29/01/2013 -

Chia sẻ tin mừng

1541

  Bài đọc: Jer 1:4-5, 17-19; I Cor 12:31-13:13; Lk 4:21-30.


 


 


 Siciliano


Anh Em Nhà Học Đa Minh Gò Vấp chuyển ngữ.


Gần đây, một người bạn đã đề nghị tôi viết và tập trung nhiều hơn vào các bài đọc hai -- thường là các thư Phaolô. Anh ấy nói đúng, tôi nên làm thế. Là người giảng thuyết, tôi cũng cảm thấy cần phải tự chất vấn: “Lần cuối cùng giảng từ thư Phaolô là khi nào?”  Xin lưu ý, tôi không nói: “Giảng về Phaolô” , bởi lẽ như thế sẽ làm cho một trích đoạn Kinh thánh giống như đề tài mà người giảng thuyết cần phải “thảo luận hoặc giải thích” cho những người nghe. Thay vào đó, chúng tôi rao giảng từ Kinh thánh: chúng tôi cầu nguyện, suy tư và nghiên cứu về bài đọc cũng như cộng đoàn mình sẽ rao giảng. Chúng tôi giảng từ những gì mình đã được nghe và diễn giải làm sao cho phù hợp với những thính giả. Chắc chắn ở đây tôi đã để lại sót một điều gì đó, nhưng đây không phải là một khóa học giảng thuyết, đúng không?


Còn nếu chúng ta không phải là những nhà giảng thuyết thì những điều đã nói ở trên cũng vẫn đúng. Học hỏi Kinh thánh là một điều quan trọng. Nhưng chúng tôi muốn tạo một không gian để điều gì đó trong bản văn nói với chúng ta và làm biến đổi cuộc sống chúng ta. Vì thế, chúng ta cũng cầu nguyện và suy tư, ngõ hầu lắng nghe những điều bản văn nói với cuộc sống của mình. Tiếp đó, như những người yêu mến Lời, chúng ta tiếp tục nghiên cứu để tìm hiểu thêm, để có thể trở nên “sứ giả của Lời” và cũng có thể giúp những người khác lớn lên trong tình yêu của họ đối với Thiên Chúa qua Lời.


Phần giới thiệu như thế là đã đủ. Chúng ta hãy đi tiếp đến các nhiệm vụ sau: bài đọc hôm nay trích từ thư I Côrintô. Ngay cả với những người không mấy quen thuộc với thư thánh Phaolô cũng sẽ nhận ra đoạn văn hôm nay, nếu gần đây có tham dự một lễ cưới. Các đôi hôn phối hầu như luôn chọn đọc bài này trong lễ cưới của mình. Khi nghe trích đoạn này trong thư của thánh Phaolô tại một lễ cưới, lẽ thường, chúng ta và mọi người đang trong tâm trạng hạnh phúc và giác ấm áp.


Tuy nhiên, thánh Phaolô đã không viết cho chúng ta, vì thế mà chúng ta thấy thoải mái và ấm áp trong lòng. Với thánh nhân, tình yêu là một thách thức đối với các Kitô hữu trong cuộc sống hằng ngày. Đó không phải là nói, nhưng là làm. Trong khi bài đọc này đánh động lòng người nghe tại lễ cưới, nó cũng là một lời nhắc nhở rằng tình yêu Kitô giáo là một điều cao quý và luôn bao hàm sự hy sinh.


Tôi chọn bài đọc dài. Bài đọc này mở đầu thật phù hợp với câu cuối cùng trong chương 12 (câu 31) với lời hứa: “Nhưng đây tôi xin chỉ cho anh em con đường trổi vượt hơn cả.” Những vấn đề gặp phải trong cộng đoàn Côrintô là về các ơn Chúa Thánh Thần, “charismata”. Cộng đoàn này đang chia rẽ, cùng với việc quá nhấn mạnh đến một số ân huệ của Thánh Thần như thánh Phaolô nêu ra.


Chúng ta sẽ hiểu được bản văn nếu có thể lưu ý đến những điều liên quan đến thời điểm và lý do bức thư này được viết ra. Chúng ta có thể là những người hiện đại và cho rằng mình không có mấy điểm chung với cộng đoàn Côrintô. Xét cho cùng, chúng ta có điện thoại di động, vệ tinh toàn cầu, máy siêu âm cắt lớp (CAT), Internet… Thế thì làm sao chúng ta có thể có điểm nào chung với cộng đoàn Côrintô năm xưa? Bản tính con chẳng hạn! Dường như chúng ta không có thay đổi nhiều so với thời các tác giả Kinh thánh. Ngoài ra, những chia rẽ và vướng mắc trong cộng đoàn chúng ta hiện nay cũng chẳng khác mấy so với các vấn nạn mà các Kitô hữu ở Côrintô đã gặp phải.


Thánh Phaolô nhắc chúng ta nhớ: dẫu có là một người thông thái trong cộng đoàn, một nhà lãnh đạo bẩm sinh, một nhà giảng thuyết đầy sức lôi cuốn thuyết phục, một người điều khiển đội hợp xướng đầy tài năng, một thiên tài tổ chức… thì cũng chẳng là nếu hành động mà không có đức ái. Tôi có thể là một thiên tài và có uy tín trong cộng đoàn hay trong phẩm trật Giáo hội, nhưng nếu không có đức ái, thì “tôi cũng chẳng là gì”.


Chúng ta đã dùng hạn từ “yêu” ở rất nhiều nơi, đúng không? Tôi yêu kem hồ trăn, bơi lội, phim cao bồi, tàu lượn siêu tốc... Tốt thôi, nhưng thánh Phaolô không có ý dùng hạn từ yêu theo những lối này. Thánh Phaolô đã chọn một trong số các thuật ngữ chỉ tình yêu trong tiếng Hylạp. Thánh nhân chọn hạn từ “agape” thể hiện một tình yêu tự do hướng đến tha nhân; dù người ta có đáp trả hay không, thì nó vẫn lôi cuốn và xứng đáng với tình yêu của chúng ta. Đó không phải là tình yêu kiểu tình bạn hoặc là sự hấp dẫn lẫn nhau. Agape là tình yêu vị tha mà Đức Kitô đã chỉ cho chúng ta bằng cái chết của Người trên thập giá; Đó là một tình yêu cao quí đòi hỏi sự trao hiến toàn vẹn con người của ta.


Các sách Tin Mừng viết sau thánh Phaolô đã nói đến hạn từ này. Các tác giả Tin Mừng đã đặt mình và máu trong tình yêu thánh Phaolô nhắc đến. Trong Tin Mừng, tình yêu đã hhiện hữu trong mọi lời nói và hành động của Đức Giêsu: Người tha thứ cho những kẻ bắt bớ; đón tiếp những người xa lạ và tội lỗi đến dùng bữa với Người; mang hy vọng cho những ai chán chường; những lời dạy của Người như ánh sáng xua đi bóng đêm ngu muội; là lý do cho những người đang thất vọng ê chề được hân hoan vui mừng...


Bản liệt kê các hành vi của đức ái dường như bắt nguồn từ một bài thánh ca của các Kitô hữu tiên khởi. Những ngôn ngữ và tình cảm thật đáng yêu, đó là lý do chúng ta thường được nghe bài đọc này trong các lễ cưới. Tuy nhiên, hành động vì tình yêu, theo như cách mà thánh Phaolô mô tả, sẽ đòi hỏi nhiều hơn những nỗ lực của chúng ta. Tình yêu mà Phaolô nói đến (agape), chúng ta chỉ có thể có được nhờ sức mạnh của Thánh Thần. Ngài nói: trong các ân huệ của Chúa Thánh Thần thì đức ái cao trọng hơn cả đối với từng người Kitô hữu cũng như toàn thể cộng đoàn Kitô hữu.


Thánh Phaolô cho hay: hôm nay chúng ta xin ơn đổi mới của Chúa Thánh Thần hầu có thể sống theo “con đường tuyệt vời hơn”. Đôi khi nẻo đường đức ái có những khác thường. Chẳng hạn, một người lính cứu hỏa liều mạng sống mình để cứu một nạn nhân ra khỏi ngôi nhà đang bốc cháy; chồng (vợ) vẫn yêu thương chăm sóc cho người bạn đời của mình bị chứng Alsheimer đã nhiều năm; một bác sĩ từ bỏ một phòng khám đang ăn nên làm ra để đến phục vụ các bệnh nhân ở một nước nghèo; những bậc cha mẹ quyết định vẫn sinh ra và nuôi dưỡng một đứa con mắc phải hội chứng Down; một nữ tu dù ở tuổi 70 bắt đầu che chở bảo vệ cho những người vô gia cư.


Chúng ta cũng hãy khẩn cầu ơn làm tươi mới của Chúa Thánh Thần để ta có thể sống một “con đường tuyệt vời hơn” trong những điều bình dị của cuộc sống vốn đòi hỏi chúng ta một tình yêu trao hiến mỗi ngày để: tôn trọng và đối xử cách công bằng với những người khác biệt với ta; có cặp mắt và đôi tai để đáp lại những người nghèo hèn túng thiếu đang bị gạt ra bên lề xã hội; tha thứ cho những người đã không thành thật với chúng ta; trung thành thực những bổn phận đòi hỏi nhiều thời gian và sức lực cho gia đình của chúng ta; trung thực trong lời nói và việc làm...  


 


 




 Anthony Đinh Minh Tiên, OP


Con người nông nổi thích được khen tặng và những ai ca tụng họ; ngược lại, họ ghét những ai phê bình cho dù biết đó là sự thật. Ngôn sứ được kêu gọi để nói sự thật; vì thế, họ sẽ bị những con người nông nổi ghen ghét và truy tố.


 Các Bài đọc hôm nay tập trung trong sứ vụ của ngôn sứ và những thách đố người ngôn sứ phải đương đầu với. Trong Bài đọc I, Thiên Chúa tuyển chọn ngôn sứ Jeremiah trước khi ông được tạo thành trong dạ mẹ, thánh hóa và trao sứ vụ trước khi ông lọt lòng mẹ. Ngài hứa sẽ bảo vệ và ban chiến thắng nếu ông trung thành với sứ vụ Ngài trao ban. Trong Bài đọc II, thánh Phaolô nêu bật một đức tính quan trọng ngôn sứ phải có là đức mến đối với Thiên Chúa và với tha nhân. Nếu không có đức mến, ngôn sứ không thể chu toàn sứ vụ của mình. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu trở về quê quán Nazareth để rao giảng Tin Mừng. Ngài thách đố những người đồng hương phải thay đổi lối suy nghĩ và cách biểu tỏ niềm tin nơi Thiên Chúa. Hậu quả họ đã không thay đổi, lại còn tức giận toan tính xô Ngài xuống vực thẳm; nhưng Ngài can đảm bước qua giữa họ mà đi.


 KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:


 1/ Bài đọc I: Hãy nói với chúng tất cả những gì Ta sẽ truyền cho ngươi.


 1.1/ Mối liên hệ hai chiều giữa Thiên Chúa và ngôn sứ: Ngôn sứ là người "nói thay" hay là "miệng lưỡi" của Thiên Chúa; chứ không phải là người nói trước hay tiên báo những gì sẽ xảy ra, cho dù nhiều lần những gì ngôn sứ nói được ứng nghiệm trong tương lai. Trong trình thuật hôm nay, ngôn sứ Jeremiah nêu bật những gì liên quan đến ơn gọi làm ngôn sứ.


 (1) Thiên Chúa tuyển chọn và trao sứ vụ cho ngôn sứ: Không ai có thể tình nguyện làm ngôn sứ, nhưng phải được Thiên Chúa tuyển chọn từ khi người đó chưa hình thành trong lòng mẹ: "Trước khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi; trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hoá ngươi, Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho chư dân."


 (2) Ngôn sứ phải can đảm nói những gì Thiên Chúa truyền: Ngôn sứ là phát ngôn viên chính thức của Thiên Chúa; vì thế, ông phải nói những gì Thiên Chúa truyền, chứ không phải những gì ông muốn nói hay thiên hạ thích nghe. Nếu vì bất cứ lý do gì ngôn sứ không nói những gì Thiên Chúa truyền, ông không còn là ngôn sứ của Thiên Chúa: "Hãy nói với chúng tất cả những gì Ta sẽ truyền cho ngươi. Trước mặt chúng, ngươi đừng run sợ; nếu không, trước mặt chúng, chính Ta sẽ làm cho ngươi run sợ luôn."


 1.2/ Thiên Chúa ban ơn và bảo vệ ngôn sứ của Ngài: Thiên Chúa biết rõ những khó khăn ngôn sứ phải đương đầu với, Ngài hứa với ngôn sứ hai điều: (1) Ngài luôn bảo vệ họ khỏi mọi người hãm hại: "Này, hôm nay, chính Ta làm cho ngươi nên thành trì kiên cố, nên cột sắt tường đồng chống lại cả xứ: từ các vua Judah đến các thủ lãnh, các tư tế, và toàn dân trong xứ." (2) Lời hứa chiến thắng: "Chúng sẽ giao chiến với ngươi, nhưng sẽ không làm gì được, vì - sấm ngôn của Đức Chúa - có Ta ở với ngươi để giải thoát ngươi." Nhiều khi Thiên Chúa để các ngôn sứ bị thiệt thân để làm chứng cho Ngài; dẫu vậy, Ngài sẽ cho ngôn sứ được sống lại vinh quang với Ngài sau cái chết ở đời này.


 2/ Bài đọc II: Tôi xin chỉ cho anh em con đường trổi vượt hơn cả: con đường đức mến.


 2.1/ Đức mến là động lực thúc đẩy mọi việc tốt lành: Thánh Phaolô biết con người luôn khát khao được trở nên trọn lành; vì thế, Ngài khuyên các tín hữu Corintô: "Trong các ân huệ của Thiên Chúa, anh em cứ tha thiết tìm những ơn cao trọng nhất. Nhưng đây tôi xin chỉ cho anh em con đường trổi vượt hơn cả." Con đường hoàn hảo nhất Ngài nói ở đây là con đường đức mến: mến Chúa và yêu người. Một người cần phải có nhân đức nền tảng này trước khi có tất cả những điều tốt lành khác. Theo Phaolô, đức mến là ân huệ của Thiên Chúa ban cho con người, chứ không phải nhờ luyện tập mà có. Giống như các nhân đức đối thần, con người phải luyện tập để cho đức mến ngày càng phát triển và đạt tới mức hoàn hảo. Nếu không có nhân đức này, tất cả các ân huệ và các việc tốt lành khác sẽ không phát triển được, và sẽ từ từ biến mất. Thánh Têrêsa Hài Đồng cùng một tư tưởng với Phaolô: nếu không có đức mến, nhiệt thành truyền giáo sẽ tắt ngúm và mong ước tử đạo cũng không còn.


 2.2/ Ngôn sứ không thể thiếu đức mến: Thánh Phaolô quả quyết: "Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì."


 Điều này đúng trong phương diện kỹ thuật: Các chuyên gia không phải chỉ có kiến thức về phương diện chuyên môn; nhưng còn phải có lòng yêu thích lãnh vực đó; nếu không, họ dễ chán nản bỏ cuộc và không dám hy sinh mọi sự cho nghề nghiệp của mình.


 Điều này càng đúng cho các ngôn sứ, họ phải có lòng yêu mến sự thật và mong muốn mang sự thật họ biết về Thiên Chúa cho tha nhân; để tha nhân cũng được giải thoát bởi sự thật. Đức mến là động lực thúc đẩy ngôn sứ thực thi sứ vụ rao giảng Tin Mừng: Mến Chúa là yêu thương tha nhân; nếu không có đức mến, ngôn sứ không thể chu toàn sứ vụ của mình. Ngôn sứ không thể nhìn thấy dân chúng lầm lạc xa Thiên Chúa. Họ không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Ngôn sứ phải kiên nhẫn trong việc đưa tội nhân về cùng Thiên Chúa. Họ rao giảng Tin Mừng không vì lợi lộc thấp hèn, nhưng để đem Tin Mừng cứu độ cho muôn dân. Vì lòng yêu mến Thiên Chúa và tha nhân, ngôn sứ có thể chịu đựng tất cả, miễn sao cho mọi người được hưởng ơn cứu độ.


 2.3/ Đức mến tồn tại muôn đời: Theo Phaolô, đức mến cao trọng hơn cả, vì chỉ có đức mến vững bền mãi mãi. Phaolô lý luận: "Đức mến không bao giờ mất được. Ơn nói tiên tri ư? Cũng chỉ nhất thời. Nói các tiếng lạ chăng? Có ngày sẽ hết. Ơn hiểu biết ư? Rồi cũng chẳng còn. Vì chưng sự hiểu biết thì có ngần, ơn nói tiên tri cũng có hạn. Khi cái hoàn hảo tới, thì cái có ngần có hạn sẽ biến đi."


 Phaolô lý luận tương tự khi so sánh ba nhân đức đối thần: "Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến." Khi con người được về chung hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa, họ không cần đức tin vì được diện kiến Thiên Chúa mặt đối mặt, họ cũng không cần đức cậy, vì họ đang được hưởng những gì bấy lâu nay họ trông cậy; nhưng họ cần đức mến để tiếp tục yêu Thiên Chúa cách nồng nàn.


 3/ Phúc Âm: Không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình.


 3.1/ Người ngôn sứ dám thách thức khán giả đương đầu với sự thật: Trình thuật hôm nay tường trình biến cố Chúa Giêsu về quê Nazareth để rao giảng Tin Mừng cho những đồng hương. Sau khi đã đọc Sách của ngôn-sứ Isaiah, Ngài bắt đầu giảng dạy và nói về sứ vụ ngôn sứ của Ngài: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe." Ngài thách đố khán giả đồng hương trực diện với ba điều quan trọng:


 (1) Niềm tin chỉ đặt căn bản trên phép lạ là niềm tin không chắc chắn: Chúa Giêsu biết người Do-thái thích phép lạ. Họ đã nghe biết những phép lạ Ngài làm; và họ đang mong Ngài làm phép lạ như Ngài đã từng làm ở Capernaum. Chúa Giêsu muốn nhắc nhở họ: tin Thiên Chúa thì quan trọng hơn tin những phép lạ Ngài làm. Phép lạ được làm là để khơi dậy niềm tin; nếu sau khi đã chứng kiến phép lạ mà vẫn không tin, phép lạ mất mục đích của nó. Hơn nữa, niềm tin chỉ dựa trên phép lạ sẽ không vững bền, và sẽ dễ dàng bị mất khi không thấy phép lạ nữa.


 (2) Đừng có thái độ khinh thường những người mình đã quá quen thuộc: Chúa Giêsu nói với họ một sự thật: "Tôi bảo thật các ông: không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình.' Tục ngữ Việt-nam cũng nói lên thói xấu này: "gần chùa gọi bụt bằng anh." Người Do-thái đã quá quen thuộc với Thiên Chúa, nên họ đâm ra khinh thường và không biết nhận ra những hồng ân Ngài đổ xuống trên họ. Con người phải biết thân phận và giới hạn thụ tạo của mình khi đứng trước nhan Thiên Chúa.


 (3) Nhiều Dân Ngoại biểu lộ đức tin vào Thiên Chúa mạnh mẽ hơn người Do-thái: Chúa Giêsu đưa ra hai trường hợp với mục đích nêu bật đức tin của Dân Ngoại: (1) "Vào thời ông Elijah, khi trời hạn hán suốt ba năm sáu tháng, cả nước phải đói kém dữ dội, thiếu gì bà goá ở trong nước Israel; thế mà ông không được sai đến giúp một bà nào cả, nhưng chỉ được sai đến giúp bà goá thành Zareptha miền Sidon." (2) "Cũng vậy, vào thời ngôn sứ Elisha, thiếu gì người phong hủi ở trong nước Israel, nhưng không người nào được sạch, mà chỉ có ông Naaman, người xứ Syria thôi." Bà góa thành Zareptha và ông Naaman được giúp đỡ vì họ đã tin và thi hành những gì các ngôn sứ truyền cho họ phải làm. Người Do-thái đã biết quá nhiều về Thiên Chúa và uy quyền làm phép lạ của Ngài, lẽ ra họ phải biểu lộ đức tin cách chắc chắn hơn Dân Ngoại; nhưng thực tế nhiều lần cho thấy Dân Ngoại biểu lộ niềm tin vào Thiên Chúa cách chắc chắn hơn họ.


 3.2/ Phản ứng của dân chúng: Trình thuật cho chúng ta thấy thái độ nông nổi và dễ dàng thay đổi của dân chúng. Khi mới nghe những gì Chúa Giêsu giảng dạy, "họ thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người." Nhưng sự thật chưa đủ để thuyết phục họ đặt niềm tin vào Chúa Giêsu, họ đang trông chờ Ngài làm phép lạ.


 Sự thật mất lòng, họ tức giận khi bị Chúa Giêsu bắt phải đương đầu với sự thật: "Nghe vậy, mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ." Họ không thể chịu đựng nổi sự xỉ nhục khi nghe Chúa Giêsu so sánh họ với Dân Ngoại; vì họ vẫn tự mãn cho họ là Dân Chúa, là con cháu tổ-phụ Abraham, và xứng đáng được hưởng mọi đặc quyền của Ngài. Dân Ngoại sinh ra để làm nô lệ và không xứng đáng được hưởng ơn cứu độ. Nhưng chỉ có sự thật mới giải thoát: con cái Thiên Chúa mà không tin Thiên Chúa hay ngôn sứ Ngài gởi tới, có xứng đáng làm con cái của Thiên Chúa không? Không những từ chối sự thật, họ còn muốn tiêu hủy Chúa Giêsu, nguồn gốc mọi sự thật và là Người đang nói sự thật cho họ. Giận quá mất khôn: "Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành - thành này được xây trên núi. Họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực."


 Không một chút sợ hãi, "Người băng qua giữa họ mà đi." Khốn thay cho những con người từ chối và tiêu hủy sự thật.


 ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:


 - Tất cả chúng ta đều đã nhận lãnh chức vụ ngôn sứ khi chịu Phép Rửa Tội để rao giảng, sống, và làm chứng cho Tin Mừng.


 - Khi thi hành sứ vụ ngôn sứ, chắc chắn chúng ta sẽ bị thế gian từ khước, truy tố, và ngay cả đe dọa đến tính mạng. Thiên Chúa, Đấng trao ban sứ vụ và thánh hóa ngôn sứ, sẽ tiếp tục ban ơn, bảo vệ, và hứa sẽ giúp ngôn sứ chiến thắng mọi nguy hiểm của thế gian.


 - Đức bác ái là quà tặng Thiên Chúa ban cho các ngôn sứ. Sứ vụ rao giảng sẽ có ngày chấm dứt; nhưng đức bác ái sẽ tồn tại muôn đời.




 


 1/ Bài đọc I: 


 


4 Có lời ĐỨC CHÚA phán với tôi rằng: 5 "Trước khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi; trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hoá ngươi, Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho chư dân." 17Còn ngươi, ngươi hãy thắt lưng. Hãy chỗi dậy! Hãy nói với chúng tất cả những gì Ta sẽ truyền cho ngươi. Trước mặt chúng, ngươi đừng run sợ; nếu không, trước mặt chúng, chính Ta sẽ làm cho ngươi run sợ luôn.18 Này, hôm nay, chính Ta làm cho ngươi nên thành trì kiên cố, nên cột sắt tường đồng chống lại cả xứ: từ các vua Giu-đa đến các thủ lãnh, các tư tế và toàn dân trong xứ. 19 Chúng sẽ giao chiến với ngươi, nhưng sẽ không làm gì được, vì - sấm ngôn của ĐỨC CHÚA - có Ta ở với ngươi để giải thoát ngươi."


 


2/ Bài đọc II: 


 


31 Trong các ân huệ của Thiên Chúa, anh em cứ tha thiết tìm những ơn cao trọng nhất. Nhưng đây tôi xin chỉ cho anh em con đường trổi vượt hơn cả. Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm choẹ xoang xoảng. Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi. Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, 5 không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, 6 không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. 7 Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả. 8 Đức mến không bao giờ mất được. Ơn nói tiên tri ư? Cũng chỉ nhất thời. Nói các tiếng lạ chăng? Có ngày sẽ hết. Ơn hiểu biết ư? Rồi cũng chẳng còn. Vì chưng sự hiểu biết thì có ngần, ơn nói tiên tri cũng có hạn. 10 Khi cái hoàn hảo tới, thì cái có ngần có hạn sẽ biến đi. 11 Cũng như khi tôi còn là trẻ con, tôi nói năng như trẻ con, hiểu biết như trẻ con, suy nghĩ như trẻ con; nhưng khi tôi đã thành người lớn, thì tôi bỏ tất cả những gì là trẻ con. 12 Bây giờ chúng ta thấy lờ mờ như trong một tấm gương, mai sau sẽ được mặt giáp mặt. Bây giờ tôi biết chỉ có ngần có hạn, mai sau tôi sẽ được biết hết, như Thiên Chúa biết tôi. Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến.


 


3/ Phúc Âm: 


 


21 Người bắt đầu nói với họ: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe." 22 Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người. Người nói với họ: "Hẳn là các ông muốn nói với tôi câu tục ngữ: Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình! Tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm tại Ca-phác-na-um, ông cũng hãy làm tại đây, tại quê ông xem nào!" 24 Người nói tiếp: "Tôi bảo thật các ông: không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình. 25 "Thật vậy, tôi nói cho các ông hay: vào thời ông Ê-li-a, khi trời hạn hán suốt ba năm sáu tháng, cả nước phải đói kém dữ dội, thiếu gì bà goá ở trong nước Ít-ra-en; 26 thế mà ông không được sai đến giúp một bà nào cả, nhưng chỉ được sai đến giúp bà goá thành Xa-rép-ta miền Xi-đôn. 27 Cũng vậy, vào thời ngôn sứ Ê-li-sa, thiếu gì người phong hủi ở trong nước Ít-ra-en, nhưng không người nào được sạch, mà chỉ có ông Na-a-man, người xứ Xy-ri thôi." 28 Nghe vậy, mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. 29 Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành - thành này được xây trên núi. Họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực. Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi.


 


 


 

114.864864865135.135135135250