưng anh ta càng kêu lớn tiếng: "Lạy Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!" Họ quát nạt anh có thể vì anh làm chia trí họ không nghe được những lời dạy dỗ của Đức Kitô, hay khinh thường anh vì anh chỉ là người ăn xin bên đường.


Khát vọng mãnh liệt của anh mù được đối diện với Thiên Chúa đã giúp anh vượt qua mọi trở ngại để được gặp Ngài. Chúng ta có một khát vọng mãnh liệt được gặp Chúa Giêsu như anh không? Chúng ta có sẵn sàng vượt mọi trở ngại trong cuộc đời để được đối diện với Ngài?


 


3.2/ Cuộc đối thoại giữa Chúa và anh mù: Thấy niềm tin vững mạnh của anh, Đức Giêsu đứng lại và nói: "Gọi anh ta lại đây!" Người ta gọi anh mù và bảo: "Cứ yên tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy!"


(1) Phản ứng của anh mù rất rõ ràng và quyết liệt qua sự diễn tả của Marcô: Khi được biết Chúa Giêsu cho gọi anh, "anh mù liền vất áo choàng lại, đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giêsu.' Anh không muốn bất cứ sự gì ngăn cản anh trong việc đến với Chúa. Khi nghe Chúa Giêsu hỏi: "Anh muốn tôi làm gì cho anh?" Anh mù đáp không chút do dự: "Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được."


(2) Lòng thương xót của Chúa Giêsu: Người nói: "Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh!" Tức khắc, anh ta nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi.


 


ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:



- Đau khổ xảy ra khi con người lìa xa Thiên Chúa để chạy theo những ảo ảnh của thế gian; để sống hạnh phúc, chúng ta cần phải quay trở về với Thiên Chúa, Người Cha yêu thương chúng ta thực sự.


- Tình yêu Thiên Chúa được biểu lộ qua việc Thiên Chúa chọn các thượng tế giữa con người để họ làm trung gian hòa giải, cầu nguyện, và ban ơn lành của Thiên Chúa cho con người.


- Vị Thượng Tế khôn ngoan, trung thành, và yêu thương chúng ta nhất là Đức Kitô. Chúng ta hãy mạnh dạn chạy đến với Ngài để được tha tội, chữa lành, và lãnh nhận mọi ơn cần thiết cho cuộc sống.

114.864864865135.135135135250