22/04/2016 -

Chuyên đề

1327
Bài chia sẻ của cha Timothy Radcliffe, nguyên Bề trên tổng quyền Dòng Đa Minh, về tình hình gia đình ở châu Âu hiện tại, Vài ngày trước khi công bố tông huấn hậu thượng hội đồng “Amoris Laetitia” về gia đình của Đức giáo hoàng Phanxicô.
 
(Phần 1)

Đâu là lời hy vọng mà Giáo hội trao tặng cho các gia đình ở Âu châu ngày hôm nay ? Giáo hội có một định nghĩa rất hay về gia đình, trích từ sách Giáo lý Hội thánh Công giáo : “Một người nam và một người nữ, kết hiệp với nhau bằng hôn nhân, với các con cái của họ, hình thành nên một gia đình” (§ 2202). Nhưng trong thế giới thực, các gia đình thể hiện dưới muôn vàn hình thức. Một số trong các gia đình này được xây nên từ những người không kết hôn. Có những gia đình chỉ có mẹ hoặc cha, những gia đình ly dị, gộp lại con cái từ những cha mẹ khác nhau, những gia đình không con cái, hay nhận con nuôi, những gia đình đồng tính. Mặt khác, lại còn những gia đình mà cha mẹ có những niềm tin khác nhau, hay một người có niềm tin, còn người kia thì không.
Cần phải thừa nhận rằng các gia đình đã thay đổi rất nhiều trong những thế kỷ qua. Gia đình hạt nhân hiện đại được tập trung trên tình yêu lãng mạn giữa hai người tự do cam kết với nhau , không phụ thuộc sự khác biệt về giai cấp và chủng tộc. Nhưng trong quá khứ, gia đình thường là kết quả của những khế ước được thương lượng để củng cố phe phái hay dòng họ. Đó là những mạng lưới rộng lớn bao gồm hàng trăm người. Mẫu thức thông thường của gia đình trong Giáo hội có phải là mẫu thức Kitô giáo, hay chỉ là một ý niệm hiện đại, tây phương và lãng mạn, hoặc đang trên đường biến mất ?
Giáo hội có thể nói gì với các gia đình này ? Nếu chúng ta bảo vệ lý tưởng của Giáo hội, tức là cặp hôn nhân trung thành cho đến chết, và mong ước có con cái, thì chúng ta có thể nói gì với đa số các gia đình hiện không còn phù hợp với mẫu thức này ? Phải chăng chỉ có những gia đình không mong muốn hay ít nhiều thất bại ? Hay liệu họ có phải trao tặng cho Giáo hội điều gì đó đặc biệt ? Họ có phải là phúc lành cho chúng ta không ?
Đức giáo hoàng Phanxicô đã triệu tập hai Thượng hội đồng Giám mục để trả lời cho những vấn nạn cấp thiết này. Tôi nóng lòng muốn biết ngài nói gì ! Tài liệu này sẽ được công bố trong 3 ngày nữa, vào ngày 8 tháng tư... . Chúng ta cùng cầu xin cho Đức giáo hoàng đồng ý với tôi ! Có lẽ tôi phải lập tức gởi bản văn này cho ngài để ngài có thể sử dụng !
Tôi sắp phải thực hiện một nhiệm vụ khó khăn : một bên là yêu thích gia đình lý tưởng, nói khác đi, là các cặp hôn nhân muốn có con cái. Tôi tin, đó là bối cảnh tốt nhất có thể, ở đó con người có thể triển nở và con cái lớn lên trong hạnh phúc; nếu chúng ta nhân nhượng trước lý tưởng này, những hệ quả đối với nhân loại có nguy cơ trở thành thảm họa. Mặt khác tôi cũng muốn làm nổi bật những gia đình khác, những gia đình chỉ có cha hay chỉ có mẹ, ly dị, tái hôn, v.v.v... Những gia đình này cũng có thể là những nơi của ân sủng. Họ cũng có thể trở thành những dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa. Một tài liệu tuyệt vời, được các giám mục công giáo Hoa Kỳ công bố, Theo con đường tình yêu Suivre le chemin de l'amour…, đã bàn đến những người có hôn nhân thất bại. Xin trích dẫn : “Có lẽ họ cho rằng gia đình của họ thì quá “ốm yếu” để có thể được sử dụng vào việc phục vụ những kế hoạch của Thiên Chúa. Nhưng, xin anh chị em hãy nhớ, một gia đình thánh thiện, không phải bởi vì gia đình ấy hoàn hảo, nhưng bởi vì ân sủng của Thiên Chúa đang hoạt động trong đó, giúp gia đình ấy ngày qua ngày giành lại con đường tình yêu. Mọi gia đình, dù dưới bất cứ hình thức nào, đều có thể là một món quà cho toàn Giáo hội”. Đây là thách đố chúng ta đối diện, tối hôm nay : hết lòng tôn trọng gia đình lý tưởng, đồng thời cũng quảng đại chấp nhận hết mọi gia đình, với tất cả những khác biệt của họ.
Chúng ta đi từ điểm khởi đầu. Chúng ta đọc trong sách Sáng Thế rằng:“Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam, có nữ”(1, 27). Hình ảnh của Thiên Chúa, đó là cặp nam- nữ. Trong chính những mối tương quan của chúng ta, chúng ta là dấu chỉ của cộng đoàn Ba Ngôi. Truyền thống Do thái Kitô giáo luôn phản đối chủ nghĩa cá nhân của xã hội Tây phương hiện đại. Xin tha lỗi cho tôi nếu tôi có bắt đầu bằng một người Pháp, mà người Anh thì lại thích châm chọc người Pháp. Descartes đã có công thức nổi tiếng: “cogito ergo sum”(tôi suy tư nên tôi hiện hữu). Sự hiện hữu của tôi bén rễ trong ý thức chủ quan về cái tôi của tôi. Điều thật sự tạo nên tiền giả định tiêu biểu của thời hiện đại, đó là trước khi là một hữu thể xã hội, tôi là một cá nhân riêng tư. Nếu tôi thắt nối những tình cảm bè bạn hay kết hôn với X, “người tôi là” về căn bản vẫn không có gì thay đổi. Chính Timothy có thể thắt nối hay cắt đứt tình bạn, kết hôn hay ly dị, bởi vì nói cho cùng, tôi là một cá thể đơn độc, đứng bên lề mọi mối tương quan.
Nhưng đối với truyền thống Do thái Kitô giáo, điều ấy không là chi hết. “Chúng ta là, vì thế tôi là”. Summus ergo sum. Nơi những người Zoulous, khi gặp ai đó, họ nói : “Tôi ở đó để được nhìn thấy”. Và người kia trả lời : “Tôi đã thấy anh”, Sawubona. Charles Taylor, triết gia Cadana, xem như đó chính là tâm tình tôi phải có để trở nên vô hình, không được ai biết đến, loại tâm tình sản sinh ra hầu như mọi hình thức bạo lực và chiến tranh. Châu Âu hiện đại có hàng triệu con người cảm thấy mình vô hình, và tự hỏi mình có thực sự hiện hữu không.
Chủ nghĩa cá nhân ở Tây phương thực sự có giá trị và chân lý của nó, bởi vì nó kháng cự cơn cám dỗ muốn nuốt chửng kẻ kia, đối với một bên trong một cặp đôi. Thánh Tôma Aquinô đã có lý khi viết rằng, “trong tình yêu, hai người trở nên một, nhưng vẫn phân biệt nhau”. Tình yêu lành mạnh ở tâm điểm của cuộc hôn nhân liên kết hai người có căn tính không thể tách biệt, tuy nhiên mỗi người vẫn còn là một nhân vị riêng biệt (personne individuelle) : dù thực tế hai người trở nên một, nhưng vẫn phân biệt.
Nhưng phải nói gì về các gia đình với những cặp nam nữ không kết hôn? Ở Pháp, 20% số gia đình chỉ có cha hoặc mẹ. Có lẽ là do hậu quả của cuộc ly dị, ly thân, hay cái chết. Hay có lẽ cha hoặc mẹ kia không được biết đến. Phải chăng những gia đình này là một quà tặng đặc biệt cho chúng ta ? Các giám mục Hoa Kỳ, trong tài liệu đã đề cập, Theo con đường tình yêu, nói với các bậc làm cha mẹ trong những gia đình chỉ có cha hoặc mẹ : “Chúng tôi nhìn nhận lòng can đảm và sự cương quyết của những gia đình chỉ có cha hoặc mẹ để nuôi dạy con cái, như gia đình anh chị em. Một cách nào đó, anh chị em đã thực thi ơn gọi của mình trong việc xây dựng gia đình, chăm sóc con cái, làm một công việc, và cáng đáng những trách nhiệm trong xóm làng và trong Giáo hội. Anh chị em thể hiện quyền lực của đức tin, sức mạnh của tình yêu, và sự chắc chắn rằng Thiên Chúa không bỏ rơi chúng ta khi những hoàn cảnh làm cho người ta phải một mình đảm nhiệm chức năng làm cha mẹ”.
Vì thế chúng ta phải đón nhận giá trị của những gia đình chỉ có cha hoặc mẹ bởi vì họ có điều gì đó đặc biệt để nói với chúng ta về lòng can đảm và sự bền vững của tình yêu. Có lẽ cần trở về với cha/mẹ đơn thân để trở nên cả cha và mẹ. Trong bức tranh nổi tiếng của Rembrandt, đứa con hoang đàng quì gối trước người cha của mình, người cha này có một bàn tay rất nam tính, bàn tay kia rất nữ tính ! Cha/mẹ đơn thân có điều gì dạy chúng ta về Thiên Chúa, Đấng vừa là Cha và là Mẹ của chúng ta. Có thể gắn kết với lý tưởng về cặp đôi mà tuyệt đối không hạ giá gia đình chỉ có cha hoặc mẹ.
Thứ đến, trong trung tâm của nó, gia đình lý tưởng có một sự cam kết bền vững. Đó là dấu chỉ của sự hợp nhất của Đức Kitô với nhân loại trong Giáo hội. Thánh Phaolô viết cho tín hữu Êphêxô : “Vì thế người đàn ông sẽ bỏ cha mẹ, mà gắn bó với vợ mình, và cả hai cùng nên một thân thể. Mầu nhiệm này thật là cao cả ; Tôi muốn nói về Đức Kitô và Giáo hội” (Ep 5,31.32).
Một cặp nam nữ có sự can đảm điên rồ, cứ gọi là thế, khi dám hứa trung thành với nhau cho đến chết. Một tra cứu nhanh trên mạng Internet nói rằng là 55% các cuộc hôn nhân ở Pháp kết thúc bằng ly dị. Trước những đổ vỡ đó, tại sao người ta lại vẫn hứa trung thành với nhau? Người ta nghĩ rằng đôi khi sẽ hợp lý hơn nếu hứa cho một thời gian nào đó, rồi đều đặn đổi mới lại nếu muốn. Nhưng nhờ dấu chỉ về phẩm giá của chúng ta như là con cái của Thiên Chúa, mà chúng ta dám cam kết cho đến chết. Thiên Chúa đã hứa trung tín với chúng ta, và theo đó, chính chúng ta có thể hứa trung thành với nhau. Mỗi Thánh lễ, chúng ta nhắc lại rằng Đức Giêsu đã ban cho chúng ta “chén máu Người, máu giao ước mới và vĩnh cửu sẽ được đổ ra vì chúng ta”. Mỗi lời hứa trong hôn nhân là dấu chỉ của “giao ước mới và vĩnh cửu này”.



Hầu như mọi cuộc hôn nhân đều trải qua những cơn khủng hoảng, trong đó người ta có cảm tưởng rằng mối tương quan đang trên bờ tan vỡ. Nhưng đó lại chẳng phải là điều đã xảy ra vào Bữa Tiệc Ly ? Đó là cơn khủng hoảng trầm trọng nhất trong lịch sử Giáo hội, thời điểm đen tối nhất, khi mà tất cả mọi người chuẩn bị chạy trốn, lúc Đức Giêsu sắp phải chịu đau khổ và chết. Cộng đoàn nhỏ bé của Người, tức là Giáo hội, có vẻ như không còn thấy tương lai. Và vì thế, chính trong cơn khủng hoảng này, cơn khủng hoảng sâu sắc nhất, mà Người thiết lập giao ước mới. “Đây là Mình Thầy, bị nộp vì anh em”. Thánh thể là dấu chỉ người ta vẫn có thể hy vọng, ngay cả khi dường như không có tương lai nào cho một cuộc hôn nhân, khi hôn nhân bị bào mòn bởi thất bại và phản bội.
Không có lý do gì để sợ hãi cơn khủng hoảng cùng với những người thân thiết nhất của chúng ta. Rất thường, chính khủng hoảng lại dẫn chúng ta đến sự đổi mới. Toàn bộ lịch sử Israel là lịch sử của những cơn khủng hoảng nối tiếp nhau. Trục xuất khỏi vườn địa đàng để bắt đầu, đại hồng thủy, tháp Babel, lưu đày, phá hủy Vương quốc và Đền thờ, và cuối cùng là Thập giá. Tất cả thường có vẻ như đang trên bờ vực tàn lụi. Nhưng từ cơn khủng hoảng này đến cơn khủng hoảng khác, Thiên Chúa tỏ ra gần gũi hơn.
Tất cả chúng ta đều biết đến khủng hoảng trong cuộc đời. Vấn đề là chúng có khả năng sinh hoa trái với ân sủng của Thiên Chúa không? Vì điều này, chúng ta ta dám hứa trung thành, thậm chí trong khi khủng hoảng đang diễn ra, chúng ta biết điều đó. Tôi nói điều này với các anh em Đa Minh ở Hoa Kỳ, và lập tức, họ tặng tôi một cái áo Tshirt với dòng chữ : “Chúc anh có cơn khủng hoảng tốt”. Than ôi, sau mấy lần giặt, nó có vẻ như co lại, và tôi không còn có thể chui đầu vào được nữa! Nghiêm túc hơn. Tại trung tâm cuộc cam kết giữa hai người, người ta tìm thấy lời tha thứ. Vào lúc đọc Kinh nguyện Thánh thể, chúng ta tưởng nhớ “máu giao ước mới và vĩnh cửu sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được tha tội. Các con hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy”. Cặp đôi trung tín là chứng từ cho lời hứa tha thứ này.
Nhưng mọi cuộc hôn nhân không thể tồn tại trong cơn khủng hoảng này; chúng gãy đổ. Biết bao người, đầy tin tưởng và hy vọng, cưới nhau và hứa chung thủy, thế mà hôn nhân của họ không bền vững. Cũng vậy, nhiều linh mục và tu sĩ đáng kính đã tuyên khấn cho đến chết, usque ad mortem, nhưng đã hồi tục. Tuy nhiên, các lời khấn không vì thế mà mất đi ý nghĩa. Nếu chúng ta dám đọc nên lời hứa, thì đó không phải là chúng ta xác tín vào sức mạnh của mình, nhưng là chúng ta khao khát sống trung tín, vốn là tâm điểm của toàn bộ tình yêu. Tình yêu là một sự tham dự vào Thiên Chúa, Đấng trung tín với chúng ta mãi mãi ; mọi tình yêu đích thực đều khao khát sự vĩnh cửu. Thậm chí tình yêu của chúng ta có lụi tàn, có lẽ không có lỗi từ phía chúng ta, thì những lời khấn của chúng ta diễn tả điều gì đó đã là và đang là chân thật.
Lịch sử của mối tương quan yêu đương của Thiên Chúa với Israel chỉ cho thấy một Thiên Chúa luôn trung tín với chúng ta, ngay cả khi chúng ta không trung thành với Thiên Chúa. Đức Giêsu ký kết giao ước vĩnh cửu của Người với chúng ta vào chính lúc các môn đệ đang từ chối Người. Giuđa phản bội Người, và Phêrô sắp chối bỏ. Các môn đệ khác sắp phân tán. Cũng vậy, viên đá mà trên đó Giáo hội được xây dựng là Phêrô, người mà trước tiên là bất trung với Đức Giêsu, rồi, dần dần, học trung tín với lời của Người. Phêrô là dấu chỉ của niềm hy vọng cho tất cả chúng ta. Giáo hội là cộng đoàn của con cái Chúa, mà chúng ta là thành phần, ngay cả khi chúng ta vẫn thường bất trung với nhau và với Chúa.
Jean Paul Vesco, tu sĩ Đa Minh người Pháp, là giám mục địa phận Oran, Angeria. Trong cuốn sách nhỏ tuyệt vời, Tout Amour véritable est indissoluble – Mọi Tình Yêu đích thực thì bất khả phân ly, ngài khẳng định rằng những người có cuộc hôn nhân đầu tiên bất hạnh và những ai tái hôn có thể là dấu chỉ của niềm hy vọng cho Giáo hội. Hôn nhân của họ không tồn tại, có thể không hay ít do lỗi của họ. Tuy nhiên, họ thành công trong việc xây dựng lại và tìm thấy phương thế sống mới trong tình yêu. Xin trích dẫn: “Người ta không chỉ chọn việc tái hôn, người ta chọn tìm lại con đường sống sau một thất bại đau đớn của con người mà trong đó người ta có thể có một phần trách nhiệm”.
Thay vì nhìn những người tái hôn như những người Kitô hữu thứ cấp, chúng ta phải vui mừng vì sự thất bại đau đớn này đã không phá hủy họ. Với ân sủng của Thiên Chúa, họ đã tìm lại được tình yêu, và tình yêu thứ hai này có những cơ hội kéo dài và có được tính bất khả phân ly riêng của nó. Đối với Giáo hội, họ là dấu chỉ cho thấy đau khổ và sự tỉnh ngộ không phải là điều cuối cùng. Chúng ta phải xem họ như điều quý báu và quan trọng. Như tất cả chúng ta, họ cần đến phương dược là Thánh Thể. Chúng ta có thể niềm nở đón tiếp những người tái hôn, và tôn trọng bản cam kết thứ hai của họ, không phải vì thế mà hạ giá những cuộc hôn nhân bền vững. Trong truyền thống Chính thống giáo, người ta có thể chấp nhận và chúc lành cho những cuộc hôn nhân thứ hai, nhưng không trình bày chúng như những bí tích, xét nhưdấu chỉ về cuộc hôn nhân giữa Đức Kitô và Giáo hội. Theo tôi, dường như đó là một con đường tốt để chúng ta đi theo.
Đôi vợ chồng giới thiệu đặc tính thứ ba, xứng đáng với một cuộc hội thảo, thậm chí là một cuốn sách. “Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam, có nữ”(St 1,27). Chúng ta là hình ảnh của Thiên Chúa trong sự hiểu biết của chúng ta về sự khác biệt giới tính.

(Còn nữa)
 
Toulouse, 13/04/2016

Chuyển ngữ: GB Phạm Hoàng Dũng, OP.
 
 
 
 
 
Ngày 6 tháng tư năm 2016 vừa qua, Decere đón tiếp cha Timothy Radcliffe, nguyên Bề trên tổng quyền Dòng Đa Minh. Vài ngày trước khi công bố tông huấn hậu thượng hội đồng “Amoris Laetitia” về gia đình của Đức giáo hoàng Phanxicô, cha Timothy chia sẻ với chúng ta cái nhìn của ngài về tình hình gia đình ở châu Âu hiện tại. (Bản chính tiếng Pháp có thể tìm thấy trên web site : http://www.decere.eu/?p=361) Trên đây là toàn văn bài thuyết trình của ngài .
114.864864865135.135135135250